Khu vực có số người tham gia BHXH tăng nhanh kế tiếp là các khu vực có vốn đầu tư nước ngoài gồm : Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài .Số lao động tham gia BHXH ở khu vực này tăng rất nhanh từ 78.791 người năm 1995 lên đến 361.522 người năm 1999 tốc độ tăng bình quân cao khoảng 40% một năm.Duy chỉ có năm 1998 do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu Á.Mức độ vốn đầu tư vào việt Nam giảm hẳn ,ngoài ra còn do khò khăn về tài chính ,nhiều doanh có vốn đầu tư nước ngoài phải giảm bớt số lượng công nhân,nên mức độ tăng tuyệt đối của số người tham gia BHXH đột ngột giảm,mức độ tăng tuyệt đối là 27.512 người so với mức độ tăng tuyệt đốicác năm là 100000 người .Sang năm 2000 nền kinh tế Châu Á đã hồi phục ,lượng vốn đâu tư nước ngoài vào việt Nam tiếp tục tăng vì vậy số nhân công được thuê mướn tiếp tục tăng thêm .Tromg mhững năm tới ,số lao động tham gia trong lĩnh vực này sẽ tiệp tục tăng cao.Đây sẽ là nguồn thu lớn cho quỹ BHXH do số lao động tham gia hoạt dộng trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài khá đông và tiền lương ,thu nhập của lao động trong khu vực này khá cao hơn hẳn các khu vực khác
37 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1493 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Một số giải pháp hoàn thiện thu và quản lý thu quỹ bảo hiểm xã hội Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BHXH tỉnh
ãLập báo cáo tình hình thu BHXH trên địa bàn huyện hàng tháng,quý ,năm và gửi cho BHXH tỉnh
ãKiểm tra thẩm định số liệu thu của các đợn vị sử dụng lao động trên địa bàn huyện
*BHXH Tỉnh :
ã Thu BHXH của các đợn vị sư dụng lao động đóng trên địa bàn tỉnh gồm
-Các đơn vị do Trung ương quản lý
-Các đơn vị do tỉnh trực tiếp quản lý
-Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
-Các đợn vị,tổ chức quốc tế
-Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có sử dụng lao động lớn
-Các cơ quan,tổ chức,doanh nghiệp đưa lao động Việt Nam đi lao động có thời hạn ở nước ngoài
-Các đơn vị sử dụng lao động mà BHXH huyện không đủ điều kiện thu
ãLập kế hoạch tổng hợp thu BHXH trên địabàn tỉnh cho năm sau
ãChuyển tiền thu BHXH về tài khoản chuyên thu của BHXH Việt Nam
ãLập báo cáo tổng hộp tình hình thu BHXH trên địa bàn tỉnh hàng tháng ,quý ,năm và gửi cho BHXH Việt Nam
ãKiểm tra thấm định số liệu thu quả các đơn vị sử dụng lao động trên địa bàn tỉnh ,BHXH huyện cấp dưới
*BHXH Việt Nam
ãThu BHXH của BHXH Bộ Quốc phòng ,Bộ Công An,ban cơ yếu chính phủ
ã lập kế hoạch thu BHXH trong toàn bộ hệ thống BHXH ,giao kết kế hoạch thu BHXH cấp dưới
ã Kiểm tra thẩm định số liệu thu BHXH cấp dưới
ãBáo cáo tình hình hoạt động cảu hệ thống BHXH lên Chính Phủ ,Bộ Lao động –Thương binh và xã hội và các cơ quan quản lý Nhà nước có liên quan
Các đơn vị ,doanh nghiệp có người lao động tham gia BHXH phải có trách nhiệm báo cáo cho cơ quan BHXH cấp tương ứng về số lao động tham gia BHXH và quỹ tiền lương của doanh nghiệp .trích và nộp tiền thu BHXH vào tài khoản thu BHXH tại ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn hoặc tại kho bạc Nhà nước theo đúng quy định .
Theo cơ cấu thu trên các cấp quản lý thu BHXH được phân công ,phân nhiệm rõ ràng ,không có sự trùng lặp ở các cấp .Ngoài ra hệ thống quản lý thu theo chiều dọc giúp cho việc kiểm tra ,thẩm định hoạt động của các cấp được dễ dàng .
