MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ LẠM PHÁT 3
1.1. Khái niệm và phân loại 3
1.2. Phân loại lạm phát 4
1.2.1. Tiêu chí định lượng 4
1.2.2. Theo tiêu chí định tính 5
1.3. Nguyên nhân gây ra lạm phát 6
1.3.1 Cung ứng tiền và lạm phát 8
1.3.2 Chỉ tiêu công ăn việc làm cao và lạm phát 11
1.3.3. Lạm phát cầu kéo 11
1.3.4. Lạm phát chi phí đẩy 13
1.3.5. Lạm phát do thâm hụt ngân sách 14
1.3.6. Lạm phát theo tỉ giá hối đoái 15
1.4. Tác động của lạm phát 16
1.4.1. Lạm phát đối với lĩnh vực sản xuất: 16
1.4.2. Lạm phát đối với lĩnh vực lưu thông: 16
1.4.3. Lạm phát đối với lĩnh vực tiền tệ, tín dụng: 16
1.4.4. Lạm phát đối với chính sách kinh tế tài chính của nhà nước: 17
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG KIỂM SOÁT LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM 18
2.1. Giai đoạn 1986- 1993 18
2.1.1 Tình hình kinh tế và nguyên nhân gây ra lạm phát 18
2.1.1.1 Tình hình kinh tế: 18
2.1.1.2 Nguyên nhân dẫn đến lạm phát: 19
2.1.1.3 Các biện pháp kiểm soát lạm phát trong giai đoạn này 21
2.1.1.3.1Chính sách tiền tệ 21
2.1.1.3.2 Chính sách tài chính 22
2.2. Giai đoạn 1994-1998 23
2.2.1 Tình hình kinh tế và nguyên nhân gây ra lạm phát 23
2.2.2. Các biện pháp kiểm soát lạm phát trong giai đoạn này 24
2.3. Giai đoạn từ 1999 đến nay 25
2.3.1. Giai đoạn 1999-2001 25
2.3.1.1. Tình hình kinh tế và nguyên nhân gây ra lạm phát 25
2.3.1.2. Những biện pháp nhằm nâng cao sức mua của các tầng lớp dân cư(tăng cầu) 28
2.3.1.3. Những biện pháp tăng cường đầu tư, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh( tăng mức cung hàng hóa và dịch vụ ) 29
2.3.2. Giai đoạn 2002 đến nay 31
2.4. Đánh giá tình hình kiểm soát lạm phát ở Việt Nam trong thời gian qua 32
2.4.1. Những thành công 32
2.4.2. Hạn chế và nguyên nhân 34
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ VÀ KIỂM SOÁT LẠM PHÁT ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 35
3.1. Mục tiêu và biện pháp khắc phục, kiểm soát lạm phát 35
3.2. Một số biện pháp góp phần kiềm chế và kiểm soát lạm phát đối với nền kinh tế Việt Nam 37
KẾT LUẬN 39
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
42 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1678 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Một số biện pháp nhằm kiềm chế và kiểm soát lạm phát ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đó tạo thành vòng xoáy lượng giá.
Một yếu tố chi phí chính khác là giá cả nguyên vật liệu đặc biệt là dầu thô. Trong năm 1972 - 1974 hầu như giá dầu quốc tế tăng 5 lần dẫn đến lạm phát tăng từ 4,6% đến 13,5% bình quân trên toàn thế giới.
Ngoài ra sự suy sụp của giá dầu (1980) làm cho lạm phát giảm xuống mức thấp chưa từng thấy.
Bên cạnh những yếu tố gây nên lạm phát đó là giá nhập khẩu cao hơn được chuyển cho người tiêu dùng nội địa. Nhập khẩu càng trở nên đắt đỏ khi đồng nội tệ yếu đi hoặc mất giá so với đồng tiền khác. Ngoài ra yếu tố tâm lý dân chúng, sự thay đổi chính trị, an ninh quốc phòng... Song nguyên nhân trực tiếp vẫn là số lượng tiền tệ trong lưu thông vượt quá số lượng hàng hoá sản xuất ra. Việc tăng đột ngột của thuế (VAT) cũng làm tăng chỉ số giá.
y
y
y1
y0
y0
y*
y*
AD1
AD0
P
P1
P0
E1
E0
E0
ASSL
ASRL
P1
P0
E1
ASLR
AD
P
ASSR1
ASSR2
Chi tiêu quá khả năng cung ứng
- Khi sản lượng vượt tiềm năng đường AS có độ dốc lớn nên khi cầu tăng mạnh, AD - AD1, giá cả tăng P0 - P1
Chi phí tăng đẩy giá lên cao
- Cầu không đổi, giá cả tăng sản lượng giảm xuống Y0 - Y1
AS1 - AS2
Theo cách phân tích của Keynes, những chính sách tài chính luôn có những giới hạn của nó, nên mặc dù những chính sách này cũng gây ra những tác động làm tăng tổng cầu nhưng đó chỉ là từng đợt không thể sử dụng trong thời gian dài. Như vậy, nó không thể được sử dụng để dịch chuyển liên tục đường tổng cầu. Việc dịch chuyển liên tục đường tổng cầu chỉ có thể là việc tăng cung ứng tiền liên tục, do đó lạm phát chi phí đẩy cũng là một hiện tượng tiền tệ.
