Đề án Một số đánh giá về cơ cấu đầu tư theo ngành tại Việt Nam từ năm 2000 cho đến nay

Trong quá trình đổi mới, mở cửa và hội nhập kinh tế, Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm đến vấn dề chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xác định rõ ràng định hướng “chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa”. Nội dung và yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH là tỷ trọng giá trị của công nghiệp và tỷ trọng giá trị của dịch vụ trong GDP tăng nhanh, còn tỷ trọng giá trị của nông nghiệp giảm dần. Nhờ thực hiện chủ trương định hướng của Đảng về chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước ta đã đạt được những thành tựu. Cơ cấu kinh tế ngành của nước ta đã có sự chuyển dịch đúng hướng và đạt kết quả tích cực. Nền kinh tế nước ta đạt tốc độ tăng trưởng cao trong suốt quá trình đổi mới. cùng với tốc độ tăng cao liên tục và khá ổn định của GDP . Đó là tỷ trọng trong GDP của ngành nông nghiệp đã giảm nhanh từ 38,1% năm 1990 xuống 27,2% năm 1995; 24,5% năm 2000; 20,9% năm 2005, và đến năm 2008 ước còn 20,6%. Tỷ trọng công nghiệp trong GDP đã tăng nhanh, năm 1990 là 22,7%; năm 1995 tăng lên 28,8%; năm 2000: 36,7%; năm 2005: 41% và đến năm 2008 ước tính sẽ tăng đến 41,6%. Tỷ trọng dịch vụ trong GDP chưa biến động nhiều, năm 1990 là 38,6%; năm 1995: 44,0%; năm 2000: 38,7%; năm 2005: 38,1%; năm 2008 sẽ là khoảng 38,7%. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã làm thay đổi cơ cấu lao động nước ta theo xu hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Số lao động trong các ngành công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng lên, trong khi số lao động ngành nông nghiệp ngày càng giảm đi.Thực tế nền kinh tế ở nước ta, trong những năm đổi mới cho thấy, những thành tựu trong chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đã tạo thêm nhiều việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân

doc46 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 2915 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Một số đánh giá về cơ cấu đầu tư theo ngành tại Việt Nam từ năm 2000 cho đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tư đang được tập trung chủ yếu cho phát triển công nghiệp và dịch vụ nhiều hơn đúng với định hướng phát triển theo hướng công nghiệp hóa- hiện đại hóa của đất nước. Việc thay đổi cơ cấu vốn đầu tư sẽ làm thay đổi quy mô cũng như sự chuyển dịch của cơ cấu ngành. Do cơ cấu đầu tư giai đoạn 2000 đến nay đã thay đổi theo hướng tập trung cho công nghiệp và dịch vụ nên ta có thể thấy được kết quả của sự thay đổi cơ cấu đầu tư rõ nét nhất qua sự thay đổi của sự của các ngành và trong nội bộ từng ngành được thể hiện như sau: Tốc độ tăng trưởng theo 3 nhóm ngành: 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 nông, lâm nghiệp và thủy sản 2.98 4.17 3.62 4.36 4.02 3.69 3.40 4.42 1.83 công nghiệp và xây dựng 10.39 9.48 10.48 10.22 10.69 10.38 10.60 5.74 5.52 Dịch vụ 6.10 6.54 6.45 7.26 8.48 8.29 8.68 7.35 6.63 Nguồn:nghiên cứu kinh tế số 384/ tháng 5-2010 Xét giai đoạn gần đây nhất là 2008 đến nay, năm 2008 do khủng hoảng kinh tế toàn cầu nên tốc độ tăng trưởng của tất cả các ngành đều giảm xuống : nông nghiệp chỉ tăng 4,42%, công nghiệp chỉ là 5,74% so với năm 2007 là 10,6%, còn dịch vụ chỉ tăng 7,35% so với năm 2007 là 8,68%.Tính chung cả năm 2009, tổng sản phẩm trong nước tăng 5,32%, bao gồm: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 1,83%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 5,52%; khu vực dịch vụ tăng 6,63%. Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản năm 2009 theo giá so sánh 1994 ước tính tăng 3% so với năm 2008, bao gồm nông nghiệp tăng 2,2%; lâm nghiệp tăng 3,8%; thuỷ sản tăng 5,4%. Công nghiệp là ngành bị ảnh hưởng mạnh từ khủng hoảng kinh tế thế giới nhưng các cơ sở sản xuất, các doanh nghiệp và tập đoàn kinh tế trong năm qua có nhiều cố gắng; Chính phủ và các cấp, các ngành đã đề ra những giải pháp kịp thời, hỗ trợ lãi suất vay vốn và mở rộng thị trường tiêu thụ trong nước thông qua các gói kích cầu đầu tư và kích cầu tiêu dùng; vận động nhân dân hưởng ứng chủ trương người Việt nam dùng hàng Việt Nam nên kết quả sản xuất, kinh doanh từng bước được khôi phục và tiếp tục tăng trưởng. Hoạt động thương mại và dịch vụ sôi động hơn trong những tháng cuối năm do sản xuất trong nước phục hồi, nhu cầu tiêu dùng tăng lên và giá cả hàng hoá, dịch vụ tương đối ổn định. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá thực tế cả năm ước tính đạt 1197,5 nghìn tỷ đồng, tăng 18,6%; nếu loại trừ yếu tố giá thì mức tăng đạt 11% so với năm 2008. Đến 9 tháng đầu năm 2010 khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,89%, đóng góp 0,49 điểm phần trăm; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 7,29%, đóng góp 3,02 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 7,24%, đóng góp 3,01 điểm phần trăm.Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản chín tháng năm 2010 theo giá so sánh 1994 ước tính tăng 4,6% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm nông nghiệp tăng 4,4%; lâm nghiệp tăng 4,1%; thuỷ sản tăng 5,3%. Tính chung chín tháng năm 2010, giá trị sản xuất công nghiệp theo giá so sánh 1994 ước tính tăng 13,8% so với cùng kỳ năm 2009. Hoạt động dịch vụ: Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng chín tháng năm 2010 ước tính tăng 25,4% so với cùng kỳ năm 2009, nếu loại trừ yếu tố giá thì tăng 15,4%. Trong tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng chín tháng, kinh doanh thương nghiệp tăng 26,4% so với cùng kỳ năm trước; khách sạn nhà hàng tăng 21,8%; dịch vụ tăng 20,5%; du lịch tăng 37,4%. Đó là những con số tương đối về tỷ trọng, dưới đây là việc phân bổ nguồn vốn thực tế cho các ngành: Bảng : Vốn đầu tư thực tế phân theo ngành kinh tế. Đơn vị: tỷ đồng 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 Tổng số 151183 170496 200145 239246 290927 343135 404712 532093 610876 708826 Nông nghiệp và lâm nghiệp 17218 13629 14605 17077 18113 20079 22323 25393 29313 33515 Thủy sản 3715 2513 2934 3143 4850 5670 7764 8567 9665 10865 Công nghiệp khai thác mỏ 9588 8141 7964 11342 22477 26862 30963 37922 50962 59924 Công nghiệp chế biến 29172 38141 45337 51060 58715 68297 80379 108419 108124 125115 Sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước 16983 16922 20943 24884 31983 37743 43550 54970 64160 74840 Xây dựng 3563 9046 10490 11508 11197 13202 16043 21136 25005 28106 Thương nghiệp; Sửa chữa xe có động cơ, mô tô, xe máy, đồ dùng cá nhân và gia đình 3035 7953 11962 14763 15659 18359 20154 23195 28200 31400 Khách sạn và nhà hàng 4453 2975 3847 4230 5549 6628 8613 10899 11805 14923 Vận tải; kho bãi và thông tin liên lạc 19913 26999 32398 38226 39381 48252 58410 82495 90084 102060 Tài chính, tín dụng 1303 2018 1120 1983 1800 2174 3295 6275 7530 9823 Hoạt động khoa học và công nghệ 1883 1936 695 