Hiện nay mô hình quản lý thu như trên đang được áp dụng trong hệ thống BHXH Việt Nam .Do nhiều nguyên nhân mà tình hình thu và quản lý thu quỹ BHXH Việt Nam vẫn còn nhiều tồn tại cần giải quyết .Sau đây chúng ta hãy xem xét tình thu và quản lý thu quỹ BHXH Việt Nam
Phần II :
Tình hình thu và quản lý thu quỹ BHXH Việt Nam
(1995-2002)
1.Tình hình số người tham gia BHXH Việt Nam (1995-2002)
Theo nghị định 12/CP năm 1995 .Ngoài những người lao động tham gia BHXH đã nêu ở trên đây,còn có một lượng lớn lao động trong lực lượng lao động ở nước ta chưa tham gia BHXH như lao động nông nghiệp ở nông thôn,những người lao động làm việc tự do không ổn định (thợ thủ công tiểu thương ,lao động làm việc theo mùa vụ ngắn hạn …)số lao động chưa tham gia BHXH này không phải là nhỏ ,chiếm khoảng 40%lưc lượng lao động ở nước ta tuy nhiên số lao động thuộc diện tham gia BHXH thuộc các thành phần kinh tế cũng chưa tham gia BHXH một cách đầy đủ .Tình hình thực tế như sau:
Bảng 1:
Năm
Tổng số
(Người)
Tốc độ tăng liên
hoàn
Khu vực tư nhân-Ngoài quốc doanh
Tốc độ tăng liên hoàn
Doanh
Nghiệp
vốn nước ngoài
Tốc độ tăng liên hoàn
19995
2275998
--
30063
-
78791
-
1996
2961444
30,1
56280
87,2
125889
59,8
1997
3162352
6,78
84058
49,4
124596
70,0
1998
3355589
6,1
122685
46
242108
12,8
1999
3579427
6,7
125279
37
361522
49,3
Nguồn Tạp chí Bảo Hiểm số 3/2000
Xét về số lượng lao động tham gia BHXH tại Việt Nam theo bảng trên ta thấy sau khi đổi mối hệ thống BHXH Việt Nam số lao động tham gia BHXH liên tục tăng lên với tốc độ cao .Năm 1995 số người lao động tham gia bảo BHXH là 2,2 triệu đến năm 2001 con số này là 4,4 triệu như vậy tăng lên là 935 chưa kể hàng năm có khoảng 15 vạn lao động về hưu chưa được liệt kê vào bảng này
Năm 1995 là năm gốc của đổi mới số lao động tham gia BHXH mới chỉ đạt 2275998người sang năm 1996 sau khi có đầy đủ số liệu về lao động thuộc diện tham gia BHXH ,quỹ lương…một số lượng lao động lớn ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ,doanh nghiẹp ngoài quốc doanh sử dụng 10 lao động trở lên đã tham gia BHXH .Số người tham gia BHXH năm 1996 tăng lên 685.446 nghĩa là tăng lên 30,1%so với năm 1995 các năm sau 1997, 1998 ,1999 số người tham gia BHXH tiếp tục tăng lên vời tốc độ cao hơn 6% một năm đến năm 2001 số người tham gia BHXH đã tăng lên 161.140 lao động so với năm 2000 tức là tăng 3,85% trong đó khối doanh ngiệp Nhà nước tăng 54218 người khối doanh nghiệp nước ngoài tăng 49.873người các đơn vị ngoài công lập tăng 12917 người so vời năm 2000.Khi so sánh lượng tăng tuyệt đối trung bình của giai đoạn (1995-2002)là khoảng300.000 người .Với 1.200.000 lực lượng lao động tăng tự nhiên hàng năm của việt Nam thì số người tham gia BHXH tăng thêm chiếm 1/4 số lao động tăng thêm ,tất nhiên trong 1,2triệu người lao động tăng thêm hàng năm còn bao gồm cả thất nghiệp ,lao động ở khu vực tư nhân,tiểu thương ,thợ thủ công …mặt khác Việt Năm hiện nay có khoảng38 triệu lao động nhưng chỉ 14%trong số đó tham gia BHXH .vậy trong nững năm tới Việt Nam cũng như ngành BHXH cần có những giải pháp tích cực để tăng số người tham gia BHXH
Từ phân tích trên ta thấy số người lao động tham gia BHXH tăng liên tục qua các năm với tốc độ cao tuy nhiên tỷ lệ số người tham gia BHXH so với tổng số lao động là còn thấp đặc biệt là khi so sánh với các nước trên thế giới tỷ lệ này xấp xỉ 95% ở các nước kinh tế phát triển