1.3.5. Lạm phát do thâm hụt ngân sách
Trong những phân tích trước đây, chúng ta thấy rằng lạm phát chỉ có thể mở rộng khi lượng tiền tăng lên liên tục. Một thâm hụt ngân sách được trang trải bằng việc in thêm tiền có thể tạo ra lạm phát không ? câu trả lời là có nếu thâm hụt đó xảy ra trong một thời gian khá dài.
Chính phủ có thể khắc phục tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước bănngf niện pháp phát hành trái phiếu chính phủ ra thị trường để vay vốn trong dân chúng, bù đắp cho phần bị thiếu hụt. Biện pháp này không nhả hưởng đến cơ số tiền tệ và do đó, không tăng cung ứng tiền tệ và không gây ra lạm phát. Một biện pháp khác chính phủ có thể sử dụng bù đắp cho thâm hụt ngân sách nhà nước đó là phát hành tiền. Biện pháp này trực tiếp làm tăng thêm cơ số tiền tệ, do đó tăng cung ứng tiền tệ, đẩy tổng cầu lên cao và làm tăng tỉ lệ lạm phát. Tuy nhiên,ở các nước đang phát triển, do thị trường vốn bị hạn chế nên việc phát hành trái phiếu Chính phủ nhằm bù đắp cho thiếu hụt nngân sách nhà nước là rất khó thực hiện. Đối với các quốc gia này, con dường duy nhất đối với họ đó là “in thêm tiền”. Vì thế, khi tỉ lệ thâm hụt nhân sách nhà nước của các quốc gia đó tăng cao thì tiền tệ cũng sẽ tăng nhanh và lạm phát tăng. ở các nước kinh tế phát triển, thị trường vốn phát triển, vì vậy một khối lượng lớn trái phiếu Chính phủ có thể bán ra và nhu cầu trang trải cho thâm hụt ngân sách nhà nước thực hiện từ nguồn vốn vay của Chính phủ. Tuy nhiên nếu Chính phủ cứ tiếp tục phát hành trái phiếu ra thị trường, cầu về vốn vay sẽ tăng và do đó, lãi suất sẽ tăng cao. Để hạn chế việc tăng lãi suất trên thị trường, ngân hàng Trung ương sẽ phải mua vào các prái phiếu đó, điều này lại cho cung tiền tệ tăng.
Do vậy, trong mọi trường hợp, tình trạng thâm hụt ngân sáchnhà nước cao, kéo dài sẽ là nguồn gốc tăng cung ứng tiền gây ra lạm phát.
1.3.6. Lạm phát theo tỉ giá hối đoái
Tỉ giá hối đoái giữa đồng nội tệ so với đơn vị tiền tệ nước ngoài tăng cũng là nguyên nhân gây ra lạm phát.
Khi tỉ giá tăng, đồng nội tệ mất giá, trước hết nó tác động lên tâm lý của người sản xuất trong nước, muốn kéo giá cả lên cao theo mức tăng của tỉ giá hối đoái.
Thứ hai khi tỉ giá hối đoái tăng, giá nguyên liệu, hàng hóa nhập khẩu cũng tăng cao, đẩy chi phí nguyên liệu tăng lên, lại quay trở về lạm phát chi phí đẩy như đã phân tích trên đây. Việc tăng giá cả của nguyên liệu và hàng hóa nhập khẩu thường gây ra phản ứng dây chuyền, làm tăng giá cả ở rất nhiều hàng hóa khác, đặc biệt là các hàng hóa của những ngành có sử dụng nguyên liệu nhập khẩu và những ngành có mối liên hệ chặt chẽ với nhau.
1.4. Tác động của lạm phát
Lạm phát có nhiều loại, cho nên cũng có nhiều mức độ ảnh hưởng khác nhau đối với nền kinh tế. Xét trên góc độ tương quan, trong một nền kinh tế mà lạm phát được coi là nỗi lo của toàn xã hội và người ta có thể nhìn thấy tác động của nó.
