Để đảm bảo nguồn kinh phí lâu dài cho hệ thống trợ cấp BHXH, Nhà nước quy định: ngân sách Nhà nước trợ cấp hưu trí cho cán bộ, công chức, quân nhân đã nghỉ việc trước năm 1995 đang hưởng lương hưu và các loại trợ cấp hàng tháng khác. Như vậy là quỹ BHXH không phải chi một khoản trợ cấp khá lớn cho người lao động trong một thời gian dài. Quỹ BHXH chỉ chịu trách nhiệm chi trả các loại trợ cấp cho cán bộ, công chức, quân nhân hưởng trợ cấp sau năm 1995. Tuy nhiên, trong 5 năm qua, khi so sánh tổng số chi BHXH hơn 24.000 tỷ đồng và tổng số thu BHXH gần 4.200 tỷ đồng, chúng ta thấy thu BHXH không thể bù đắp cho chi BHXH. Chính vì vậy, những năm qua, ngân sách Nhà nước luôn phải hỗ trợ quỹ BHXH. Tình hình cụ thể như sau:
34 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1415 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Một số giải pháp hoàn thiện hệ thống thu và quản lý thu quỹ bảo hiểm xã hội Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h và của BHXH huyện cấp dưới
* BHXH Việt Nam
Thu BHXH của BHXH bộ Quốc phòng, bộ Công an, ban cơ yếu Chính phủ
Lập kế hoạch thu BHXH trong toàn bộ hệ thống BHXH, giao kết kế hoạch thu BHXH cấp dưới
Kiểm tra thẩm định số liệu thu của BHXH cấp dưới
Báo cáo tình hình hoạt động của hệ thống BHXH lên Chính phủ, bộ Lao động - thương binh và xã hội và các cơ quan quản lý Nhà nước có liên quan
Các đơn vị, doanh nghiệp có người lao động tham gia BHXH phải có trách nhiệm báo cáo cho BHXH cấp tương ứng về số lao động tham gia BHXH và quỹ tiền lương của doanh nghiệp; trích và nộp tiền BHXH vào tài khoản thu BHXH tại ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hoặc tại Kho bạc Nhà nước theo đúng thời hạn quy định .
Theo cơ cấu thu trên, các cấp quản lý thu BHXH được phân công, phân nhiệm rõ ràng, không có sự trùng lắp ở các cấp. Ngoài ra, hệ thống quản lý thu theo chiều dọc giúp cho việc kiểm tra, thẩm định hoạt động của các cấp được dễ dàng.
Hiện nay, mô hình quản lý thu như trên đang được áp dụng trong hệ thống BHXH Việt Nam. Do nhiều nguyên nhân mà tình hình thu và quản lý thu quĩ BHXH Việt Nam vẫn còn nhiều tồn tại cần giải quyết. Sau đây chúng ta hãy xem xét tình hình thu và quản lý thu quĩ BHXH Việt Nam.
Phần hai: Tình hình thu và quản lý thu quĩ BHXH Việt Nam những năm gần đây (1995 - 2000)
Tình hình số người tham gia BHXH tại Việt Nam (1995 - 2000)
Theo Nghị định 12/CP năm 1995, ngoài những người lao động được tham gia BHXH đã nêu ở trên, còn một lượng lớn lao động trong lực lượng lao động ở nước ta chưa tham gia BHXH như lao động nông nghiệp ở nông thôn, những người lao động làm việc tự do, không ổn định (thợ thủ công, tiểu thương, lao động làm việc theo mùa vụ ngắn hạn ...). Số lao động chưa tham gia BHXH này không phải là nhỏ, chiếm khoảng 40% lực lượng lao động ở nước ta. Tuy nhiên, số lao động thuộc diện tham gia BHXH thuộc các thành phần kinh tế cũng vẫn chưa tham gia BHXH đầy đủ. Tình hình thực tế như sau:
Bảng 1: Số lao động tham gia BHXH tại Việt Nam giai đoạn (1995-2000)
Năm
Tổng số
(người)
Tốc độ tăng liên hoàn (%)
KV tư nhân - ngoài quốc doanh (người)
Tốc độ tăng (%)
DN vốn nước ngoài
(người)
Tốc độ tăng(%)
1995
1996
1997
1998
1999
2275998
2961444
3162352
3355589
3579427
-
30,1
6,78
6,1
6,7
30063
56280
84058
122685
125279
-
87,2
49,4
46
37
78791
125889
214596
242108
361522
-
59,8
70,5
12,8
49,3
(Nguồn : Tạp chí BHXH 5/2000)
Xét về số lao động tham gia BHXH tại Việt Nam, theo bảng trên ta thấy, sau khi đổi mới hệ thống BHXH Việt Nam, số lao động tham gia BHXH liên tục tăng lên với tốc độ cao. Năm 1995, số người lao động tham gia BHXH là 2,2 triệu, đến năm 1999, con số này đã tăng đến 3,6 triệu, như vậy là tăng khoảng 60%. Chưa kể hàng năm có khoảng 15 vạn lao động về hưu không được liệt kê vào bảng số liệu trên.