Như vậy để tìm ra nguyên nhân thực trạng và giải pháp thích hợp để tăng số người tham gia BHXH chúng ta cần xêm xét tình hình người tham gia BHXH ở từng khối – loại hình kinh tế.đối với khối hành chính sự nghiệp và lực lượng vũ trang do lương của lao động được cấp từ ngân sách nhà nước nên số tham gia hoạt động trong khu vực này đảm bảo tham gia BHXH một cách đầy đủ .Cũng tương tự lao động trong khối doanh nghiệp nhà nước do nhà nước cấp vốn thành lập quản lý –do hệ thống quản lý tiền lương chặt chẽ nên người lao động tại các doanh ngiệp này tham gia BHXH đầy đủ , cụ thể là năm 1999 số người lao động tham gia BHXH ở khối hành chính sự nghiệp là 1.521.256 người khối doanh nghiệp nhà nước tăng là 54.428 người trong những năm tới ở hai khối ngành này ,do hầu hết lao động đều tham gia BHXH một cách đầy đủ nên số người tham gia BHXH sẽ không tăng mạnh ngược với xu hướng của hai khối, ngành trên ,số người tham gia BHXH trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và các doanh có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng số người tham gia BHXH của cả nước cũng như so với số người tham gia lao động trong khu vực này.Năm 2001 số người tham gia BHXH là 4.403.870 người tăng 161.140người so với năm 2000 trong đó khối doanh nghiệp nước ngoài tăng 49873 người ,khối doanh nghiệp Nhà nước tăng 54.428 người ,khối đơn vị công lập tăng 12.917người so với năm 2000
Trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ,bảng 1 cho cúng ta thấy số người tham gia BHXH tăng mạnh liên tục trong các năm từ 1995 đến 1999.Số người tham gia BHXH năm 1999 so với năm 1995 tăng từ 30.063 đến 125.297 người nghĩa là tăng gấp 4 lần đây là khu vực có số lao động tham gia BHXH tăng mạnh nhất so với các loại hình kinh tế khác .Với tốc độ tăng bình quân 60% một năm.Tuy nhiên khi so sánh số lao động tham gia BHXH với số lao động tham gia lao động ttrong khu vực thì chỉ chiếm 10%.Hơn thế nửa số lao động tham gia BHXH này chỉ tập trung ở một số tỉnh ,thành phố lớn như Hà Nội,Hải Phòng ,thành phố Hồ Chí Minh .ngoài lý do là số lao động tham gia BHXH chỉ giới hạn là lao động ở các doanh nghiệp sử dụng 10 lao động trở lên ,thực trạng trên bắt nguồn từ nhiều phía :Người lao động , người sử dụng lao động ,nhà nước :
ãVề phía người lao động :
Người lao động ít hiểu biết về pháp luật ,chưa hiểu được bản chất của BHXH hoặc ít quan tâm đền BXH nên cũng yêu cầu của lao động thực hiện BHXH cho mình hay nói cách khác là người lao động không có khả năng ép buộc người sử dụng lao động thực hịên nghĩa vụ đối với mình
Phía người sử dụng lao động :
Do đặc điểm của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ hay hoạt động sản xuất kinh doanh không ổn định, số lượng doanh nghiệp nhiều nhưng các yếu tố sản xuất như lao động ,địa bàn hoạt động…không ổn định thường xuyên thay đổi dẫn đến quan hệ lao động lỏng lẻo .Đây chính là yếu tố gây tâm lý né tránh nộp nghĩa vụ BHXH của người chủ sử dụng lao động ở các khu vực này ,một số doanh ngiệp sản xuất kinh doanh kém hiệu quả lãi ít thu nhập của người lao động thấp nên việc đóng BHXH cũng gây khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Về phía nhà nước:
Nhà nước chính quyền địa phương chưa quan tâm đúng mức đến khu vực này,chưa có chế độ kiểm tra quản lý , xử lý cũng như chế tài thoả đáng đẻ đảm bảo nghỉa vụ cũng như quyền lợi của người lao động .Ngoài ra còn do sức ép về việc làm ở khu vực này mà các cơ quan chức năng nhiều khi còn lúng túng trong việc thực hiện các biện chế tài của pháp luật
Hiện nay các khu vực ngoài quốc doanh còn 80% lao động chưa tham gia BHXH.Thực trạng này đòi hỏi Nhà nước và cơ quan BHXH Việt Nam có các biện pháp giải quyết để hoàn thiện hệ thống BHXH và đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động .