1.4.1. Lạm phát đối với lĩnh vực sản xuất:
Đối với nhà sản xuất, tỷ lệ lạm phát cao làm cho giá đầu vào và đầu ra biến động không ngừng, gây ra sự ổn định giả tạo của quá trình sản xuất. Sự mất giá của đồng tiền làm vô hiệu hoá hoạt động hạch toán kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh - sản xuất ở một vài danh nghiệp có thể thay đổi, gây ra những xáo động về kinh tế. Nếu một doanh nghiệp nào đó có tỷ suất lợi nhuận thấp hơn lạm phát sẽ có nguy cơ phá sản rất lớn.
1.4.2. Lạm phát đối với lĩnh vực lưu thông:
Lạm phát thúc đẩy quá trình đầu cơ tích trữ dẫn đến khan hiếm hàng hoá. Các nhà doanh nghiệp thấy rằng việc đầu tư vốn vào lĩnh vực lưu thông. Thậm chí khi lạm phát trở nên khó phán đoán thì việc đầu tư vốn vào lĩnh vực sản xuất sẽ gặp phải rủi ro cao. Do có nhiều người tham giâ vào lĩnh vực lưu thông nên lĩnh vực này trở nên hỗn loạn. Tiền ở trong tay những người vừa mới bán hàng xong lại nhanh chóng bị đẩy vào kênh lưu thông, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng vọt và điều này làm thúc đẩy lạm phát gia tăng.
1.4.3. Lạm phát đối với lĩnh vực tiền tệ, tín dụng:
Lạm phát làm cho quan hệ tín dụng, thương mại và ngân hàn bị thu hẹp. Số người gửi tiền vào ngân hàng giảm đi rất nhiều. Về phía hệ thống ngân hàng, do lượng tiền gửi vào giảm mạnh nên không đáp ứng được nhu cầu của người đi vay, cộng với việc sụt giá của đồng tiền quá nhanh, sự điều chỉnh lãi suất tiền gửi không làm an tâm những người hiện đang có lượng tiền mặt nhàn rỗi trong tay. Về phía người đi vay, họ là những người có lợi lớn nhờ sự mất giá đồng tiền một cách nhanh chóng. Do vậy, hoạt động của hệ thống ngân hàng không còn bình thường nữa. Chức năng kinh doanh tiền bị hạn chế, các chức năng của tiền tệ không còn nguyên vẹn bởi khi có lạm phát thì chẳng có ai tích trữ của cải hình thức tiền mặt.
1.4.4. Lạm phát đối với chính sách kinh tế tài chính của nhà nước:
Lạm phát gây ra sự biến động lớn trong giá cả và sản lượng hàng hoá, khi lạm phát xảy ra những thông tin trong xã hội bị phá huỷ do biến động của giá cả làm cho thị trường bị rối loạn. Người ta khó phân biệt được những doanh nghiệp làm ăn tốt và kém. Đồng thời lạm phát làm cho nhà nước thiếu vốn, do đó nhà nước không còn đủ sức cung cấp tiền cho các khoản dành cho phúc lợi xã hội bị cắt giảm... các ngành, các lĩnh vực dự định đựơc chính phủ đầu tư và hỗ trợ vốn bị thu hẹp lại hoặc không có gì. Một khi ngân sách nhà nước bị thâm hụt thì các mục tiêu cải thiện và nâng cao đời sống kinh tế xã hội sẽ không có điều kiện thực hiện được.
CHƯƠNG II THỰC TRẠNG KIỂM SOÁT LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM
2.1. Giai đoạn 1986- 1993
2.1.1 Tình hình kinh tế và nguyên nhân gây ra lạm phát
2.1.1.1 Tình hình kinh tế:
Sau khi thống nhất đất nước, chúng ta thiếu nhiều kinh nghiệm trong thời bình nên duy trì quá lâu cơ chế thời chiến tập trung quan liêu bao cấp toàn diện, không mở rộng sản xuất hàng hoá. XHCN không tiến hành hạch toán kinh doanh nên đã tự gây cho mình nhiều khó khăn, sản xuất không đủ tiêu dùng, ngân sách không đủ chi tiêu, lạm phát tiền giấy liên tục và bùng nổ dữ dội tới 3 con số. Nhưng kể từ năm 1999 đến nay với sự chỉ đạo đúng đắn của nhà nước thì lạm phát hiện nay chỉ còn dừng lại ở mức độ tốt cho sự phát triển nền kinh tế tức là chỉ ở mức 15-17% có thể nói đây cũng là một thành công không nhỏ của nhà nước ta.
Năm 1985, Gorbacher đã nên nắm chính quyền tại Liên xô, cùng với sự sụp đổ của các nước Đông Âu cũ, Việt Nam bị cắt giảm nguồn viện trợ từ nước ngoài và đến năm 1991 thì bị cắt hẳn. Do đó, gic nguyên vật liệu đầu vào như sắt thép, dầu hỏa, máy móc thiết bị. . . . Việt Nam hoàn toàn phải mua với giá cao làm cho chi phí sản xuất tăng nhanh. Lạm phát chi phí đẩy xảy ra.