1351 1486 2546 3266 3852 5165 Các hoạt động liên quan đến kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn 4031 1735 2612 3605 5025 5705 6920 25427 35496 35956 QLNN và ANQP; đảm bảo xã hội bắt buộc 3914 3854 3072 4452 8260 9727 11914 13236 12906 19621 Giáo dục và đào tạo 6084 6225 5882 7118 8614 10097 13234 14502 16521 18689 Y tế và hoạt động cứu trợ xã hội 2323 2770 3207 4370 5665 5775 6150 7517 8932 10435 Hoạt động văn hóa và thể thao 2812 2228 3029 4288 4583 4893 5625 7257 9857 12057 Các hoạt động Đảng, đoàn thể và hiệp hội 793 342 818 892 1015 1217 1456 1644 1752 2151 HĐ phục vụ cá nhân, cộng đồng và các hoạt động khác 20400 23071 29230 35151 46690 56969 65373 79973 96712 114181 Nguồn : Tổng cục thống kê Theo số liệu thống kê ở trên, ta thấy trong thời gian qua, nguồn vốn cho đầu tư phát triển chủ yếu tập trung cho lĩnh vực công nghiệp (41% ) và dịch vụ ( 52% ), lĩnh vực công nghiệp giảm dần và còn 6% năm 2008. Trong giai đoạn năm 2000-2008 tỷ trọng nông lâm nghiệp và thủy sản trong GDP giảm, từ 24,53%GDP xuống còn 22,1%GDP; tỷ trọng công nghiệp đã tăng từ 36,73%GDP lên 39,73%GDP; còn tỷ trọng dịch vụ đã giảm nhẹ từ 38,74%GDP xuống 38,17%GDP. Đầu tư cho lĩnh vực KHCN, giáo dục đào tạo, y tế, văn hóa tăng 15,2%/năm, nên tỷ trọng vốn đầu tư cho các lĩnh vực này đã đạt tương ứng là 12,7% và 8,1%; ngoài ra còn đầu tư cho hạ tầng giao thông vận tải và thông tin liên lạc 8,2%, các nghành khác khoảng 20,7%. Tỷ trọng đóng góp theo 3 nhóm ngành vào GDP (%) 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 Tổng số GDP 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 Nông,lâm nghiệp và thủy sản 24.53 23.24 23.03 22.54 21.81 20.86 20.40 20.30 22.10 20.66 Công nghiệp và xây dựng 36.73 38.13 38.49 39.47 39.79 41.13 41.54 41.58 39.73 40.24 Dịch vụ 38.73 38.63 38.48 37.99 38.40 38.01 38.06 38.12 38.17 39.10 Nguồn: tổng cục thống kê Tốc độ tăng trưởng bình quân của ba lĩnh vực và nền kinh tế, giai đoạn 1986-2009 Giai đoạn Nền kinh tế Theo lĩnh vực Nông, lâm,thủy sản Công nghiệp và xây dựng Dịch vụ 1986-2009 6.87 3.75 9.39 6.92 1986-1990 4.43 2.67 4.71 5.77 1991-1995 8.18 4.03 12 8.57 1996-2000 6.95 4.42 10.6 5.69 2001-2005 7.51 3.82 10.18 6.97 2006-2009 7.63 3.72 7.48 7.73 Nguồn: GSO (2000): Số liệu thống kê kinh tế – xã hội Việt Nam giai đoạn 1975-2009 Đóng góp của các lĩnh vực trong tăng trưởng GDP (%) 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 Đóng góp Tăng trưởng GDP 6.79 6.89 7.08 7.34 7.79 8.44 8.23 8.46 6.18 5.32 Nông,lâm, thủy sản 1.58 0.69 0.93 0.79 0.92 0.82 0.72 0.70 0.73 0.32 Công nghiệp, Xây dựng 2.40 3.68 3.47 3.92 3.93 4.21 4.17 4.19 2.54 2.30 Dịch vụ 2.8 2.52 2.68 2.63 2.94 3.41 3.34 3.57 2.9 2.7 Nguồn: Tính toán của tác giả từ: GSO (2000): Số liệu thống kê kinh tế – xã hội Việt Nam giai đoạn 1975-2000. Hà Nội: Nhà Xuất bản Thống kê; GSO (2004). Việt Nam: 20 năm Cải cách và Phát triển (1986-2005). Hà Nội: Nhà xuất bản Thống kê; GSO (2008). Niên giám thống kê 2007. Hà Nội: GSO (2008 và 2009). Từ những con số trên chúng ta nhận thấy rằng công nghiệp và dịch vụ là những lĩnh vực quan trọng đóng góp chủ yếu vào cơ cấu tổng sản phẩm kinh tế quốc dân. Mặc dù vậy chính sách của nhà nước trong giai đoạn này vẫn chú ý đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp vì nước ta hiện nay, nông dân vẫn chiếm tỷ lệ lớn và nông nghiệp nông thôn có vị trí rất quan trọng trong quá trình phát triển, tỉ lệ gia tăng vốn đầu tư trong lĩnh vực