Khu vực có số người tham gia BHXH tăng nhanh kế tiếp là các khu vực có vốn đầu tư nước ngoài gồm : Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài .Số lao động tham gia BHXH ở khu vực này tăng rất nhanh từ 78.791 người năm 1995 lên đến 361.522 người năm 1999 tốc độ tăng bình quân cao khoảng 40% một năm.Duy chỉ có năm 1998 do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu á.Mức độ vốn đầu tư vào việt Nam giảm hẳn ,ngoài ra còn do khò khăn về tài chính ,nhiều doanh có vốn đầu tư nước ngoài phải giảm bớt số lượng công nhân,nên mức độ tăng tuyệt đối của số người tham gia BHXH đột ngột giảm,mức độ tăng tuyệt đối là 27.512 người so với mức độ tăng tuyệt đốicác năm là 100000 người .Sang năm 2000 nền kinh tế Châu á đã hồi phục ,lượng vốn đâu tư nước ngoài vào việt Nam tiếp tục tăng vì vậy số nhân công được thuê mướn tiếp tục tăng thêm .Tromg mhững năm tới ,số lao động tham gia trong lĩnh vực này sẽ tiệp tục tăng cao.Đây sẽ là nguồn thu lớn cho quỹ BHXH do số lao động tham gia hoạt dộng trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài khá đông và tiền lương ,thu nhập của lao động trong khu vực này khá cao hơn hẳn các khu vực khác
Như vậy nhìn chung số người lao động tham gia BHXH có xu hướng tăng mạnh ,liên tục qua các năm ,trog cả nước cũng như trong tất cả các thành phần kinh tế .Tuy nhiên khi so sánh số người tham gia BHXHvới số người thuộc diện tham gia BHXH thì tỷ lệ này còn rất nhỏ ,đặc biệt là tại các doanh nghiệp ngoài quốc doanh .Đóng góp của những người tham gia BHXH và chủ của họ sẽ là nguồn hình thành chủ yếu của quỹ BHXH.
2.Tình hình thu của quỹ BHXH như sau :
Đơn vị triệu đồng
Năm
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
Thu
778486
2569733
3445611
3875956
4188382
5198231
6334650
Tạp chí BHXH số 5/2002
Số liệu ta thấy số thu BHXH tăng lên liên tục qua các năm .Tổng thu BHXH qua 7 năm đạt gần 20.000 tỷ đồng .Như đã nêu ở phần trước năm 1996 số người tham gia BHXH so với năm 1995 .Chính vì thế số thu BHXH năm 1996 là 2.569.733 triệu đồng, tăng gấp 3số thu năm 1995 (778,486 triệu đồng ).