Khi lạm phát chi phí đẩy xảy ra, càng đẩy các doanh nghiệp sản xuất gặp khó khăn và để hỗ trợ nền sản xuất trong nước, đặc biệt là các xí nghiệp quốc doanh, Chính phủ Việt Nam lại in thêm tiền làm tăng mức cung ứng tiền trong nền kinh tế lại dẫn đến lạm phát tiền tệ, điều đó càng đẩy tỉ lệ lạm phát lên cao.
Đồng thời năm 1985, Việt Nam thực hiện cuộc cải cách giá, tiền lương, tiền mà đỉnh cao là sự kiện đổi tiền vào tháng 9 và lạm phát cũng bùng nổ ngay sau đó. Năm 1986 chúng ta đã rơi vào tình trạng siêu lạm phát với ba chữ số 775% vào năm 1986 trong khi đó tăng trưởng kinh tế chỉ ở mức 2,33%.
Đến năm 1987 do thiên tai, sản lượng lương thực cuối năm giảm 3,5% và đầu năm 1988 một số địa phương miền Bắc bị đói, giá cả lên cao, lạm phát chi phí đẩy lại tiếp diễn.
Đứng trước tình hình đó, dân chúng tích trữ hàng hóa, lương thực, vàng và đô la càng nhièu vì lo sợ rằng đồng Việt Nam sẽ còn mất giá tạo nên cầu giả tạo, giá cả tăng cao dẫn đến lạm phát cầu kéo, với tỉ lệ lạm phát là 223,1%, mức tăng trưởng GDP chỉ là 3,78%.
Từ năm 1989 đến năm 1991, lạm phát tuy có giảm nhưng vẫn còn khá cao với mức tăng 67% liên tiếp trong hai năm 1990 và 1991, phải từ năm 1992 trở đi tình hình mới lắng dịu và tạm ổn định cho đến năm 1995.
Như vậy, trong giai đoạn này lạm phát xảy ra ban đầu là do chi phí đẩy, sau đó là do tăng mức cung ứng tiền, năm 1987 lại là lạm phát chi phí đẩy, tiếp tục sau đó lạm phát cầu kéo xảy ra.
Năm
1986
1987
1988
1989
1990
1991
1992
Tăng trưởng(%)
2,33
3,78
5,1
8
0,1
6
8,6
Lạm phát(%)
748
223,1
394
34,7
67,4
67,6
17,6
Bảng tỉ lệ tăng trưởng và tỉ lệ lạm phát các năm trong giai đoạn 1986-1992
2.1.1.2 Nguyên nhân dẫn đến lạm phát:
Nhìn vào quá trình trên ta có thể rút ra 5 nguyên nhân chính dẫn đến lạm phát của nền kinh tế Việt Nam giai đoạn này:
Thứ nhất: Nguyên nhân của lạm phát từ trong chính các thể chế kinh tế quan liêu bao cấp mệnh lệnh, đóng cửa... thể chế này hướng nền kinh tế Việt Nam phát triển các ngành có chi phí cao, tách rời cầu thị trường, cô lập với thế giới bên ngoài dẫn đến sự mất cân đối giữa cung và cầu, thu và chi ngân sách... thể hiện nền kinh tế thích xu hướng phát triển kém hiệu quả, các xi nghiệp làm ăn thua lỗ... Đó là nguyên nhân sâu xa đưa nền kinh tế lâm vào lạm phát phi mã.
Thứ hai: Do điều hành sai lầm của bộ máy nhà nước, như xác định cơ cấu không xuất phát từ hiệu quả. Sự đổi tiền và tăng giá năm 1985 là chính sách phá giá đồng tiền, làm giảm niềm tin của dân vào đồng tiền của nhà nước. Chính sách lãi suất thấp so với mức trượt giá làm cho người dân không muốn g ửi tiết kiệm. Sự mất cân đối tài chính gây lạm phát qua kênh tín dụng, ngân hàng nhà nước luôn phải phát hành tiền để cân đối các nguồn vốn cho vay của ngân hàng, đáp ứng yêu cầu của các ngành kinh tế và xây dựng cơ bản ngày càng tăng. Nhà nước lại không chủ động được việc cung cầu hàng hoá, gây ra sự rối loạn trên thị trường, giá cả thay đổi một cách bất hợp lý so với giá quốc tế. Mặt hàng giá cả bị nhích lên do cơn sốt xi măng, thép, xăng dầu, vàng và ngoại tệ.
