MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
NỘI DUNG 3
I. Cơ sở lý luận về việc Cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta 3
1. Tính tất yếu phải cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta 3
1.1. Doanh nghiệp Nhà nước và yêu cầu đổi mới Doanh nghiệp Nhà nước 3
1.2. Yêu cầu đổi mới Doanh nghiệp Nhà nước 3
1.3. Cổ phần hoá - giải pháp cải cách doanh nghiệp Nhà nước tối ưu 5
2. Đối tượng của cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta 8
3. Mục tiêu cổ phần hóa một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước 10
4. Tiền đề để cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước 12
II. Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam 15
1. Quá trình cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta 15
2. Tình hình hoạt động của các doanh nghiệp sau cổ phần hoá 18
3. Những mặt hạn chế của cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước và nguyên nhân của chúng 20
3.1. Những mặt hạn chế của cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước 20
3.2. Những nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế trong quá trình cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước 23
4. Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước trong giai đoạn hiện nay - mục tiêu và triển vọng 26
III. Một số biện pháp góp phần đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước 28
KẾT LUẬN 32
TÀI LIỆU THAM KHẢO 33
34 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1429 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Một số biện pháp nhằm tiếp tục đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá trong một bộ phận Doanh nghiệp nhà nước ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iệp nhà nước để huy động vốn, tạo thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả làm cho tài sản Nhà nước ngày càng tăng lên chứ không phải tư nhân hoá”
Nghị định 44/1998/NĐ-CP ngày 29/6/1998 của Chính Phủ về việc chuyển một số Doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần đã nêu rõ: chuyển Doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần nhằm các mục tiêu:
Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong nước và nước ngoài để đầu tư đổi mới công nghệ tạo thêm việc làm, phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh, thay đổi cơ cấu Doanh nghiệp nhà nước.
Tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và những người đã góp vốn được làm chủ thực sự; thay đổi phương thức quản lý tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng cường phát triển đất nước, nâng cao thu nhập của người lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế của đất nước.
Qua những văn bản cơ bản đó có thể khẳng định các mục tiêu của cổ phần hoá đã được xác định một cách rõ ràng và nhất quán. Song phải chăng huy động vốn để phát triển doanh nghiệp là mục tiêu hàng đầu, nâng cao vai trò làm chủ thực sự, tạo động lực thúc đẩy kinh doanh có hiệu quả là mục tiêu hàng thứ, hay hai mục tiêu ở vị trí ngang nhau.
Huy động vốn và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn là một trong những điều kiện quan trọng hàng đầu để thúc đẩy nhanh công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, đó cũng là điều kiện tối quan trọng để nâng cao khả năng cạnh tranh, mở rộng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Hiện nay vốn kinh doanh là một trong những vấn đề nan giải của các doanh nghiệp. Để huy động vốn, doanh nghiệp phải đảm bảo nhiều điều kiện, trong đó khả năng kinh doanh có hiệu quả được coi là diều kiện tiên quyết. Đặt việc huy động vốn cho phát triển doanh nghiệp như một mục tiêu hàng đầu sẽ gây cảm nhận việc cổ phần hoá xuất phát từ yêu cầu giải quyết khó khăn của Nhà nước trong việc đảm bảo vốn doanh nghiệp. Điều đó đến lượt mình, có thể gây trở ngại cho việc thực hiện chính mục tiêu ấy, người lao động không thấy được động lực kinh tế trực tiếp trong việc góp vốn của mình. Trong cơ chế thị trường, để thúc đẩy nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nằm ở sự gắn bó mật thiết giữa quyền sở hữu với quyền quản lý và sử dụng tài sản của doanh nghiệp, xác định rõ người chủ đích thực của các tài sản đó. Việc huy động thêm vốn từ cổ phần hoá là điều kiện xác lập người chủ một bộ phận tài sản của doanh nghiệp, người chủ ấy cùng với người đại diện Nhà nước ở doanh nghiệp quản lý điều hành hoạt động kinh doanh một cách có hiệu quả nhất. Hơn nữa, việc huy động thêm vốn chỉ là phương tiện thiết yếu để đạt tới mục tiêu nâng cao hiệu quả kinh tế mà thôi. Nếu không được quản lý sử dụng tốt số vốn được huy động đó cũng không thể mang lại hiệu quả mong đợi.