này là 13,2%/ năm. Qua số liệu ta có thể nhận thấy tỷ trọng và vai trò của từng ngành trong đầu tư như sau: Nhóm ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản giảm 4 điểm phần trăm từ 25% năm 2000, đến năm 2009 tỷ trọng của nhóm ngành này chiếm trong GDP chỉ còn 21%. Cơ cấu của nhóm ngành này giảm chủ yếu do vốn đầu tư từ khu vực kinh tế ngoài nhà nước giảm( từ 26% năm 2000 giảm xuống 20% năm 2009,bởi lẽ gần 95% đầu ra của ngành này là khu vực kinh tế ngoài nhà nước). Nói cách khác, do sự phát triển chậm tương đối của nông lâm nghiệp, thủy sản cơ cấu của nhóm ngành này chủ yếu đã được chuyển dịch theo hướng giảm bớt tương đối. Nhóm ngành công nghiệp và xây dựng tỷ trọng tương ứng đã tăng lên: Khu vực công nghiệp và xây dựng tăng từ 36% năm 2000 lên 40% năm 2009, chuyển dịch cơ cấu trong nhóm ngành này chủ yếu do tăng trưởng đầu tư của khu vực kinh tế ngoài nhà nước( từ 9% năm 2000 lên 13% năm 2009)và khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài ( từ 12% năm 2000 lên 16% năm 2009) trong khi đó sự đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước giảm tương đối, tuy vẫn tăng lên về quy mô. Cơ cấu nhóm ngành dịch vụ trong GDP hầu như không có gì thay đổi trong suốt giai đoạn từ năm 2000 đến 2009, cơ cấu đóng góp vào GDP vẫn là 39% .Tuy nhiên về thành phần đầu tư vào có sự thay đổi, cơ cấu đầu tư của thành phần kinh tế nhà nước và ngoài nhà nước giảm 1 điểm phần trăm của năm 2009( 21% đóng góp) so với 2000(22% đóng góp), trong khi khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 2 điểm phần trăm từ 1% trong năm 2000 lên 3% trong năm 2009. Sự trì trệ của ngành dịch vụ chính là một hạn chế, làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh, đầu tư của các thành phần kinh tế và của các ngành công nông nghiệp nói chung. Đối với riêng từng ngành thì cơ cấu trong nội bộ từng ngành đã có sự chuyển dịch qua các giai đoạn. Trong nông nghiệp tỷ trọng của từng ngành là: Bảng: Cơ cấu từng ngành trong nông nghiệp(- %) Tổng số Trồng trọt Chăn nuôi Dịch vụ nông nghiệp 2001 100,0 77,9 19,6 2,5 2002 100,0 76,7 21,1 2,2 2003 100,0 75,4 22,4 2,2 2004 100,0 76,3 21,6 2,1 2005 100,0 73,5 24,7 1,8 2006 100,0 73,7 24,5 1,8 2007 100,0 73,9 24,4 1,7 2008 100,0 71,4 27,1 1,5 2009 100,0 71,4 26,9 1,7 Nguồn: Tổng cục thống kê Ngành nông nghiệp khẳng định nông nghiệp đã giữ được mức tăng trưởng khá, Theo đó, tỷ trọng trồng trọt giảm xuống từ 77,9% năm 2001 xuống 71,4% năm 2009, tỷ trọng của chăn nuôi tăng lên và dịch vụ trong nông nghiệp đã có sự chuyển dịch. Kết thúc năm 2009, VN đã xuất khẩu lượng gạo trị giá gần 2,7 tỷ USD. Bảng: Tốc độ tăng, giảm GDP bình quân của các ngành dịch vụ qua các thời kỳ(%) Ngành dịch vụ BÌNH QUÂN NĂM 1996- 2000 2001-2005 2006 2007 2008 2009 2006- 2008 1996-2009 Tổng số 5.70 6.69 8.29 8.68 7.18 6.63 8.05 7.73 1. Thương mại 5.85 7.45 8.55 8.67 6.34 7.67 7.85 7.86 2. Khách sạn, nhà hàng 5.63 8.74 12.4 12.7 8.54 2.29 11.21 8.96 3. Vận tải, bưu điện, du lịch 6.45 7.38 10.1 10.4 13.8 8.48 11.45 10.78 4. Tài chính, tín dụng 7.48 7.73 8.18 8.82 6.63 8.69 7.87 8.08 5. khoa học và công nghệ 5.69 8.55 7.38 7.67 6.14 6.4 7.06 6.89 6. Kinh doanh….và dịch vụ tư vấn 4.66 3.91 2.94 4.07 2.49 2.54 3.17 3 7. Quản lí nhà nước 2.58 5.49 7.57 8.22 6.38 7.28 7.39 7.36 8. Giáo dục và đào tạo 5.63 7.46 8.42 8.68 8.04 6.56 8.38 7.94 9. Y tế và hoạt động cứu trợ XH 5.57 7.4 7.84 7.99 7.67 6.74 7.83 7.73 10. Văn hóa và thể thao 7.8 6.2 7.68 