Thứ ba: Cho đến nay, xương sống của nền kinh tế Việt Nam vẫn là các doanh nghiệp. Những doanh nghiệp này đóng góp 37% vào ngân sách nhà nước. Trong số gần 6000 doanh nghiệp nhà nước thì chỉ riêng 18 tổng công ty lớn với hơn 300 thành viên đã đóng góp trên 70% tổng nộp ngân sách của khu vực kinh tế quốc doanh. Việc làm ăn của nhiều công ty xuất nhập khẩu hàng năm nhà nước phải bù lỗ, bù giá quá lớn có năm chiếm gần 40% tổng số chi cho ngân sách, không những không làm thêm mà còn phải chi ra.
Thứ tư: Môi trường đầu tư chậm được cải tiến, tích luỹ ở trong nước còn ở mức thấp, mới ở khoảng 25 ¸ 26% GDP. Đầu tư những công trình có vốn lớn, thời gian thi công kéo dài quá sức chịu đựng của nền kinh tế trong lúc đó nguồn thu hạn hẹp, thất thu lớn. Tình hình đó làm cho nguồn tài chính quốc gia bị thâm hụt, không còn cách nào khác buộc nhà nước phải in tiền giấy bù đắp, vì vậy đã gây ra lạm phát tiền giấy.
Thứ năm: Nguyên nhân từ cơ chế kinh tế độc quyền mà nhà nước có vị trí thống trị trên mọi lĩnh vực: Cơ chế quan liêu bao cấp nặng nề. Nhà nước can thiệp sâu vào các hoạt động của nền kinh tế. Các quan hệ tiền tệ không được phát huy một cách đầy đủ tác dụng kích thích, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Quy luật giá trị vi phạm một cách nghiêm trọng. Các nhà lãnh đạo đầy tham vọng muốn kiểm soát toàn bộ các cơ sở kinh tế quốc dân bằng kế hoạch hoá tập trung.
Cùng với những yếu kém của nền kinh tế, chúng ta còn đứng trước tác động mạnh mẽ của cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính, tiền tệ đang diễn ra trên thế giới." Đó sẽ là những thách thức lớn đối với chúng ta trong quá trình thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010.
2.1.1.3 Các biện pháp kiểm soát lạm phát trong giai đoạn này
Như trên chúng ta thấy tình hình kinh tế của nước ta từ năm 1988 đã có những bước khả quan hơn, lạm phát đã giảm từ mức siêu lạm phát xuống còn hai chữ số, đặc biệt từ năm 1992 giảm xuống 17,6% và đến năm 1993 tỉ lệ lạm phát giảm xuống một chữ số là 5,2%. Điều này cho thấy nước ta đã có những biện pháp tương đối có hiệu quả để kiềm chế và kiểm soát lạm phát cũng như thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
2.1.1.3.1Chính sách tiền tệ
Chính sách về lãi suất thực hiện chính sách lãi suất thực dương (lãi suất thực= lãi suất danh nghĩa-tỉ lệ lạm phát ), tức là nâng lãi suất tiết kiệm lớn hơn tỉ lệ lạm phát nhằm thu hồi lượng tiền trong lưu thôngvề.
Tuy nhiên, do lãi suất tiết kiệm cao nên khối lượng tiền tệ thu về không tiêu thụ được vì các doanh nghiệp sản xuất không thể sản xuất kinh doanh với lãi suất cho vay cao như vậy. Do vậy sản xuất bị thu hẹp, nền kinh tế không phát triển, thất nghiệp tăng. Lúc này cách giải quyết thất nghiệp ở nước ta là NHNN từng bước giảm dần la cho vay thông qua việc giảm dần la huy động từ 12% xuống 9% rồi 6%/năm; 1,4% xuống 0,9% rồi 0,85%/ tháng.
Chính sách về tỉ giá hối đoái
NHNN có bước tiến quan trọng trong điều chỉnh tỉ giá hối đoái cho phù hợp với nhu cầu của thị trưòng. Tỉ giá hối đoái trước đây chỉ sử dụng cho mực đích kế toán chứ không phản ánh đúng các khoản chi phí thực tế. Việc áp dụng tỉ giá hối đoái thực tế đã làm cho người dân không còn tích trữ hàng hóa, vàng, đô la mà bắt đầu tích lũy bằng đồng nội tệ.
Từ năm 1990, NHNN đã cải cách mạnh mẽ việc xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ. Đã xác định được khối lượng tiền cung ứng hàng nămphù hợp với múc tiêu tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát. Đồng thời, NHNN đã lựa hcọn sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ phù hợp với hoàn cảnh thực tế, chủ động điều hành mức cung ứng tiền một cách linh hoạt. Do vậy đã cung ứng đủ phương tiện thanh toán đảm bảo sản xuất, lưu thông không bị ách tắc,kinh tế tăng trưởng, đẩy lùi được siêu lạm phát.