Theo những lập luận trên, mục tiêu hàng đầu có là thúc đẩy nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trên cơ sở đảm bảo vai trò làm chủ thực sự của những người sở hữu tài sản. Huy động thêm vốn bằng cổ phần và phát hành cổ phần là điều kiện cần thiết để tạo thành những người chủ đích thực của doanh nghiệp phụ thuộc chủ yếu vào sử dụng vốn hiện có và huy động vốn thêm.
Cổ phần hoá một bộ phận Doanh nghiệp nhà nước chỉ là một chủ trương lớn của Đảng va Nhà nước. Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương khoá VII đã nêu rõ: “Chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện thành công ty cổ phần và thành lập một số công ty quốc doanh cổ phần mới”.
Nghị quyết 10-NQ/TW ngày 17/3/1995 của Bộ chính trị đã nêu “thực hiện từng bước vững chắc việc cổ phần hoá một bộ phần doanh nghiệp không cần Nhà nước đầu tư 100% vốn. Tuỳ tính chất, loại hình doanh nghiệp mà tiến hành bán một tỉ lệ cổ phần cho công nhân viên chức làm việc tại doanh nghiệp để tạo động lực bên trong trực tiếp thúc đẩy phát triển và bán cổ phần cho tổ chức hay cá nhân ngoài quốc doanh để thu hút vốn, mở rộng quy mô kinh doanh”. Như vậy, Nghị quyết của Đảng chỉ ra mục tiêu, đồng thời cũng nêu khái quát hình thức, mức độ cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước.
Tiền đề để cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước.
Điều kiện và môi trường pháp lý về cơ bản đã được xác lập đặt tất cả các doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường. Việc thực hiện “thương mại hoá” các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế là tiền đề cơ bản và cần thiết để từng bước thực hiện cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà nước.
Chính Phủ đã nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà nước và quyết tâm thực hiện. Điều này thể hiện ở việc ban hành các văn bản luật và dưới luật nhăm thực hiện chương trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước như luật công ty, quyết định 315 và 330 về sắp xếp lại sản xuất trong khu vực kinh tế Nhà nước. Chỉ thị 84-TTg của Thủ tướng Chính phủ về thí điểm cổ phần hoá một số Doanh nghiệp nhà nước… Ngoài ra còn có các quyết định, thông tư của các Bộ và các liên Bộ để cụ thể hoá việc thực hiện vấn đề này. Điều này góp phần xác định rõ quan điểm và phương hướng chỉ đạo thống nhất ở mọi cấp, mọi ngành cho đến từng doanh nghiệp triển khai thực hiện.
Tình hình kinh tế đất nước đã có nhiều biến đổi theo hướng tích cực: giá cả thị trường đã được duy trì tương đối ổn định, mức lạm phát đã được kiềm chế, đồng tiền Việt Nam đã giữ được giá, lãi suất đã ở mức khuyến khích các hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh… Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi về tâm lý cho mọi người muốn đầu tư thông qua hình thức mua cổ phiếu trong các Doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá.
Nhờ những đổi mới trong chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần của Nhà nước mấy năm qua, thu nhập của dân cư được nâng cao. Số người khá giả ở thành thị và nông thôn ngày càng nhiều. Đây là lượng cầu tiềm năng có thể đáp ứng cho các chứng khoán phát hành ở những doanh nghiệp được cổ phần hoá.