Các năm 1997 ,1998 1999 ,số thu BHXH tăng liên tục với tốc độ cao .Số thu BHXH năm 2001 là 6334,65 tỷ đạt 103 ,3% tăng 21,9%so với năm 2000.Chúng ta sẽ thấy những thành tựu vượt bậc của BHXH Việt Nam nếu so sánh số thu BHXH giai đoạn 1995-2001 với số thu BHXH nhữnh năm trước khi đổi mới hệ thống BHXH Việt Nam .Lấy năm 1994 làm mốc ,số thu BHXH năm 1994 là 420 tỷ đồng .Như vậy số thu BHXH năm 1995 là 778 tỷ đồng ,tăng đôi so với năm 1994 .Năm 2001 số thu BHXH là 6334,65 tỷ đồng ,tăng gấp 15 lần năm 1994.Như vậy chỉ qua 7 năm đổi mới hệ thống thu và quản lý thu hệ thống quỹ BHXH Việt Nam đã tăng gấp 15 lần
Số thu BHXH tăng nhanh liên tục qua các năm chứng tỏ cơ chế thu và quản lý thu quỹ BHXH Việt Nam đã đi đúng hướng,đảm bảo hiệu quả .Tuy nhiên số thu BHXH việt Nam vẫn thấp chưa xứng đáng với tiềm năng lao động lớn ở nước ta .Nguyên nhân của tình trạng này như sau :
Thứ nhất:
Số thu BHXH thấp do tỷ lệ đóng góp của người lao động và của người sử dụng lao động thấp chỉ bằng 20% so với tổng quỹ lương .Tỷ lệ này còn thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới . Tại các nước kinh tế phát triển như Bỉ ,tỷ lệ đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động là 30%
đến 40%so với tổng quỹ lương.Mặt khác không những tỷ lệ đóng góp thấp mà tiền lương để trích nộp BHXH cũng thấp và không đồng đều giữa các thành phần kinh tế .Người tham gia BHXH có mức trích nộp thấp nhất là người lao động tại các doanh nghiệp làm ăn không có hiệu quả hoặc hoạt động sản xuất kinh doanh cầm chừng .mà số doanh nghiệp này hiện nay không phải là nhỏ .Người tham gia BHXH có mức trích lập cao thường là người lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.Người tham gia BHXH trong khối hành chính sự nghiệp có mức lương trích nộp bằng mức lương tối thiểu nhân hệ số cấp bậc ,chức vụ và các khoản phụ cấp từ ngày 1/1/2001 mức lương tối thiểu bằng 210.000 đồng .Trước đó mức lương tối thiểu bằng 144.000đồng .So với Indonesia- một nước nằm trong khu vực Đông Nam á,mức đóng góp tối thiểu bằng 1000Rp một ngày .
thứ hai :
Số thu BHXH thấp nhưng tỷ lệ nợ đóng tiền BHXH còn cao.Nhìn chung tiền BHXH nợ bình quân 500 tỷ đồng ,chiếm 11%-12% diện thu đã quản lý được .Nếu gọi tổng mức phải nộp BHXH là 100% trong một năm (12 tháng ) thì mức nợ một tháng chiếm 8,33% tương ứng 30 ngày ).Số nợ tiền BHXH qua các năm như sau
Bảng 2: S ố nợ tiền BHXH các năm1995-2001
Tính đến ngày
Số nợ /số phải nộp (%)
Số ngày nợ tương ứng (ngày)
31/12/1995
31/121996
31/121997
31/121998
31/12/1999
31/12/2000
31/12/2001
11,3
8,3
11,2
10
9,0
9,0
6,7
40
31
40
36
32
32
26
Nguồn Tạp chí Bảo Hiểm 6/2002
Qua số liệu trên ta thấy hệ thống thu BHXH đã có nhiếu phấn đấu ,điều chỉnh thích hợp để rút ngắn số ngày chiếm dụng tiền BHXH từ 40 ngày xuống 26 ngày như vậy giảm được gần 20 ngày .Mục tiêu của các năm tới là tiếp tục giảm số ngày chiếm dụng xuống mức phù hộp có thể chấp nhận đựơc
Tình hình nợ đọng ở từng khối loại hình như sau :
-Khối hành chính sự nghiệp :
Do có nguồn tiền lương và thu nhập ổn định ,được ngân sách nhà nước cấp nên mức chiếm dụng chỉ trong 7 ngày (ứng với chu kỳ phát lương )
Khối doanh nghiệp nhà nước:
Là khối có mức độ chiếm dụng cao nhất trong các khối với mức độ trên 2 tháng do khó khăn về việc làm ,thu nhập phương tính và trả lương
Các khối nói chung duy trì mức chiếm dụng trong vòng một tháng .
Như vậy là trong các công tác quản lý thu nợ đọng phải tập trung sự chú ý vào khối doanh nghiệp nhà nước hơn các khối khác .