2.1.1.3.2 Chính sách tài chính
Giảm chi tiêu của Chính phủ
Năm 1989, Việt Nam rút quân khỏi Campuchia đã làm giảm chi tiêu của Chính phủ vào quốc phòng. Cùng thời gian này các đơn vị kinh tế quốc doanh làm ăn không hiệu quả bị giải thể. Kết quả là chi tiêu của Chính phủ đã giảm nhiều, tổng cầu giảm, giá cả giảm, lạm phát giảm xuống.
Giảm lượng tiền cung ứng cho thâm hụt ngân sách
Bắt đầu từ năm 1991, thâm hụt ngân sách được trang trải bằng cách phát hành trái phiếu thay vì in thêm tiền như trước đây. Vì thế, mức cung ứng tiền giảm xuống, lạm phát cũng giảm đi. Năm 1992 tỉ lệ lạm phát chỉ là 17,6% so với năm 1991, đặc biệt là năm 1993 chỉ còn lại là 5,2%.
2.2. Giai đoạn 1994-1998
Vào năm 1993, mặc dù lạm phát đã giảm xuống một chữ số nhưng những tiến bộ vượt bậc đó đã không thể duy trì được và củng cố bằng những chính sách tài chính và chính sách tiền tệ thận trọng nên đén năm 1994 tỉ lệ lạm phát lại tăng lên mức 14,4%.
2.2.1 Tình hình kinh tế và nguyên nhân gây ra lạm phát
Tình hình kinh tế trong giai đoạn này đã có những thay đổi đáng kể, vì vậy lạm phát xảy ra đã phản ánh được hậu quả tất yếu của tình hình lúc bấy giờ.
Trước hết, lạm phát xảy ra là do hiện tượng cầu kéo : Đến năm 1993, cùng với việc đầu tư nước ngoài tăng cao (tăng 85,6% so với năm 1992) là việc các hãng nước ngoài chuyển lợi nhuận về nước, do đó cầu ngoại tệ tăng cao làm cho giá USD tăng, đồng tiền Việt Nam bị giảm giá từ 10. 600 đồng/1USD vào năm 1993 đến 11. 050đồng/1USD năm 1995. điều này tác động làm cán cân thương mại được cải thiện, do đó, tổng cầu trong nền kinh tế tăng.
Đồng thời năm 1998 Luật đầu tư nước ngoài vào Việt Nam được thông qua tương đối thông thoáng khiến cho đầu nước ngoài vào Việt Nam tăng mạnh.
Chi tiêu của Chính phủ trong thời gian này cũng tăng mạnh, trong đó có chi thường xuyên và chi cơ bản. Cụ thể là:
Ngày 26/1/1994 Chính phủ có Nghị định số 5 về cải cách chế độ tiền lương, trợ cấp đối với các đối tượng chính sách xã hội. Đồng thời trợ cấp cho các đối tượngbbộ đội chuyển ngành và nghỉ, trợ cấp thôi việc cho một số cán bộ công nhân viên chức do một số cơ quan nhà nước đóng cửa vì không thể thích ứng được với cơ chế thị trưòng. đòng thời chi thường xuyên của ngân sách tăng nhanh.
Cũng từ năm 1992-1994, ngân sách nhà nước chi cho đường dây cao áp 500KV chiếm phần lớn chi tăng thêm cho xây dựng cơ bản.
Từ năm 1993-1995 đầu tư xã hội tăng mạnh, trong đó có đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng để phục vụ cho nền kinh tế mới phát triển.
Tất cả những điều này đẩy đường tổng cầu lên cao, làm giá cả tăng cao.
Lạm phát thời kỳ này xảy ra còn do chi phí đảy : Vào thời kỳ này, giá cả n số mặt hàng được điều chỉnhnhư giá xi măng, giá điện, giá xăng, làm cho chi phí đầu vào tăng mạnh, mqcs cung giảm, đẩy giá cả lên cao, gây lên lạm phát chi phí dẩy.
2.2.2. Các biện pháp kiểm soát lạm phát trong giai đoạn này
Trong giai đoạn này, các chính sách tiền tệ mà NHNN áp dụng để nhằm kiềm chế và kiểm soát lạm phát đều nhằm mục đích giảm mức cung tiền tệ. Cụ thể NHNN đã áp dụng một số các biện pháp sau đây:
Một là: NHNN đã bán trái phiếu, tín phiếu gần 2000 tỷ VNĐ kỳ hạn 2-3 thángmà người mua là các ngân hàng thương mại(NHTM) đồng thời cũng để khuyến khích các NHTM tích cực huy động vốn.