7.98 7.83 7.21 7.83 7.38 11. Đảng, đoàn thể, hiệp hội 12.49 5.94 7.42 8.05 6.92 6.72 7.47 7.28 12. Phục vụ cá nhân và công đồng 8.02 5.95 7.25 7.91 6.31 5.9 7.16 6.84 13. Làm thuê công việc gia đình trong các hộ tư nhân 5.84 3.39 7.45 8.49 7.94 6.33 7.96 7.45 Nguồn: Kinh tế dự báo số 17-2009 Đối với ngành dịch vụ đã có sự chuyển dịch đáng kể từ năm 2000 cho đến nay. Hầu hết tất cả các ngành dịch vụ đều tăng lên qua các thời kỳ. Điều này thể hiện sự chuyển dịch đúng hướng trong cơ cấu kinh tế, cũng như cơ cấu đầu tư. Qua các con số trên ta thấy rằng việc thay đổi cơ cấu đầu tư sẽ làm biến đổi lớn cơ cấu của các ngành và nội bộ các ngành. Vốn đầu tư tập trung vào đâu thì ngành đó sẽ tăng trưởng và ngược lại nó sẽ làm giảm cơ cấu của ngành đó trong tỷ trọng của nền kinh tế. Đánh giá cơ cấu đầu tư theo ngành của Việt Nam và ảnh hưởng của nó lên sự phát triển kinh tế xã hội của nước ta Nghiên cứu cơ cấu đầu tư theo ngành để thấy được tình hình hợp lí hay không hợp lí trong bố trí vốn đầu tư giữa các ngành, vùng trên cơ sở xem xét tác động đầu tư ở các ngành, vùng đến việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế xã hội trong mỗi giai đoạn .Sự tăng cường nhịp độ đầu tư vào các ngành không những phản ánh tốc độ mở rộng qui mô phát triển của ngành mà còn thể hiên mức độ tập trung tiềm lực xã hội cho ngành đó. Những thành tựu đã đạt được trong cơ cấu đầu tư theo ngành của nước ta Trong quá trình đổi mới, mở cửa và hội nhập kinh tế, Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm đến vấn dề chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xác định rõ ràng định hướng “chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa”. Nội dung và yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH là tỷ trọng giá trị của công nghiệp và tỷ trọng giá trị của dịch vụ trong GDP tăng nhanh, còn tỷ trọng giá trị của nông nghiệp giảm dần. Nhờ thực hiện chủ trương định hướng của Đảng về chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước ta đã đạt được những thành tựu. Cơ cấu kinh tế ngành của nước ta đã có sự chuyển dịch đúng hướng và đạt kết quả tích cực. Nền kinh tế nước ta đạt tốc độ tăng trưởng cao trong suốt quá trình đổi mới. cùng với tốc độ tăng cao liên tục và khá ổn định của GDP . Đó là tỷ trọng trong GDP của ngành nông nghiệp đã giảm nhanh từ 38,1% năm 1990 xuống 27,2% năm 1995; 24,5% năm 2000; 20,9% năm 2005, và đến năm 2008 ước còn 20,6%. Tỷ trọng công nghiệp trong GDP đã tăng nhanh, năm 1990 là 22,7%; năm 1995 tăng lên 28,8%; năm 2000: 36,7%; năm 2005: 41% và đến năm 2008 ước tính sẽ tăng đến 41,6%. Tỷ trọng dịch vụ trong GDP chưa biến động nhiều, năm 1990 là 38,6%; năm 1995: 44,0%; năm 2000: 38,7%; năm 2005: 38,1%; năm 2008 sẽ là khoảng 38,7%. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã làm thay đổi cơ cấu lao động nước ta theo xu hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Số lao động trong các ngành công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng lên, trong khi số lao động ngành nông nghiệp ngày càng giảm đi.Thực tế nền kinh tế ở nước ta, trong những năm đổi mới cho thấy, những thành tựu trong chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đã tạo thêm nhiều việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân Như vậy, cơ cấu kinh tế ngành đã chuyển dịch theo hướng CNH- HĐH, tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ tăng cao, tỷ trọng của dịch vụ ổn định, trong khi tỷ trọng của