Số nợ đọng ở các tỉnh thành phố cũng có mức độ nợ đọng khác nhau .Tình hình nợ đọng ở một số tỉnh thành phố năm 1999 như sau:
Bảng 3: Số tiền chiếm dụng BHXH ở một số tỉnh như sau
Tên tỉnh
Số nợ/Số phải nộp
Số ngày chiếm dụng tương ứng(ngày)
Số thực tế(tỷ đồng)
Tỷ lệ (%)
Phú Thọ
18/73
24
90
Hoà Bình
13/120
20
73
Thai Bình
7,7/38
15
54
Thanh Hoá
6,6/44
16
58
Gia Lai
16,6/102
16
58
Nguồn tạp chí BHXH,số 5/2000
Các tỉnh khác có mức nợ khoảng hơn một tháng
Trong mổi tỉnh ,số nợ của các đơn vị sử dụng lao động cũng có mức chiếm dụng khác nhau .nguyên nhân của tình trạng tiền BHXH nợ đọng như đã nêu ở trên xuất phát từ hai phía :nhà nước và các doanh nghiệp đóng BHXH
*Phía nhà nước :
-Hành lang pháp lý và những chế tài pháp luật nhà nước cho việc thu nộp BHXH chưa cụ thể và chưa đủ mạnh để buộc các chủ sử dụng lao động nộp BHXH đúng thời hạn đủ số lượng .Chính vì vậy mà nhiều doanh nghiệp cố tình chiếm dụng quỹ BHXH một cách trái pháp luật mà vẫn không bị xử lý .Theo nghị định 38 /CP của Chính phủ quy định : Xử phạt hành vi trốn tránh trách nhiệm nộp BHXH hoặc nộp chậm BHXH. Song thẩm quyền xử phạt thuộc về thanh tra nhà nước về lao động ,UBND các cấp .Như vậy là không có sự đồng bộ trong việc thu BHXH và xử phạt dẫn đến những việc khó khăn trong việc kết hợp thu BHXH và xử phạt để thu BHXH đạt hiệu quả cao nhất
-ở nhiều địa phương,các cơ quan quản lý nhà nước ,đoàn thể, quần chúng cơ quan bảo vệ pháp luật chưa tích cực phối hợp cùng các cơ quan BHXH thực hiện các biện pháp cưỡng chế các chủ sử dụng lao động đóng BHXH theo quy định của nhà nước
-Do quy trình tính lương và phát lương của hầu hết các đơn vị lĩnh lương tháng đều hoàn thành sau tháng .Dẫn đến việc nộp BHXH của tháng trước tháng sau mới nộp được.
*Về phía các đơn vị sử dụng lao động:
-Nhiều đơn vị thực hiện trả lương cho người lao động theo sản phẩm.Việc trả lương không chỉ phụ thục vào số lượng sản phẩm làm ra mà còn phụ thuộc vào việc sản phẩm có tiêu thụ được hay không .Vì vậy tiền BHXH cũng phải đợi dến khi thanh toán lương cho người lao động mới nộp.Tình trạng thường xảy ra ở các đơn vị sản xuất thủ công ,các nông ,lâm trường còn phụ thuộc vao cơ chế giao khoán đất đai .
-Do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ những năm trước đây(1997) đã trực tiếp ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp .Do sản xuất không ổn định nhiều doanh nghiệp thiếu việc làm cho người lao động , kinh doanh thua lỗ thậm chí còn nợ tiền lương của người lao động kéo theo nợ tiền BHXH.Những doanh nghiệp này tập trung ở một só ngành như du lịch ,thương mại dịch vụ …
Do chủ sử dụng lao động thiếu ý thức chưa thức sự quan tâm đến việc nộp BHXH,mặc dù khả năng của các doanh nghiệp này đủ sức thực hiện việc trích nộp đúng quy định,điều đó dẫn đến nợ giả tạo .Những doanh nghiệp này tập trung ở các ngành điện , nước,bưu chính viễn thông , hàng không …
-Một số doanh nghiệp cho rằng việc trích nộp 20% BHXH hàng tháng (trong đó ,người lao động đóng5%,người sử dụng lao động đóng15%)là quá lớn do đó đã trốn nộp BHXHhoặc cồ tình chiếm dụng quỹ BHXH để sử dụng trong sản xuất kinh doanh mà không chịu một biện pháp xử lý nào đáng kể .Các doanh nghiệp này tập trung chủ yếu ở các ngành giao thông vận tải và xây dựng .