Năm 1995 là năm gốc của đổi mới, số lao động tham gia BHXH mới chỉ đạt 2.275.998 người. Sang năm 1996, sau khi có đầy đủ số liệu về số lao động thuộc diện tham gia BHXH, quĩ lương... một số lượng lớn lao động ở các doanh nghiệp có vốn nước ngoài, doanh nghiệp ngoài quốc doanh sử dụng 10 lao động trở lên đã tham gia BHXH. Số người tham gia BHXH năm 1996 tăng lên 685.446 nghĩa là tăng 30,1% so với năm 1995. Các năm sau 1997, 1998, 1999, số người lao động tham gia BHXH liên tục tăng tốc độ hơn 6%/năm.
Tuy nhiên, khi so sánh lượng tăng tuyệt đối trung bình của giai đoạn 1995 - 2000 là khoảng 300.000 người với 1.200.000 lực lượng tăng tự nhiên hàng năm của Việt Nam thì số người tham gia bảo hiểm tăng thêm chiếm 1/4 số người lao động tăng thêm. Tất nhiên, trong 1,2 triệu lao động tăng thêm hằng năm còn bao gồm cả thất nghiệp, người làm việc ở khu vực tư nhân, tiểu thương, thợ thủ công... Mặt khác, Việt nam hiện nay có khoảng 38 triệu lao động ,nhưng chỉ 14% trong số đó tham gia BHXH. Vậy trong những năm tới, Nhà nước cũng như ngành bảo hiểm xã cần có những giải pháp tích cực để tăng số người tham gia BHXH .
Như vậy, nhìn chung là số người tham gia BHXH tăng liên tục với tốc độ cao qua các năm. Tuy nhiên tỉ lệ số người tham gia BHXH so với tổng số lao động còn thấp, đặc biệt là khi so sánh với các nước trên thế giới: tỉ lệ này là xấp xỉ 95% ở các nước kinh tế phát triển .
Tình hình chung là như vậy, nhưng để tìm ra nguyên nhân của thực trạng và giải pháp thích hợp để tăng số người tham gia BHXH, chúng ta cần xem xét tình hình người lao động tham gia BHXH ở từng khối - loại hình kinh tế. Đối với khối hành chính sự nghiệp và lực lượng vũ trang, do lương của người lao động được ngân sách Nhà nước cấp nên số lao động tham gia hoạt động trong khu vực này đảm bảo tham gia BHXH đầy đủ. Cũng như vậy, trong khối doanh nghiệp Nhà nước - những doanh nghiệp do Nhà nước cấp vốn thành lập và quản lý - do hệ thống quản lý lao động, tiền lương chặt chẽ nên người lao động tại các doanh nghiệp này tham gia BHXH cũng đầy đủ. Cụ thể là, năm 1999, số người lao động tham gia BHXH khối hành chính sự nghiệp là 1.367.341 người; khối doanh nghiệp Nhà nước là 1.521.256 người. Số người lao động tham gia BHXH ở hai khối ngành này chiếm hơn 3/4 số người lao động tham gia BHXH cả nước. Trong những năm tới, ở hai khối ngành này, do hầu hết lao động đều tham gia BHXH đầy đủ nên số người lao động tham gia bảo hiểm sẽ tăng không mạnh.
Ngược với xu hướng của 2 khối ngành trên, số người lao động tham gia BHXH trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng số người lao động tham gia BHXH cả nước cũng như so với số người tham gia lao động trong lĩnh vực này.
Trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, bảng 1 cho chúng ta thấy, số người tham gia BHXH liên tục tăng mạnh trong các năm từ 1995 đến 1999. Số lao động tham gia BHXH năm 1999 so với năm 1995 tăng từ 30.063 đến 125.279 người, nghĩa là tăng gấp 4 lần. Đây cũng là khu vực có số lao động tham gia BHXH tăng mạnh nhất so với các loại hình kinh tế khác với tốc độ tăng bình quân 60%/năm. Tuy nhiên, khi so sánh với số lao động tham gia hoạt động trong khu vực thì số lao động tham gia BHXH chỉ chiếm hơn 10%. Hơn thế nữa, số lao động tham gia BHXH này chỉ tập trung ở một số tỉnh, thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài lý do là đối tượng tham gia BHXH chỉ giới hạn là lao động ở các doanh nghiệp sử dụng từ 10 lao động trở lên, thực trạng trên bắt nguồn từ nhiều phía: Nhà nước, người sử dụng lao động, người lao động:
Về phía Nhà nước: Nhà nước, chính quyền địa phương còn chưa quan tâm đúng mức đến khu vực lao động này, chưa có chế độ kiểm tra, quản lý, xử lý cũng như chế tài thoả đáng để đảm bảo nghĩa vụ cũng như quyền lợi của người lao động. Ngoài ra, còn do sức ép về việc làm của khu vực này mà các cơ quan chức năng nhiều khi lúng túng trong việc thực hiện các biện pháp chế tài của pháp luật.
Về phía người sử dụng lao động: Do đặc điểm của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chủ yếu là các đơn vị kinh tế nhỏ, hoạt động sản xuất kinh doanh còn chưa ổn định, số đầu doanh nghiệp nhiều nhưng các yếu tố như lao động, địa bàn, hoạt động... lại thường xuyên thay đổi dẫn đến quan hệ lao động lỏng lẻo. Đây chính là yếu tố gây tâm lý né tránh nghĩa vụ nộp BHXH của người chủ sử dụng lao động ở khu vực này. Mặt khác, một số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, lãi ít, thu nhập người lao động thấp nên đóng BHXH cũng gây khó khăn cho cuộc sống người lao động.
Về phía người lao động: Người lao động ít hiểu biết về pháp luật, chưa có khái niệm về BHXH hoặc ít quan tâm đến BHXH nên cũng không yêu cầu chủ thực hiện BHXH cho mình.
Hiện nay, các khu vực ngoài quốc doanh còn 86% lao động chưa tham gia BHXH. Thực trạng này đòi hỏi Nhà nước và cơ quan BHXH Việt Nam có các biện pháp giải quyết để hoàn thiện hệ thống BHXH và đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động.
Khu vực có số người tham gia BHXH tăng nhanh kế tiếp là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài gồm: doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài. Số lao động tham gia BHXH ở khu vực này tăng rất nhanh từ 78.791 người năm 1995 lên đến 361.522 người năm 1999. Tốc độ tăng bình quân cao khoảng 40%/năm. Duy chỉ có năm 1998, do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á, mức độ vốn đầu tư vào Việt Nam giảm hẳn, ngoài ra còn do khó khăn về tài chính, nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải giảm bớt số lượng công nhân, nên mức độ tăng tuyệt đối của số người tham gia BHXH đột ngột giảm, mức độ tăng tuyệt đối là 27.512 người so với mức độ tăng tuyệt đối các năm là hơn 100.000 người. Sang năm 2000, nền kinh tế châu á đã hồi phục, lượng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tiếp tục tăng vì vậy số nhân công được thuê mướn sẽ tăng lên. Trong những năm tới, số người lao động tham gia trong lĩnh vực này sẽ có tốc độ tăng cao. Đây sẽ là nguồn thu lớn cho quĩ BHXH do số lượng lao động tham gia hoạt động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài khá đông và tiền lương thu nhập của lao động trong khu vực này thường cao hơn hẳn các khu vực khác.