Hai là: NHNN hạ mức tín dụng và kiểm soát chặt chẽ hạn mức tín dụngtái cấp vốn đối với các NHTM và hạn mức của NHTM đối vx nền kinh tế. Ban hành Quyết định số 43QĐ- NHNN cho phép các tổ chức tín dụng(TCTD) được mua bán hạn mức tín dụng lẫn nhau trong phạm vi chỉ tiêu được giao. Biện pháp này của NHNN nhằm để hạn chế hệ số nhân tiền, qua đó kiểm soát sự gia tăng tổng phương tiện thanh toán, kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên hạn mức tín dụng chỉ được phân bổ đói với một số NHTM nên phần nầo hạn chế tính công bằng trong cạnh tranh.
Ba là: buộc các TCTD phải thực hiện dự trữ bắt buộc mở rộng, năm 1995 quy định tiền gửi dự trữ bắt buộc và tiền thanh toán được thống nhất vào một tài khoản, tỉ lệ dự trữ bắt buộc áp dụng cho tất cả các TCTD là 10% cho các loại tiền gửi dưới một năm, và trong cơ cấu tièn gửi bắt buộc phải có 70% gửi tại NHNN và các TCTD phải thường xuyên duy trì đầy đủ số tiền dự trữ bắt buộc tại NHNN theo từng ngày, kiên quyết xử phạt đối với những TCTD không chấp hành theo quy định này.
Bốn là: Trong hệ thống ngân hàng đã triển khai thực hiện tốt QĐ396/TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường quản lý ngoại hối. NHNN điều hành tốt việc cung ứng tiền phục vụ cho mục tiêu mua bán ngoại tệ nên nhìn chung tỉ giá ngoại tệ ổn định, cầu giả tạo về ngoại tệ, vàng, một số mặt hàng khác giảm xuống làm chogc nhiều mặt hàng giảm xuống, lạm phát được kiểm soát.
Năm là: nâng lãi suất chiết khấu làm giảm việc vay của các NHTM
Tất cả đều làm mức tăng cung tiền tệ bị hạn chế mạnh mẽ và lãi suất tăng lên, chi tiêu giảm, cầu giảm, giá cả giảm.
Đồng thời NHNN còn áp dụng một số biện pháp khác, nhờ vậy tốc độ lạm phát đã giảm xuống từ 12,7% năm 1996 xuống còn 4,6% năm 1997 và 3,65 năm 1998.
2.3. Giai đoạn từ 1999 đến nay
2.3.1. Giai đoạn 1999-2001
2.3.1.1. Tình hình kinh tế và nguyên nhân gây ra lạm phát
Cuộc khủng hoảng tài chính -tiền tệ Châu á bắt đầu từ tháng 7 năm 1997 làm cho nước ta chịu sức ép ngày càng tăng. Kinh tế trải qua hiện tượng giảm giá liên tục, sức mua giảm sút, đầu tư nước ngoài và xuất khẩu có dấu hiệu suy giảm, sản xuất trong nước rơi vào tình trạng trì trệ, hàng hóa ứ đọngnhiều, tỉ lệ thất nghiệp ra tăng. . .
Một trong những biểu hiện của sự suy giảm nền kinh tế là hiện tượng giảm phát. Vậy giảm phát là gì?
Giảm phát là sự giảm giá liên tục của mức giá chung theo thời gian.
Tình hình kinh tế
_ giá cả thị trưòng có xu hướng giảm
+ năm 1999 giá cả thị trưòng có nhiều diễn biến bất thường : giá cả liên tục giảm trong 8 tháng liền, từ tháng 3 đến tháng 12. Đặc biệt tháng 10 năm 1999 CPI giảm 0,8% so với tháng 12 năm 1998. Chỉ số giá lương thực tháng 10 năm 1999 sút giảm 10,5% so với tháng 12 năm 1998, sự sụt giảm giá lương thực làm cho CPI chung hầu như không tăng ( do tỉ trọng của hàng lương thực trong rổ hàng hóa lớn).
+ Năm 2000, CPI cả năm giảm 0,6% so với năm 1999.
+ Sáu tháng đầu năm 2001 CPI vẫn giảm, CPI tháng 6/2001 giảm 0,3% so với tháng 6/2000 và giảm 0,7% so với tháng 12/2000. CPI giảm liên tục trong 3 tháng liên tiếp,tháng 3 giảm 0,7%, tháng 4 giảm 0,5%, tháng 5 giảm 0,2%. Kết quả là đến cuối năm 2001 nhờ nhiều nỗ lực, chúng ta đã đẩy được tỉ lệ lạm phát lên 0,8%.
_ Tình trạng ứ đọng sản phẩm, sản xuất cầm chừng xảy ra ở một số sản phẩm và một số khu vực, đặc biệt là khu vực nhà nước :
+ Số hàng tồn kho của Tổng công ty 90-91 trong 6 tháng đầu năm 1999 đã lên tới 60. 000 tỷ đồng.