Hoạt động trong cơ chế thị trường mới được hai chục năm nhưng đã xuất hiện đội ngũ các nhà quản lý doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh lớn; người lao động trong các doanh nghiệp đã thích ứng được về ý thức, tác phong và hiệu quả của công việc trong điều kiện cạnh tranh về năng suất, chất lượng và hiệu quả. Điều này sẽ làm cho người đầu tư yên tâm bỏ vốn, góp phần thuận lợi cho việc thực hiện cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà nước.
Với luật đầu tư nước ngoài cà sự xuất hiện của nhiều nhánh ngân hàng kinh doanh của nước ngoài tại Việt Nam góp phần tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư bằng cổ phiếu vào các Doanh nghiệp nhà nước sẽ được tiến hành cổ phần hoá.
Ngoài ra với những kinh nghiệm thực tiễn phong phú của các nước trên thế giới trong quá trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước sẽ là những bài học bổ ích và quý giá để Nhà nước tiến hành hoạch định chính sách và tổ chức thực hiện công việc cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam.
Ngoài ra, ngày nay chúng ta còn có những điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước. Đó là những khó khăn gặp phải trong thời gian đầu thực hiện thí điểm cổ phần hoá đã dần được khắc phục, có thể kể đến như chúng ta đã có một thị trường chứng khoán thực sự, tuy chưa phát triển sôi động như các nước phát triển và khu vực, nhưng đó cũng là môi trường để thực hiện cổ phần hoá. Các Doanh nghiệp nhà nước hiện nay hầu hết đều trang bị máy móc, công nghệ hiện đại, khả năng cạnh tranh cao… do đó có thể tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp này. Bên cạnh đó tình hình chính trị quốc gia ổn định tạo niềm tin thu hút các nhà đầu tư nước ngoài…
Với những tiền đề như thế thì quá trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước của chúng ta đã diễn ra như thế nào? Chúng ta đã làm được những gì và còn hạn chế gì? Để từ đó có biện pháp thích hợp thúc đẩy nhanh hơn nữa quá trình cổ phần hoá.
II. Thực trạng cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam.
Quá trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở nước ta.
Từ đầu thập kỷ 90, cùng với đổi mới các chính sách kinh tế - xã hội, Đảng ta đã có chủ trương chuyển một bộ phận Doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Khởi đầu là Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai của Ban chấp hành TW khoá VII tháng 11/1991. Nghị quyết này đã chỉ ra : “chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện thành công ty cổ phần và thành lập một số công ty cổ phần mới, phải làm thí điểm, chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh nghiệm chu đáo trước khi mở rộng phạm vi thích hợp”. Trải qua 15 năm thực hiện đến hết năm 2005, chúng ta đã thành lập được 2987 công ty cổ phần trên cơ sở cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước và bộ phần Doanh nghiệp nhà nước. Kết quả thực hiện qua từng năm như sau:
Năm
Số Doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá
1990-1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Không
02
01
03
05
07
100
250
212
204
164
532
753
754
Tổng
2987
Qua những con số trên thấy rõ tiến trình cổ phần hoá đã trải qua những bước thăng trầm, nhưng nói chúng là theo xu hướng mỗi ngày càng được đẩy mạnh. Từ chỗ thực hiện chậm chạp trong những năm đầu (mỗi năm vài ba doanh nghiệp đến vài trăm) và cho đến ba năm gần đây tiến trình cổ phần hoá được đẩy mạnh hơn, do đó số lượng doanh nghiệp được cổ phần hoá tương đối nhiều.
Theo báo cáo của Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp, hình thức cổ phần hoá phổ biến nhất là bán một phần vốn nhà nước có tại doanh nghiệp kết hợp phát hành thêm cổ phiếu (chiếm 43,4%) tiếp đó là bán một phần vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp (26%) còn lại là bán toàn bộ vốn Nhà nước tại doanh nghiệp (15,5%) và giữ nguyên vốn Nhà nước và phát hành thêm cổ phiếu (15,1%). Trong số các doanh nghiệp đã cổ phần hoá, ngành công nghiệp giao thông vận tải và xây dựng chiếm tỷ trọng 65,5%, thương mại dịch vụ chiếm 28,7% và ngành nông - lâm - ngư ngiệp chiếm 5,8%. Nếu phân chia theo địa phương thì tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chiếm 65,7%, bộ ngành TW chiếm 25,8%, tổng công ty 91 chiếm 8,5%.