Như vậy, nhìn chung, số người lao động tham gia BHXH có xu hướng tăng mạnh, liên tục qua các năm, trong cả nước cũng như trong tất cả các thành phần kinh tế. Tuy nhiên, khi so sánh số người đã tham gia BHXH với số người thuộc diện tham gia BHXH thì tỷ lệ này còn rất nhỏ, đặc biệt là tại các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Đóng góp của những người lao động tham gia BHXH và chủ của họ sẽ là nguồn hình thành chủ yếu của quĩ BHXH. Tình hình thu quĩ BHXH như sau:
Tình hình thu quĩ BHXH Việt Nam (1995 - 2000)
Biểu 1: Thực tế số thu của BHXH Việt Nam (1995 - 1999)
Đơn vị: triệu đồng
(Nguồn : Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ số 3 năm 2000)
Số liệu bảng trên cho ta thấy số thu BHXH tăng lên liên tục qua các năm. Tổng thu BHXH qua năm năm đạt gần 15.000 tỷ đồng. Như đã nêu ở phần trước, năm 1996, số người lao động tham gia BHXH tăng mạnh so với năm 1995. Chính vì thế, số thu BHXH năm 1996 là 2.569.733 triệu người tăng gấp 3 lần số thu năm 1995 (778.486 triệu người). Các năm 1997, 1998, 1999, số thu BHXH tăng lên liên tục với tốc độ cao. Hai quý đầu năm 2000, số thu BHXH đạt khoảng 2.500 tỷ đồng.
Chúng ta sẽ nhận thấy những thành tựu vượt bậc của BHXH Việt Nam nếu so sánh số thu BHXH giai đoạn 1995 - 2000 với số thu BHXH những năm trước khi đổi mới hệ thống BHXH Việt Nam. Lấy năm 1994 làm mốc, số thu BHXH năm 1994 là 420 tỷ đồng. Như vậy, năm 1995, số thu BHXH là 778 tỷ đồng, tăng gần gấp đôi so với năm 1994. Năm 1999, số thu BHXH là 4.188 tỷ đồng, tăng gấp 10 lần năm 1994. Như vậy, chỉ qua năm năm đổi mới hệ thống thu và quản lý thu, BHXH Việt Nam đã tăng gấp 10 lần.
Số thu BHXH tăng nhanh, liên tục qua các năm chứng tỏ cơ chế thu và quản lý quỹ BHXH Việt Nam đã đi đúng hướng, đảm bảo hiệu quả. Tuy nhiên, số thu BHXH Việt Nam vẫn còn thấp, chưa xứng đáng với tiềm năng lao động lớn ở nước ta. Nguyên nhân của tình trạng này như sau:
Thứ nhất, số thu BHXH thấp do tỷ lệ đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động là 20% so với tổng quỹ lương. Tỷ lệ này còn thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Tại các nước kinh tế phát triển như Bỉ, tỷ lệ đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động là 30% đến 40% so với tổng quỹ lương. Mặt khác, không những tỷ lệ đóng góp thấp mà mức lương để trích nộp BHXH cũng thấp và không đồng đều giữa các thành phần kinh tế. Người tham gia BHXH có mức lương trích nộp thấp nhất là người lao động tại các doanh nghiệp làm ăn không có hiêụ quả hoặc đang lỗ, hoạt động sản xuất cầm chừng. Mà số doanh nghiệp này hiện nay không phải là nhỏ. Người tham gia BHXH có mức lương trích nộp cao thường là người lao động có vốn đầu tư nước ngoài. Người tham gia BHXH trong khối hành chính sự nghiệp có mức lương trích nộp bằng mức lương tối thiểu nhân hệ số cấp bậc, chức vụ cộng các khoản phụ cấp. Từ 1/1/2000, mức lương tối thiểu bằng 180.000 đồng. Trước đó, tiền lương tối thiểu bằng 144.000 đồng. So với Indonesia - một nước nằm trong khu vực Đông Nam á, mức đóng góp tối thiểu bằng 1000Rp một ngày (quy đổi )
Thứ hai: số thu BHXH thấp nhưng tỷ lệ nợ đọng tiền đóng BHXH còn cao. Nhìn chung, tiền BHXH nợ bình quân 500 tỷ đồng, chiếm từ 11 đến 12% diện thu đã quản lý được. Nếu gọi tổng mức phải nộp BHXH là 100% trong một năm 12 tháng thì mức nợ một tháng chiếm 8,33% (tương ứng với 30 ngày). Số nợ tiền BHXH qa các năm như sau:
Bảng 2: Số nợ tiền BHXH các năm 1995 – 1999
Tính đến ngày
Số nợ/số phải nộp (%)
Số ngày nợ tương ứng(ngày)
31/12/1995
31/12/1996
31/12/1997
31/12/1998
31/12/1999
11,3
8,3
11,2
10,0
9,0
40
30
40
36
32
Nguồn: Tạp chí BHXH tháng 5/2000
Qua số liệu trên, ta thấy, hệ thống thu BHXH đã có nhiều phấn đấu, điều chỉnh thích hợp để rút ngắn số ngày chiếm dụng tiền BHXH từ 40 ngày xuống32 ngày. Như vậy là giảm được 8 ngày. Mục tiêu của các năm tới là tiếp tục giảm số ngày chiếm dụng xuống mức phù hợp có thể chấp nhận được.