Một nguyên nhân khác cũng khá phổ biến là số nợ tồn đọng trước đây tồn tích lại ,đơn vị sử dụng lao động chưa có nguồn họăc chưa đủ cơ sở để xử lý,hoặc giải trình xin xử lý xoá nợ ,nên vẩn phải treo nợ trên số sách .
Tình hình thu quỹ BHXH và chiếm dụng tiền BHXH các năm trước đây là như vậy nhưng năm 2002 thu BHXH lại có những khó khăn riêng do tiền lương tối thiểu được điều chỉnh từ18000 đồng /tháng lên 210000đồng /tháng
Hơn nửa tình tăng trưởng kinh tế 6 tháng đầu năm không đạt được mức kế hoạch .Lý do là một số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh không ổn định ,một số lĩnh vực sản xuất hãng xuất khẩu thị trường bị thu hẹp… do đó tình hình nợ tiền BHXH có nguy cơ tăng lên khu vực kinh tế ngoài quốc doanh gặp khó trong việc khai thác ,sử dụng nguồn lực nên người sử dụng lao động né tránh hay cố tình không nộp tiền BHXH không đăng ký tham gia BHXH cho người lao động mặt khác năm 2002 là năm toàn ngành sẽ đánh gía kết quả năm năm thực hiện chỉ thị 15 /CT-TƯ của bộ chính trị về việc tăng cường lãnh đạo thực hiện chế độ BHXH là năm Quốc hội thông qua luật BHXH,đây cũng là động lực để toàn ngành hoàn thành vượt mức kế hoạch nhưng đây cũng là thách thức đối với cán bộ của ngành .Một khó khăn không kém phần quan trọng đó là quyết định số 20/2002/QDTG ngày 24/1 và thông tư liên tịch số09/TTLT-BLD-TBXH-BYT-BTC ngày 8/2/2002về việc chuyển giao BHYT Việt Nam sang BHXHViệt Nam do đó ảnh hưởng lớn đến công tác thu vá quản lý thu quỹ BHXH.Với những khó khăn như trên để hoàn thành kế hoạch thu BHXH phải có những thích hợp cùng với nổ lự c của toàn ngành .
Nguồn thu chủ yếu của quỹ BHXH là đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động .Bên cạnh đó tiền nộp phạt của các doanh nghiệp nộp chậm tiền BHXH cũng góp không nhỏ vào quỹ.hiện nay ,tiền nộp phạt khi nộp chậm tiền BHXH do bộ tài chính quy định theo khung nộp phạt chung là :
Phạt mỗi năm không quá hai lần ,mổi lần không quá 1,5 triệu ,giống như quy định nộp chậm thuế VAT và BHYT.Số tiền nộp phạt này chỉ mang tính chất cảnh cáo mà không có tác dụng thúc đẩy các doanh nghiệp nộp tiền BHXH đúng thời hạn quy định .Một nguồn thu khác cũng rất quan trọng của quỹ BHXH là lải đầu tư vốn nhàn rỗi của quỹ BHXH .Mặc dù lãi suất của các lỉnh vực đầu tư thấp khoảng 5%-6% mổi năm Tổng số tiền sinh lời của quỹ từ năm 1995 đến 2000 là 745 tỷ .Tính đến cuối năm2000 tiền nhàn rổi của quỹ là15.697 tỷ đồng (lớn nhất từ trước đền nay) và bổ sung cho quỹ BHXH hơn 600 tỷ đồng ngoài ra năm 1999 quỹ BHXH đã mua hơn 500 tỷ đồng công trái Nhà nước với lãi suất 50% năm năm đây là nguồn vốn dài hạn cho quỹ ,đồng thời góp phần hỗ trợ tài chính cho Nhà nước.
Từ những nguồn thu ở trên ,đóng góp của người lao động người sử dụng lao động , và các khoản thu khác BHXH Việt Nam chi trả trợ cấp cho người lao động .Trong thời gian qua để đảm bảo chi trả trợ cấp nhằm ổn địng cuộc sống của người lao động và gia đình họ. Nhà nước vẩn phải bổ sung liên tục vào quỹ BHXH.