nông nghiệp giảm đi khá nhanh. Đạt được những kết quả đó cũng do việc thay đổi cơ cấu đầu tư dịch chuyển mạnh mẽ, đúng hướng, hợp lí. Cơ cấu vốn đầu tư theo khối ngành kinh tế cũng có sự dịch chuyển mạnh, không chỉ ở các ngành mà còn trong nội bội ngành. Tỷ trọng vốn đầu tư khối ngành sản xuất kinh doanh tăng lên, trong khi khối ngành kết cấu hạ tầng giảm đi. Nguyên nhân là do chính sách thắt chặt quản lý nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản của Nhà nước nhằm hạ nhiệt nền kinh tế, giảm áp lực lạm phát trong thời gian gần đây. Để thấy được những thành quả trong chuyển dịch cơ cấu đầu tư theo ngành ta có thể thông qua thành quả của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Cụ thể trong từng ngành như sau: Ngành nông nghiệp Chuyển dịch cơ cấu đầu tư ngành nông nghiệp có nhiều bước tiến bộ, đi đúng hướng,đầu tư theo ngành nông nghiệp đã tập trung vàolợi thế cây, con và vùng lãnh thổ, góp phần thúc đẩy sản xuất, xuất khẩu phát triển. Điều đó được thể hiện trong khi giá trị tuyệt đối của sản xuất nông nghiệp tiếp tục tăng, thì tỷ trọng nông nghiệp trong GDP ngày càng giảm . Trong ngành nông nghiệp tỷ trọng đầu tư đã được chú trọng vào chăn nuôi và giảm nhẹ trồng trọt xuống kết quả mang lại là tỷ trọng giá trị sản xuất trong lĩnh vực chăn nuôi tăng từ 19,3% (năm 2000) lên đến 21,6% (năm 2004) và 23,4% (năm 2005) và 26,9% năm 2009; còn tỷ trọng trong trồng trọt lại giảm từ 78,2% (năm 2000) xuống còn 75,4% (năm 2003), nhưng tăng nhẹ tới 76,3% (năm 2004) và 74,5% (năm 2005) và 71,4 % năm 2009. Điều đó thể hiện, nông nghiệp của nước ta đã từng bước phát triển theo một cơ cấu tiên tiến. Trong trồng trọt diện tích trồng lúa giảm dần để tăng diện tích trồng các loại cây có giá trị kinh tế cao hơn (như cây công nghiệp ngắn ngày: bông, mía, đậu tương..., cây công nghiệp lâu năm: chè, cao su, hạt tiêu, cây ăn quả...), song vẫn bảo đảm được an ninh lương thực quốc gia và tăng xuất khẩu gạo một cách đáng kể, phản ánh sự chuyển dịch cơ cấu cây trồng trong nông nghiệp ngày càng đáp ứng đúng nhu cầu của thị trường và có hiệu quả hơn. Đặc biệt thực hiện chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Đảng và Nhà nước, những năm gần đây đã có sự chuyển mạnh một phần diện tích trồng lúa có năng suất, hiệu quả thấp sang nuôi trồng thủy sản (tập trung nhiều ở vùng đồng bằng sông Cửu Long và duyên hải Nam Trung Bộ), nhờ vậy đã góp phần tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nâng cao đời sống cho nông dân. Ngành công nghiệp Xem xét về mặt số lượng, sự thay đổi cơ cấu ngành công nghiệp được coi là phù hợp với xu hướng khách quan: Nhóm ngành công nghiệp khai thác được phát triển tập trung vào những tài nguyên có trữ lượng lớn và giá trị kinh tế cao (dầu khí, than đá…) để đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Nhóm ngành công nghiệp nặng được phát triển theo hướng tập trung hơn vào các ngành sản xuất sản phẩm trong nước có khả năng và có nhu cầu lớn  (điện, cơ khí chế tạo và lắp ráp, đóng tàu, vật liệu xây dựng, hóa chất …). Nhóm ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và chế biến nông, lâm, thủy sản được chú trọng phát triển vừa đáp ứng nhu cầu trong nước thay thế nhập khẩu và phục vụ xuất khẩu, vừa tạo thêm nhiều việc làm và thu nhập cho người lao động, tăng mức đóng góp vào ngân sách nhà nước. Một số ngành công nghệ cao (điện tử dân dụng và công nghiệp, máy tính, cơ khí chính xác, công nghệ thông tin), tuy mới