Tình hình nợ đọng ở từng khối loại hình như sau:
- Khối hành chính sự nghiệp: Do có nguồn tiền lương và tiền đóng BHXH ổn định, được ngân sách Nhà nước cấp nên mức chiếm dụng chỉ trong 7 ngày (ứng với chu kỳ phát lương)
- Khối doanh nghiệp Nhà nước là khối có mức độ chiếm dụng lớn nhất trong các khối với mức độ trên 2 tháng do có khó khăn về việc làm, thu nhập, phương thức tính và trả lương.
- Các khối khác nói chung duy trì mức chiếm dụng trong vòng một tháng.
Như vậy là trong công tác quản lý thu nợ đọng phải tập trung sự chú ý vào khối doanh nghiệp Nhà nước nhiều hơn các khối khác.
Số nợ đọng ở các tỉnh thành phố cũng có mức độ nợ đọng khác nhau. Tình hình nợ đọng ở một số tỉnh, thành phố năm 1999 như sau:
Bảng 3: Số tiền chiếm dụng BHXH ở một số tỉnh, thành phố:
Tên tỉnh
Số nợ/số phải nộp
Số ngày chiếm dụng
Số thực tế(tỷ đồng)
Tỷ lệ (%)
tương ứng (ngày)
Phú Thọ
18/73
24
90
Hoà Bình
13/120
20
73
Thái Bình
7,7/38
15
54
Thanh Hoá
6,6/44
16
58
Gia Lai
16,6/102
16
58
Nguồn: Tạp chí BHXH, số 5/2000
Các tỉnh khác có mức nợ khoảng hơn một tháng
Trong mỗi tỉnh, số nợ của các đơn vị sử dụng lao động cũng có mức chiếm dụng ít nhiều khác nhau . Nguyên nhân của tình trạng tiền BHXH nợ đọng như đã trình bày ở trên xuất phát từ hai phía: Nhà nước và các doanh nghiệp đóng BHXH:
Về phía Nhà nước:
- Hành lang pháp lý và những chế tài pháp luật Nhà nước cho việc thu nộp BHXH chưa cụ thể và chưa đủ mạnh để buộc các chủ sử dụng lao động nộp BHXH đúng thời hạn, đủ số lượng. Chính vì vậy mà còn có nhiều doanh nghiệp cố tình chiếm dụng quỹ BHXH một cách trái pháp luật mà vẫn không bị xử lý. Theo Nghị định 38/CP của Chính phủ quy định: “Xử phạt hành vi trốn tránh trách nhiệm nộp BHXH hoặc chậm nộp BHXH” song thẩm quyền xử phạt thuộc về Thanh tra Nhà nước về lao động và UBND các cấp. Như vậy là không có sự đồng bộ trong việc thu BHXH và xử phạt dẫn đến những khó khăn trong việc kết hợp thu BHXH và xử phạt để đạt hiệu qủa thu BHXH cao nhất.
- ở nhiều địa phương, các cơ quan quản lý Nhà nước, đoàn thể, quần chúng, cơ quan bảo vệ pháp luật chưa tích cực phối hợp cùng các cơ quan BHXH thực hiện các biện pháp cưỡng chế các chủ sử dụng lao động đóng BHXH theo quy định.
- Do quy định quy trình tính lương và phát lương của hầu hết các đơn vị lĩnh lương tháng đều hoàn thành vào tháng sau. Dẫn đến việc nộp BHXH của tháng trước, tháng sau mới nộp được.