Năm 2005 đã xuất hiện một điểm sáng mới cần được nhấn mạnh là trong số doanh nghiệp cổ phần hoá đã có nhiều doanh nghiệp làm ăn khá, quy mô lớn, hấp dẫn các nhà đầu tư. Có thể kể đến các công ty như: Công ty khoan và dịch vụ dầu khí, các nhà máy thuỷ điện sông Hinh (Vĩnh Sơn), Thác Bà, Phả Lại, Điện lực Khánh Hoà, công ty giấy Phương Mai, công ty vận tải xăng dầu đường thuỷ I, Vinamilk, công ty Kinh Đô. Giá trị của Vinamilk lên tới 2500 tỷ đồng. Nhà máy thuỷ điện sông Hinh có giá trị 2114 tỷ đồng trong đó vốn Nhà nước là 1253 tỷ đồng. Một điểm khác biệt nữa, đó là việc xác định giá trị cổ phần được thực hiện thông qua đấu giá công khai trên thị trường. Ngay trong ngày đầu tiên bán đấu giá Vinamilk, bán hết hơn 166 triiêụ cổ phiếu với giá trung bình cao gấp 4,89 lần mệnh giá. tính minh bạch và công khai đấu giá cổ phiếu của công ty sữa Việt Nam đã thu hút các nhà đầu tư chiến lược, trong đó có các nhà đầu tư nước ngoài. Đáng chú ý là các nhà mới chiếm tỷ lệ thắng thầu tới 78,4% trên tổng số cổ phần bán ra, các quỹ đầu tư nước ngoài hoạt động ở Việt Nam chỉ chiếm 21,6% và số vốn thu hút được từ các tổ chức đầu tư mới lên tới 450 tỷ đồng. Sau ba năm chuẩn bị, Vinamilk đã hoàn toàn chuyển đổi từ một Doanh nghiệp nhà nước lớn thành tổng công ty cổ phần đại chúng.
Sau 15 năm cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước, có thể nhận thấy các chuyển biến sau:
Thứ nhất, sự chuyển hướng từ cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà nước trong một số lĩnh vực sang cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở hầu hết ngành, lĩnh vực, trong cả kinh tế, dịch vụ và văn hoá, kể cả ngân hàng thương mại, chỉ trừ loại Doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực dầu khí và an ninh quốc phòng. Thành phố Hồ Chí Minh còn kiến nghị Chính Phủ cho phép cổ phần hoá một số bệnh viện công.
Thứ hai, chuyển biến từ việc chỉ cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà nước quy mô nhỏ về vốn và lao động làm ăn thua lỗ, nay sang cả những doanh nghiệp lam ăn có lãi với quy mô lớn trong các ngành trọng yếu của nền kinh tế (như điện lực, xi măng, viễn thông, hàng không) với kết quả hoạt động sau ngày một tiến bộ. Tiến hành cổ phần hoá không chỉ được thực hiện đối với từng doanh nghiệp thành viên mà còn triển khai đối với toàn tổng công ty. Đến nay đã có Nghị quyết phê duyệt cổ phần hoá 5 tổng công ty, trong đó có các Tổng công ty thương mại - Xây dựng, Điện tử - Tin học, Vinaconex và Bảo Việt.