+ Theo báo cáo của IMF có đến 60% doanh nghiệp nhà nước bị thua lỗ, trong đó 16% là thua lỗ triền miên. Tình trạng các công ty tư nhân cũng không có gì khá hơn. Trong năm 1998 và 6 tháng đầu năm 1999 có hàng ngàn xí nghiệp thua lỗ phải đóng cửa, các xí nghiệp lớn thì hoạt động cầm chừng.
+ tỉ lệ thất nghiệp năm 1999 ở Hà Nội là 10,3% và ở thành phố Hồ Chí Minh là 7,04%. . .
_ Tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm : từ tốc độ tăng trưởng GDP năm 1996 là 9,34% xuống còn 8,15% năm 1997, 5,8% năm 1998, 4,8% năm 1999 và 6,75% năm 2000.
Nguyên nhân:
Một là : giá hàng nông sản giảm mạnh, đặc biệt là giá lương thực, cà phê, hạt tiêu, hạt điều làm giảm thu nhập của nông dân, ảnh hưởng tới sức mua hàng công nghiệp. Từ năm 1998 đến 6 tháng đầu năm 2001 chiư số giá lương thực liên tục giảm : năm 1999gm 7,8%, năm 2000 giảm 7,9%, 6 tháng đầu năm 2001 giảm 5,7%. Giá những hàng hóa trên giảm không chỉ làm cho CPI chung giảm mà nó còn gián tiếp làm cho sức mua và giá cả đầu vào các hàng hóa và dịch vụ khác giảm theo
Hai là: nhìn chung hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam chất lượng thấp, giá thành cao nên không có điều kiện cạnh tranh được với hàng nhập khẩu, đặc biệt là hàng nhập khẩu trốn lậu thuế, do đó giá cả hàng hóa công nghiệp và dịch vụ đang có xu hướng giảm giá để có thể cạnh tranh được với hàng hóa nhập khẩu.
Ba là : cơ cấu tăng trưởng kinh tế giữa khu vực công nghiệp và nông nghiệp là không hợp lý, làm ch thu nhập và theo đó là sức mua của nông dân, là bộ phận dân cư lớn nhất nước không tăng lên được.
Bốn là: tình trạng vốn ứ đọng ở các ngân hàng phản ánh người có tiền không muốn bỏ vốn vào đầu tư. Nợ khó đòi và nợ quá hạn ở các ngân hàng lớn.
Năm là : đầu tư nước ngoài suy giảm mạnh. Tốc độ giảm trung bình khoảng 24%/ năm trong giai đoạn 1997-2000
Sáu là, tỉ lệ tăng trưởng giá trị xuất khẩu giảm sút do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á.
Bảy là: trong khi nước ta đang duy trì ổn định tỉ giá thì các đồi tác thương mại trong khu vực phá giá đồng tiền làm cho nhiều mặt hàng trong nước đắt hơn hàng ngoại, chúng ta lâm vào thế cạnh tranhko thuận lợi so với bên ngoài.
Tám là : hậu quả của hiệu ứng lây lan do suy thoái và giảm phát khu vực.
Chín là : sự chậm trễ trong việc cải tiến những chính sách vĩ mô của Chính phủ, làm cho nước ta đạt được ít kết quả trong cạnh tranh. Vai trò điều tiết của nhà nước còn rất nhiều hạn chế.
2.3.1.2. Những biện pháp nhằm nâng cao sức mua của các tầng lớp dân cư(tăng cầu)
_ Chương trình giải quyết việc làm được đẩy mạnh
Trong năm 2000, đã thu hút và tạo việc làm cho khoảng 1,3 triệu người, tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị giảm xuống còn khoảng 6,5% so với 7,4% năm 1999, sử dụng lao động ở nông thôn được nâng lên.
_ Chương trình xóa đói giảm nghèo được triển khai
Năm 1999 giảm được 34 vạn hộ nghèo, năm 2000 giảm được 30 vạn hộ.
_ Hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm. Để khắc phục tình trạng trì trệ trong tiêu thụ hàng hóa, Chính phủ đã dưa ra những biện pháp tình thế như sau:
+ Cho áp dụng cơ chế vay vốn ngân hàng để mua sắm và việc thực hiện mua trả góp.
+ Đưa một số hàng hóa vào dự trữ quốc gia.
+ Hạ giá bán một số sản phẩm, nhất là các sản phẩm còn tồn đọnh lớnhc các sản phẩm thiết yếu có nhu cầu.
+ Chỉ đạo việc tiêu thụ sản phẩm cho nông dân, đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp.
_ Tăng cường các chương trình đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn
_ Mở rộng dịch vụ du lịch trong cả nước và nước ngoài, chú trọng đầu tư cơ sở hạ tầng du lịch
_ Tăng lương cho các
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26703.doc