Về phía các đơn vị sử dụng lao động:
- Nhiều đơn vị thực hiện trả lương cho người lao động theo sản phẩm. Việc trả lương không những phụ thuộc vào số sản phẩm làm ra mà còn phụ thuộc vào việc sản phẩm có tiêu thụ được hay không. Vì vậy, tiền BHXH cũng phải đợi đến khi thanh toán lương cho người lao động mới nộp. Tình trạng này thường xảy ra ở các đơn vị sản xuất hàng thủ công, các nông, lâm trường còn phụ thuộc vào cơ chế giao khoán đất đai.
- Do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đã trực tiếp ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp. Do sản xuất không ổn định, nhiều doanh nghiệp thiếu việc làm cho người lao động, kinh doanh thua lỗ, thậm chí còn nợ cả tiền lương của người lao động kéo theo nợ tiền nộp BHXH. những doanh nghiệp này tập trung ở một số ngành như du lịch, thương mại dịch vụ...
- Do chủ sử dụng lao động thiếu ý thức, chưa thực sự quan tâm đến việc nộp BHXH, mặc dù khả năng của các đơn vị này đủ sức thực hiện việc trích nộp đúng quy định, điều đó dẫn đến nợ giả tạo. Những doanh nghiệp thuộc dạng này tập trung ở các ngành điện, nước, bưu chính viễn thông, hàng không...
- Một số doanh nghiệp cho rằng việc trích nộp 20% BHXH hàng tháng (trong đó, người lao động đóng 5%, người sử dụng lao động đóng 15%) là quá lớn, do đó đã trốn nộp BHXH hoặc cố tình chiếm dụng quỹ BHXH để sử dụng trong sản xuất kinh doanh mà không chịu một biện pháp xử lý nào đáng kể. Các doanh nghiệp thuộc dạng này tập trung ở các ngành giao thông vận tải và xây dựng.
- Một nguyên nhân khác cũng khá phổ biến là số nợ tồn đọng trước đây tồn tích lại, đơn vị sử dụng lao động chưa có nguồn hoặc chưa đủ cơ sở để xử lý hay nộp, hoặc giải trình xin xử lý xoá nợ, nên vẫn phải treo nợ trên sổ sách.
Tình hình thu quỹ BHXH và chiếm dụng tiền BHXH các năm trước đây như vậy, nhưng năm 2000, thu BHXH lại có những khó khăn riêng. Do tiền lương tối thiểu được điều chỉnh từ 144.000 đồng/tháng lên 180.000 đồng/tháng kể từ ngày 1/1/2000, nên kế hoạch thu BHXH năm 2000 cũng phải điều chỉnh lên tương ứng. Nhưng một điều bất cập là: theo Nghị định 175/1999/NĐ - CP, ngày15/12/1999 của Chính phủ về việc điều chỉnh mức lương tối thiểu, chỉ quy định phạm vi thực hiện ở các đơn vị hành chính sự nghiệp và các đơn vị thụ hưởng tiền lương do ngân sách Nhà nước cấp. Và đến ngày 27/3/2000 mới có Nghị định 12/2000/NĐ - CP quy định về tiền lương tối thiểu trong các doanh nghiệp ở khu vực sản xuất. Như vậy là thời gian thực hiện kế hoạch thu năm 2000 chỉ còn 8 tháng do nhiều doanh nghiệp 4 tháng đầu năm vẫn chờ văn bản hướng dẫn thực hiện việc điều chỉnh mức lương tối thiểu nên chưa đóng BHXH. Chính vì vậy, việc hoàn thành kế hoạch thu sẽ gặp nhiều khó khăn. Một khó khăn khác là : năm 2000 và 2001, lao động trong khu vực hành chính sự nghiệp giảm 10%, vì vậy, số lao động trong các khu vực khác tham gia và đóng BHXH phải tăng lên để các bù đắp đủ số thu BHXH. Nhưng vấn đề thu BHXH ở các khu vực khác (doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp Nhà nước) vẫn là vấn đề khó giải quyết từ những năm trước. Mặt khác, do có chính sách ưu đãi tạo điều kiện cho người lao động về hưu trước tuổi nên số lao động về hưu và thôi việc một lần năm 2000 có chiều hướng tăng lên đột ngột cũng làm giảm nguồn thu của quỹ. Dự kiến năm 2000, thu quỹ BHXH cả nước khoảng 5000 tỷ đồng, cao hơn năm 1999 là 20%. Trong đó, chỉ gần 10% tăng là do tăng tiền lương tối thiểu làm căn cứ thu BHXH (do tiền lương ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng rất lớn). Còn lại hơn 10% kế hoạch thu BHXH là do số người tham gia BHXH tăng và truy thu nợ quỹ BHXH. Với những khó khăn đã nêu ở trên, để hoàn thành kế hoạch thu, BHXH phải có những biện pháp thích hợp cùng với nỗ lực của toàn ngành.