được hình thành, nhưng có tốc độ phát triển nhanh và ngày càng trở thành bộ phận chiếm vị trí quan trọng trong cơ cấu ngành công nghiệp. Các ngành nghề thủ công nghiệp ở nông thôn được chú trọng phát triển nhằm thúc đẩy thực hiện phân công lại lao động ở nông thôn, tạo thêm việc làm và thu nhập cho dân cư nông thôn. Ngành dịch vụ Nhìn tổng quát, tăng trưởng của khu vực dịch vụ và của hầu hết các ngành dịch vụ có xu hướng cao lên qua các thời kỳ, cùng với sự đổi mới và mở cửa ngày một sâu, rộng hơn. Trong lĩnh vực dịch vụ, đã có bước phát triển nhảy vọt cả về chất và lượng, nhất là từ thập niên 90 của thế kỷ XX trở lại đây. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng của lĩnh vực này lại không đều qua các thời kỳ khác nhau, thể hiện nổi bật qua việc tăng nhanh của ngành dịch vụ trong thời kỳ 1990 - 1995, sau đó liên tục bị giảm sút và chỉ có dấu hiệu phục hồi nhẹ trong một vài năm gần đây. Điều đó khiến tỷ trọng của ngành dịch vụ trong GDP, sau khi tăng tương đối mạnh trong thời kỳ 1990 - 1995 (năm 1995 đạt 44,06%) đã liên tục bị giảm: năm 1996 còn 42,51%; năm 1997 còn 42,15%; năm 1998 còn 41,73%; năm 1999 còn 40,08% và năm 2005 còn 38,1% và năm 2009 còn 39,1%.Sự thay đổi cơ cấu trong ngành dịch vụ là phù hợp với đà phát triển về một số mặt: Tỷ trọng của ngành tiêu thụ những sản phẩm dịch vụ (như khách sạn, nhà hàng, du lịch, văn hóa, thể thao, giải trí,…) có tốc độ tăng cao hơn những ngành như thương mại thuần túy. Điều đó chứng tỏ, nhu cầu tiêu dùng của dân cư đã có sự thay đổi so với trước Ngành tài chính tín dụng từ khi nền kinh tế chuyển đổi, mở cửa đã có tốc độ tăng cao hơn. Hoạt động khoa học công nghệ trước đây thường tăng thấp hơn tốc độ tăng chung do cả hai yếu tố đầu vào và đầu ra, nguồn lực chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước có tính bao cấp, nay ở đầu vào nguồn ngân sách đã tăng lên khá hơn, ngoài ra còn có nguồn lực của thành phần kinh tế khác , của bản than các tổ chức khoa học công nghệ tạo ra, đầu ra đã được mở rộng hơn. Một số ngành dịch vụ đã phát triển khá nhanh và đang từng bước mở rộng quy mô như vận tải, kho bãi; đặc biệt, dịch vụ viễn thông đã có bước phát triển đột phá, đưa ngành viễn thông nước ta trở thành ngành dịch vụ hiện đại, có năng lực cạnh tranh trong khu vực. Những điểm chưa hợp lí trong cơ cấu đầu tư theo ngành của nước ta Ta cũng thấy được sự bất hợp lí trong chuyển dịch cơ cấu đầu tư theo ngành thông qua chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, hay chính là cơ cấu sử dụng vốn.Sự chuyển dịch cơ cấu ngànhkinh tế ở nước ta thời gian qua còn những hạn chế sau: Một là: Cơ cấu ngành chuyển dịch theo hướng hiện đại còn rất chậm, chưa đóng góp tích cực vào việc tạo ra bước đột phá trong phát triển cả chất lượng và hiệu quả. So với các nước trong khu vực và trên thế giới thì kết quả chuyển dịch của nước ta còn rất khiêm tốn. Hai là: Chuyển dịch cơ cấu ngành mới chỉ chú ý tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ mà chưa chú ý nhiều tới mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành theo hướng hiện đại, phát triển mạnh kỹ thuật công nghệ tiên tiến trong tất cả các ngành. Các ngành sử dụng công nghệ tiên tiến còn ít, các ngành công nghiệp gia công, lắp ráp còn chiếm tỷ trọng lớn. Ba là: Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành chưa thực sự diễn ra theo một chiến lược, quy hoạch tổng thể, mà phần nhiều mang tính tự phát, một phần vẫn được định