Thứ ba, việc cổ phần hoá không chỉ nhằm thu hút vốn của các nhà đầu tư, của những người trong doanh nghiệp mà còn thu hút vốn của những người nông dân cung cấp nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp, chuyển họ thành những cổ đông, gắn bó họ với sự phát triển của doanh nghiệp.Công ty mía đường lam Sơn và công ty mía đường La Ngã đã thực hiện cổ phần hoá theo hướng đó. ở Tổng công ty mía đường Lam Sơn, Nhà nước giữ 46%, nông dân trong mía và cổ đông ngoài doanh nghiệp mua 26% (trong đó có 40.000 cổ phần ưu đãi cho người trồng mía), người lao động trong doanh nghiệp mua 24% cổ phần. ở Tổng công ty mí đường La Ngã Nhà nước giữ 35%, nông dân tròng mía và cổ đông ngoài doanh nghiệp mua 25% (trong đó có 15.000 cổ phần ưu đãi cho người trồng mía), người lao động trong doanh nghiệp 40% cổ phần. Sau 5 năm cổ phần hoá (từ năm 2000 đến năm 2005) nộp ngân sách tăng từ 10 tỷ lên 38 tỷ đồng và lợi nhuận đạt tới 77,5 tỷ đồng và cổ tức là 20%/năm.
Thứ tư, là việc chuyển từ cổ phần hoá thưo hướng cơ bản khép kín, nội bộ sang hình thức đấu giá công khai, bán cổ phần ra bên ngoài để thu hút nhà đầu tư trong và ngoài nước. Đây được coi là sự chuyển biến “có chất” nhất thể hiện sự thay đổi căn bản quan điểm và chủ trương về cổ phần hoá, góp phần tạo ra sức bật mạnh mẽ để đẩy nhanh, mạnh tiến trình cải cách hệ thống Doanh nghiệp nhà nước một cách công khai, minh bạch và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế trong và ngoài nước cùng tham gia. Trong đợt đấu giá cổ phiếu đầu tiên của công ty sữa Việt Nam đã thu hút được các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài và họ đã mua tới gần 80% tổng số cổ phần bán ra.
Thứ năm, cổ phần hoá là một xu hướng tất yếu, là giải pháp mang tính đột phá nhằm chuyển đổi Doanh nghiệp nhà nước đơn sở hữu sang đa sở hữu. Các doanh nghiệp quân đội cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Khi triển khai thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp đã gặp rất nhiều khó khăn bởi vì các doanh nghiệp quân đội vốn chưa thích nghi hoàn toàn với cơ chế thị trường, bản thân người lao động cũng chưa sẵn sàng cho việc này, nhưng tính đến thời điểm này, đã có 16 doanh nghiệp quân đội triển khai thực hiện cổ phần hoá, trong đó có 9 công ty, xí nghiệp phụ thuộc hoàn thành xong (đạt 56% kế hoạch).
Tình hình hoạt động của các doanh nghiệp sau cổ phần hoá.
Sau 15 năm thực hiện chủ trương cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước, cho đến nay đã có gần 3000 doanh nghiệp được cổ phần hoá. Nhìn chung các doanh nghiệp cổ phần hoá đều phát triển ổn định và hoạt động có hiệu quả hơn. Tuy nhiên thực tiễn cũng chỉ ra nhiều trở ngại gây khó khăn cho các doanh nghiệp sau cổ phần hoá. Việc nhận dạng đúng thực trạng và tìm biện pháp tháo gỡ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sau cổ phần hoá phát triển tốt hơn đang là vấn đề bức xúc hịên nay.
Cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà nước đã nâng cao rõ rệt hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trên tất cả các chỉ tiêu chủ yếu: về vốn, doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách, số lượng lao động, cổ tức. Kết quả của các cuộc điều tra cho thấy:
Thứ nhất, ngay trong năm đầu tiên cổ phần hoá, doanh thu bình quân của doanh nghiệp tăng 13%, lợi nhuận sau thuế tăng 48,8%... và cho đến nay có tới 92,5% số doanh nghiệp được điều tra rừng có lãi, lợi nhuận trước thuế tăng bình quân 149,7%, lợi nhuận sau thuế tăng bình quân 182,3%. Điều này cho thấy việc chuyển đổi đã có tác động mạnh đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Thứ hai, đối với những doanh nghiệp cổ phần hoá nhiều năm đã đi vào hoạt động ổn định, tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp được duy trì, doanh thu bình quân tăng 23,6%, lợi nhuận trước thuế tăng 9,4%, lợi nhuận sau thuế tăng tới 54,4%. Một số doanh nghiệp có doanh thu tăng cao như công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển: 30 lần, công ty cổ phần cơ điện lạnh: 13 lần, công ty cổ phần Kim Đan: 11,2 lần…
Thứ ba, một số chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp sau cổ phần hoá đều tăng; năng suất lao động tăng bình quân 63,9%; mức nộp ngân sách tăng bình quân 26,53%; thu nhập bình quân tháng của lao động tăng 34,5% so với trước khi cổ phần hoá. Điều đó khẳng định hiệu quả của việc chuyển đổi các Doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần.
Thứ tư, sau cổ phần hoá các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh, tạo thêm công ăn việc làm, thu hút thêm lao động, số lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hoá phát triển bình quân tăng 6,6%. Cổ tức bình quân của các doanh nghiệp đạt 17,11% cao hơn nhiều so với lãi suất.
Thứ năm, vốn huy động được từ việc bán cổ phiếu cũng tăng đáng kể. Vốn bình quân một doanh nghiệp tăng từ 24 tỷ đồng (năm 2001) lên 63,6 tỷ đồng (năm 2004). Đây là yếu tố đầu vào rất quan trọng để mở rộng sản xuất kinh doanh mang lại lợi nhuận cao hơn nữa cho doanh nghiệp, tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động, góp phần giải quyết vấn đề thất nghiệp trong xã hội hiện nay.
Qua nghiên cứu, khảo sát các doanh nghiệp sau cổ phần hoá của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy việc thay đổi mô hình hoạt động của cán bộ quản lý và người lao động đã có tác động tích cực đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Cán bộ quản lý và người lao động đã thật sự gắn bó với doanh nghiệp, nhờ vậy mà hiệu quả kinh doanh tăng lên. Có 96% số doanh nghiệp cho rằng cán bộ quản lý đã quan tâm nhiều hơn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh, 88% số doanh nghiệp khẳng định kết quả sản xuất của người lao động đã tăng lên khi tiền lương của họ được tính toán trên cơ sở kết quả việc làm. Thực tế có 85% doanh nghiệp cho rằng sau cổ phần hoá cơ sở vật chất kỹ thuật, năng lực sản xuất của doanh nghiệp được khai thác triệt để hơn, sử dụng tốt hơn, tiết kiện hơn trước.
Những mặt hạn chế của cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước và nguyên nhân của chúng.
Những mặt hạn chế của cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước.
Bên cạnh những thành công như đã nêu trên, việc thực hiện chủ trương cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở nước ta cũng đã bộc lộ nhiều hạn chế:
Hạn chế rõ nhất trong việc thực hiện chủ trương cổ phần hoá là tiến độ cổ phần hoá còn chậm. Vốn Nhà nước trong các Doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá còn nhỏ và việc huy động vốn trong quá trình chưa được nhiều, thời gian tiến hành cổ phần hoá một doanh nghiệp còn quá dài. So với đề án được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt thì số Doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá chưa đạt 80%, số lượng Doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá trong năm 2005 tuy đạt con số 754 đơn vị, nhưng nếu so với yêu cầu của Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành TW Đảng khoá IX là phải hoàn thành về cơ bản việc cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước vào năm 2005 là chưa đạt.