Nguồn thu chủ yếu của quỹ BHXH là đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động. Bên cạnh đó, tiền nộp phạt của các doanh nghiệp nộp chậm tiền BHXH cũng đóng góp một phần không nhỏ vào nguồn quỹ. Hiện nay, tiền nộp phạt khi nộp tiền BHXH chậm do Bộ Tài chính quy định theo khung nộp phạt chung là: phạt mỗi năm không quá hai lần, mỗi lần không quá 1.5 triệu đồng, giống như quy định nộp chậm thuế VAT và bảo hiểm y tế. Số tiền nộp phạt này chỉ mang tính chất cảnh cáo mà không có tác dụng thúc đẩy các doanh nghiệp nộp tiền BHXH đúng thời hạn quy định. Một nguồn thu khác cũng rất quan trọng của quỹ BHXH là lãi đầu tư vốn nhàn rỗi quỹ BHXH. Mặc dù lãi suất của các lĩnh vực đầu tư thấp, khoảng 5 đến 6%/năm, tổng số tiền sinh lời của quỹ từ năm 1995 đến 1999 là 1.400 tỷ đồng. Riêng năm 1999, tiền nhàn rỗi của quỹ là 12.000 tỷ đồng (lớn nhất từ trước đến nay) và bổ sung cho quỹ BHXH được 631 tỷ đồng. Ngoài ra, năm 1999, quỹ BHXH đã mua 500 tỷ đồng công trái Nhà nước với lài suất 50%/5 năm. Đây là nguồn vốn dài hạn cho quỹ, đông thời góp phần hỗ trợ tài chính cho Nhà nước.
Từ những nguồn thu ở trên: đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động, các khoản thu khác, BHXH Việt Nam chi trả trợ cấp cho người lao động. Trong thời gian qua, để đảm bảo chi trả trợ cấp nhằm ỏn định cuộc sống của người lao động và gia đình họ, Nhà nước vẫn phải bổ sung liên tục nguồn quỹ BHXH.
Tình hình ngân sách Nhà nước cấp cho quỹ BHXH
Để đảm bảo nguồn kinh phí lâu dài cho hệ thống trợ cấp BHXH, Nhà nước quy định: ngân sách Nhà nước trợ cấp hưu trí cho cán bộ, công chức, quân nhân đã nghỉ việc trước năm 1995 đang hưởng lương hưu và các loại trợ cấp hàng tháng khác. Như vậy là quỹ BHXH không phải chi một khoản trợ cấp khá lớn cho người lao động trong một thời gian dài. Quỹ BHXH chỉ chịu trách nhiệm chi trả các loại trợ cấp cho cán bộ, công chức, quân nhân hưởng trợ cấp sau năm 1995. Tuy nhiên, trong 5 năm qua, khi so sánh tổng số chi BHXH hơn 24.000 tỷ đồng và tổng số thu BHXH gần 4.200 tỷ đồng, chúng ta thấy thu BHXH không thể bù đắp cho chi BHXH. Chính vì vậy, những năm qua, ngân sách Nhà nước luôn phải hỗ trợ quỹ BHXH. Tình hình cụ thể như sau:
Biểu 2: Nguồn vốn ngân sách Nhà nước trong quỹ BHXH Việt Nam
(1995 - 1999)
(Nguồn : Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ số 3 năm 2000)
Qua biểu trên ta thấy: ngược với xu hướng tăng lên của tổng chi BHXH qua các năm 1995 - 1999, nguồn vốn ngân sách Nhà nước trong quỹ BHXH có xu hướng giảm dần từ 96,19% năm 1995 xuống 84,90% năm 1999. Như vậy, giai đoạn 1995 - 1999, tỷ lệ ngân sách Nhà nước cấp cho quỹ BHXH giảm bình quân 3%/năm. So với giai đoạn 1990 - 1994 trước khi đổi mới hệ thống BHXH, nguồn vốn ngân sách Nhà nước trong quỹ BHXH là khoảng hơn 90% và luôn có xu hướng tăng lên.