hướng bởi các quy hoạch mang tính cục bộ của riêng các ngành. Vì thế quy hoạch tổng thể thường bị phá vỡ, nên hiệu quả đầu tư thấp, cơ cấu chuyển dịch chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển bền vững. Cụ thể trong các ngành như sau: Ngành nông nghiệp Nông nghiệp hiện vẫn rất khó khăn để tạo ra các thay đổi về chất trong hoạt động. Dù đã tạo ra sản lượng lương thực đủ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu từ nhiều năm (riêng năm 2009 là gần 39 triệu tấn, xuất khẩu trên 6 triệu tấn, kim ngạch 2,7 tỷ USD), nhưng những mâu thuẫn cơ bản của nông nghiệp VN rất chậm được xử lý. Mặc dù đã chú ý đầu tư vào khoa học, kỹ thuật cho nông nghiệp,tỷ trọng đầu tư vào cơ giới hóa nông nghiệp tăng lên đáng kể, sự thâm nhập của phương thức sản xuất mới, máy móc hiện đại vào nông nghiệp có, nhưng kết quả thì vẫn hạn chế. Lý do là vì quy mô nhỏ, manh mún đã triệt tiêu nhu cầu ứng dụng công nghệ cao để gia tăng giá trị khai thác đất. Một giải pháp khác đưa ra là khuyến khích tích tụ ruộng đất, hình thành mô hình canh tác kiểu công nghiệp với sự tham gia của máy móc, khoa học, công nghệ, hay mô hình trang trại có diện tích lớn, hoạt động khép kín nhưng lại xảy ra vấn đề thừa lao động, thiếu ruộng tại nông thôn và từ đó gây bất ổn xã hội... Cũng đã giải quyết theo hướng đầu tư hình thành các vùng sản xuất chuyên canh lớn, tập trung như cà phê, chè, mía... Nhưng các vùng sản xuất lớn này, cứ tăng được sản lượng thì lại giảm về giá bán, thậm chí nông dân bị ép giá tới không còn lãi, hoặc lỗ nặng. Những câu chuyện về cá ba sa nguyên liệu, hay hiện tại là giá lúa tại đồng bằng sông Cửu Long, cà phê tại Tây Nguyên là ví dụ tiêu biểu cho những khiếm khuyết trong hình thành các vùng sản xuất lớn. Trong cơ cấu thành phần đầu tư có sự tham gia của DN,đã có giai đoạn đây được xem như lời giải cho bài toán kích thích các nỗ lực gia tăng giá trị hoạt động nông nghiệp.Nhà nước cũng đang can thiệp, bình ổn một số sản phẩm nông nghiệp chiến lược như cà phê, lúa gạo... thông qua các mệnh lệnh hành chính với người thực hiện là các DN. Tuy nhiên, cách làm này chỉ có tác dụng kìm hãm phần nào đà rớt giá, hạn chế bớt thiệt hại của nhà nông, còn lãi hay không thì là chuyện khác. Nông nghiệp VN chưa có mô hình hợp tác với sự tham gia của người sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm được xây dựng trên cơ sở phân chia lợi nhuận một cách công bằng. Nông nghiệp VN nói chung, nông dân nói riêng quá khó để công nghiệp hóa, hiện đại hóa nếu không xây dựng được cơ chế phối hợp này. Ngành công nghiệp Mục tiêu đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại hóa là thực sự cần thiết. “Nhưng cơ bản là như thế nào cần phải được làm rõ thông qua các quy hoạch, chiến lược phát triển công nghiệp thống nhất để khi nhắc đến ngành đó, người ta nghĩ ngay đến Việt Nam và khi nghĩ đến Việt Nam là người ta biết ngay có ngành đó phát triển. Kiểu như sản xuất và xuất khẩu công nghiệp ô tô và điện tử thì người ta nghĩ ngay đến người Nhật”. Mục tiêu của ngành công nghiệp chủ yếu là nhanh chóng phục hồi và đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng sản xuất công nghiệp đều khắp các ngành, các địa phương. Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm công nghiệp có thị trường, sức cạnh tranh cao, đ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docMột số đánh giá về cơ cấu đầu tư theo ngành tại việt nam từ năm 2000 cho đến nay.doc
Tài liệu liên quan