Theo báo cáo kết quả khảo sát của Dự án hỗ trợ kỹ thuật giám sát chuyển đổi sở hữu Doanh nghiệp nhà nước tại 934 doanh nghiệp đã cổ phần hoá cho thấy, thời gian cổ phần hoá doanh nghiệp tuy đã giảm được 512 ngày (năm 2001) xuống còn 437 ngày (năm 2004) nhưng vẫn còn dài. Trong đó chia theo các giai đoạn sau:
STT
Nội dung công việc
Số ngày thực hiện
1
Thành lập ban đổi mới doanh nghiệp – bắt đầu định giá
135 ngày
2
Bắt đầu định giá - quyết định giá trị doanh nghiệp
135 ngày
3
Quyết định giá trị doanh nghiệp – phê duyệt phương án cổ phần hoá
66 ngày
4
Phê duyệt phương án cổ phần hoá - bắt đầu bán cổ phần
24 ngày
5
Bắt đầu bán cổ phần – hoàn thành bán cổ phần
38 ngày
6
Hoàn thành bán cổ phần - đại hội cổ đông
15 ngày
7
Đại hội cổ đông - đăng ký kinh doanh
24 ngày
8
Tổng cộng
437 ngày
Việc cổ phần hoá các Tổng công ty diễn ra rất ì ạch. Đã có chủ trương cổ phần hoá Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) và Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long từ 2 năm nay nhưng nay mới nhỉ dừng lại ở mức chuẩn bị : vạch lộ trình và cách thức cổ phần hoá và dự kiến đến hết năm 2007 mới có thể tiến hành Đại hội cổ đông. Cổ phần hoá Tổng công ty Xuất khẩu xây dựng (VINACONEX) cũng nằm trong tình trạng tương tự.
Chuyển sang công ty cổ phần doanh nghiệp trở thành đa sở hữu về vốn. Nhưng thực tế trong số gần 3000 doanh nghiệp đã cổ phần hoá thì chỉ có 30%, Nhà nước không giữ đồng vốn nào: 29%, Nhà nước giữ cổ phàn chi phối trên 51%. Cũng trong số gần 3000 doanh nghiệp thì Nhà nước cũng nắm lại 46,5% vốn điều lệ. Điều này cho thấy mặc dù đã cổ phần hoá nhưng Nhà nước vẫn là cổ đông lớn nhất, đồng thời phần lớn các công ty cổ phần được thành lập theo cách này đang được Nhà nước nắm cổ phần chi phối. Điều đáng nói là tỷ lệ vốn điều lệ mà Nhà nước còn nắm tại các công ty cổ phần không giảm mà ngày càng tăng. Nếu thời kỳ đầu (1992-1998) tỷ lệ cổ phần mà Nhà nước nắm trong các công ty cổ phần là 28%, thì đến thời kỳ 2001-2004 tỷ lệ này lên tới 49,8% và hiện nay bình quân là 46,5%. Một thực tế khác, cổ đông là người lao động chỉ chiếm 15%. Cũng trong gần 3000 doanh nghiệp nói trên, chỉ có 25 doanh nghiệp có Nhà nước đầu tư nước ngoài. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia kinh tế thì đây là cơ chế không thoả đáng.
Mặc dù có chuyển biến trong năm 2005 là đã có những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, có quy mô vốn lớn và một số tổng công ty đang cổ phần hoá, nhưng nhìn chung đại đa số các doanh nghiệp đã cổ phần hoá đều có vốn Nhà nước quá nhỏ. Số lượng các doanh nghiệp cổ phần hoá có quy mô vốn Nhà nước dưới 5 tỷ đồng chiếm tới gần 60%, chỉ có 18,5% số doanh nghiệp cổ phần hoá có quy mô vốn Nhà nước trên 10 tỷ đồng. Điều đó dẫn đến tình trạng về mặt số lượng Doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá chiếm tới 53% tổng số Doanh nghiệp nhà nước có tại thời điểm đầu năm 2001, nhưng về vốn mới chỉ chiếm hơn 10%. Như vậy là số vốn chưa được cổ phần hoá còn rất lớn (khoảng 270 tỷ đồng), nhưng đa số không phát huy được hiệu quả. Số vốn này tập trung chủ yếu tại các công ty 91 (riêng 3 tổng công ty Dỗu khí, Điện lực, Bưu chính Viễn thông nắm giữ 113 ngàn tỷ đồng).