Vậy là trong thời gian qua, công tác thu quỹ BHXH đã đạt được một số thành công nhất định. Tuy vẫn còn phụ thuộc phần lớn vào ngân sách xã hội, quỹ BHXH đã dần tách ra khỏi ngân sách Nhà nước, giảm nhẹ gánh nặng của ngân sách Nhà nước và hoà hệ thống tài chính quốc gia. Để đạt được những thành tựu trên, BHXH Việt Nam đã có nhiều cải tiến trong hệ thống quản lý BHXH nói chung và quản lý thu BHXH nói riêng.
4. Quản lý thu BHXH
Yêu cầu của ngành BHXH nói chung và yêu cầu của công tác quản lý thu BHXH nói riêng là cập nhật và lưu trữ trong một thời gian dài các thông tin về đối tượng tham gia BHXH như họ tên, năm sinh, giới tính, thời gian tham gia BHXH... và về các đơn vị sử dụng lao động như tổng quỹ tiền lương tham gia BHXH, số tiền nộp BHXH kỳ này, số tiền nộp BHXH còn nợ đọng. Chính vì thế mà ngành BHXH luôn cần lưu trữ một số lượng lớn hồ sơ tài liệu. Trước kia, công tác quản lý thu BHXH thực hiện bằng phương pháp thủ công trên giấy tờ vừa tốn kém, vừa khó đảm bảo tính chính xác, kịp thời. Trong thời đại công nghệ tin học phát triển như vũ bão và được áp dụng rộng rãi khắp nơi, BHXH Việt Nam đã từng bước ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác thu BHXH.
Cho đến nay, cả 3 cấp BHXH: cấp Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện đều đã được trang bị máy vi tính để thực hiện không những công tác thu mà còn các công tác khác của ngành BHXH như quản lý sổ BHXH, chi trả trợ cấp cho người lao động. áp dụng công nghệ thông tin vào quản lý thu BHXH đã có một số tác dụng sau :
Giảm nhẹ sức lao động thủ công trong hoạt động thống kê báo cáo thu BHXH, đồng thời đảm bảo tính chính xác, kịp thời của các báo cáo thu hàng quý của BHXH các cấp.
Thúc đẩy các đơn vị sử dụng lao động quan tâm đến việc báo cáo số người tham gia BHXH, mức lương tham gia BHXH để phản ánh chính xác, kịp thời tình hình thu nộp BHXH của đơn vị.
Tiết kiệm thời gian luân chuyển chứng từ, truyền đạt thông tin giữa các cấp BHXH .
Tuy đã trang bị hệ thống máy vi tính cho các cấp BHXH, nhưng các chương trình được sử dụng đều là những chương trình riêng lẻ, không có sự liên kết giữa các cấp BHXH và chưa tạo điều kiện cho việc kết hợp công tác quản lý thu BHXH và các công tác khác trong ngành. Hơn nữa, mỗi cấp BHXH lại sử dụng một chương trình khác nhau, đặc biệt có nơi vẫn còn sử dụng những chương trình đã quá lạc hậu, vì vậy, cũng không có khả năng liên kết BHXH các cấp. Trong thời gian tới, để đảm bảo công tác thu BHXH cũng như đảm bảo sự phát triển của toàn ngành, BHXH Việt Nam cần hoàn thiện hơn nữa hệ thống thông tin và nối mạng toàn quốc.
Bên cạnh việc trang bị các thiết bị thông tin hiện đại, BHXH cũng luôn chú trọng đến nâng cao nguồn lực con người. Hàng năm, cán bộ hoạt động trong ngành được đào tạo mới hoặc đào tạo lại trong công tác quản lý quỹ BHXH, bảo toàn và phát triển quỹ, các nghiệp vụ cơ bản trong công tác BHXH, cơ sở khoa học của việc hoạch định các chính sách, chế độ. Đặc biệt, ngành chú trọng vào công tác phổ cập tin học cho cán bộ trong toàn ngành và có đội ngũ chuyên viên kỹ thuật giỏi về xử lý những vấn đề trong quá trình áp dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý thu BHXH.
Như vậy là sau một thời gian ngắn áp dụng hệ thống thu và quản lý thu mới, BHXH Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể như số người tham gia BHXH tăng, số thu BHX
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34984.doc