Nhiều công ty cổ phần chưa có sự đổi mới mạnh trong quản trị công ty, phương pháp quản lý, lề lối làm việc tư duy quản lý vẫn còn như Doanh nghiệp nhà nước nên hiệu quả thấp. Đa số lãnh đạo các công ty cổ phần đều là cán bộ cũ của Doanh nghiệp nhà nước chuyển sang, không có thêm những khuôn mặt mới với tư cách tư duy theo lối mới để đem lại sức sống mới cho công ty cổ phần. Việc Nhà nước nắm giữ 51% vốn diều lệ tại khá nhiều công ty cổ phần là một cái cớ để các cơ quan quản lý Nhà nước tiếp tục can thiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hội đồng quản trị không thực hiện hết chức năng của công ty cổ phần theo luật định mà chủ yếu tập trung theo sự chỉ đạo của Nhà nước. Lãnh đạo công ty không đại diện cho cổ đông có sở hữu vốn lớn mà chủ yếu Nhà nước định hướng tham gia quản lý. Những điều đó dẫn đến tình trạng là doanh nghiệp cổ phần hoá nào mà Nhà nước nắm cổ phần chi phối thì hoạt động khó khăn hơn trước.
Việc thực hiện chính sách đối với người lao động có những bất cập. Thực tế là nhiều doanh nghiệp không đủ kinh phí để giải quyết chính sách cho người lao động, không lo được việc làm cho họ. Ngược lại ở một số đơn vị làm ăn có hiệu quả, có phúc lợi để giải quyết chính sách trợ cấp mất việc do sắp xếp lại thì người lao động lại không muốn nghỉ theo chế độ. Chính vì vậy tỷ lệ người lao động được giải quyết nghỉ theo chế độ sau khi Doanh nghiệp nhà nước chuyển sang công ty cổ phần vẫn còn rất thấp so với số lượng cần phải giải quyết. Trong một số Doanh nghiệp nhà nước đã được cổ phần hoá, đặc biệt là trong những doanh nghiệp có những lợi thế về vị trí địa lý đã xuất hiện hiện tượng một số kẻ đầu cơ đã tìm cách mua lại những cổ phiếu mà người lao động trong doanh nghiệp đã được mua với giá ưu đãi. Người lao động do chưa ý thức được ý nghĩa của việc sở hữu cổ phần trong doanh nghiệp, đồng thời cũng không nắm được giá trị thực của cổ phần mà mình sở hữu, nên đã bán cổ phần lại cho những người đầu cơ để hưởng chênh lệch. Điều này không những gây thiệt hại cho Nhà nước, cho bản thân người lao động mà còn ảnh hưởng đến một trong những mục đích quan trọng của cổ phần hoá là tạo động lực quản lý cho doanh nghiệp khi người lao động trong doanh nghiệp thực sự là người chủ.
Với tư cách là hình thức chuyển đổi sở hữu Doanh nghiệp nhà nước chủ yếu, việc cổ phần hoá còn nhiều hạn chế đã ảnh hưởng đáng kể đến quá trình sắp xếp lại Doanh nghiệp nhà nước ở nước ta. Vậy đâu là nguyên nhân của những hạn chế này?
Những nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế trong quá trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước.
Những nguyên nhân chủ yếu của quá trình thực hiện cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước có thể được giải thích bởi những nguyên nhân chính sau đây:
Hạn chế về nhận thức
Trong thực tế, nhiều cán bộ quản lý, nhất là lãnh đạo các Doanh nghiệp nhà nước chưa thực sự quyết tâm tiến hành cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước mà mình đang quản lý. Cản trở này đã bắt nguồn từ nhận thức không đúng về cổ phần hoá. Có thể nói rằng, đại bộ phận các cán bộ quản lý doanh nghiệp, người lao động chưa thấy rõ được bản chất, vai trò và ưu thế của cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước đối với ự phát triển
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- KC124.doc