3. Tình hình ngân sách nhà nước cấp cho quỹ BHXH
Để đảm bảo nguồn kinh phí lâu dài cho hệ thống trợ cấp BHXH.Nhà nước quy định : Ngân sách Nhà nước trợ cấp hưu trí cho cán bộ ,công chức quân nhân đã nghỉ việc trước năm 1995 đang hưởng lương hưu và các chế độ trợ cấp hàng tháng khác .Như vậy là quỹ BHXH không phải chi một khoản trợ cấp khá lớn cho người lao động trong một thời gian dài .Quỹ BHXH chỉ chịu trách nhiệm chi trả các loại trợ cấp cho cán bộ ,công chức ,quân nhân hưởng trợ cấp sau năm 1995.Tuy nhiên trong 7 năm qua khi so sánh tổng chi BHXHvà tổng thu BHXH chúng ta thấy số thu BHXH không thể bù dắp cho chi BHXH chẳng hạn trong năm 2000 tổng thu 5.198,2 tỷ trong lúc đó tổng chi là 7807,8 tỷ mặt
khác số tiền nợ BHXH trên toàn quốc trong năm 2001là 427 tỷ đồng trong đó số nợ tồn từ 7/1995 trở về trước là 148,8 tỷ chiếm 35%
Chính vì vậy những năm qua ngân sách Nhà nước luôn phải bù đắp cho quỹ BHXH.Tình hình cụ thể như sau :
Đơn vị tỷ đồng
Năm
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
Số tiền
1153,98
4771,05
5691,66
5759
6700,31
6247,9
7235,24
Nguồn :Tạp chí BHXH số 7/2002
Qua biểu trên ta thấy ngược với xu hướng tăng của tổng chi BHXH qua các năm 1995-2001 nguồn vốn ngân sách nhà nước trong quỹ BHXH có xu hướng giảm dần từ 96,19% năm 1995 xuống 81,24% năm 2000 và năm 2001 là 78%.Như vậy giai đọan 1995 đến 2002 tỷ lệ ngân sách Nhà nước cấp cho quỹ BHXH giảm bình quân 3% một năm .So với giai đoạn 1990-1994 trước khi đổi mới hệ thống BHXH nguồn vốn ngân sách nhà nước trong quỹ BHXH là khoảng 90% và luôn có xu hướng tăng lên.
Vậy là trong khoảng thời gian qua công tác thu quỹ BHXH đã đạt được một số thành công nhất định .Tuy vẫn còn phụ thuộc phần lớn vào ngân sách xã hội ,quỹ BHXH đã dần tách ra khỏi ngân sách Nhà nước,giảm nhẹ gánh nặng của ngân sách Nhà nước và hoà hệ thống tài chính quốc gia .Để đạt được những thành tựu trên BHXH Việt Nam đã có nhiều cải tiến trong hệ thống quản lý BHXH nói chung và quản lý thu BHXH nói riêng.
4.Quản lý thu BHXH
Yêu cầu của ngành BHXH nói chung và yêu cầu của công tác quản lý thu BHXH nói riêng là cập nhật và lưu trữ trong một thời gian dài các thông tin về đối tượng tham gia BHXH như họ tên ,năm sinh ,giới tính,thời gian tham gia BHXH …và về các đơn vị sử dụng lao động như tổng quỹ tiền lương tham gia BHXH,số tiền nộp BHXH kỳ này ,số tiền BHXH còn nợ đọng .Chính vì thế mà ngành BHXH luôn cần lưu trữ một số lượng lớn hồ sơ tài liệu :Trước kia công tác quản lý thu BHXH được thực bằng phương pháp thủ công trên giấy tờ vừa tốn kém vừa khó đảm bảo tính chính xác kịp thời .Trong thời đại công nghệ tin học phát triển như vũ bão và được áp dụng rộng rải khắp nơi BHXH Việt Nam đã từng bước ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý thu BHXH.
Cho đến nay cả 3 cấp BHXH : cấp huyện ,cấp tỉnh ,cấp Trung ương đều đã được trang bị máy vi tính để thực hiện không những công tác thu mà còn các công tác khác của ngành BHXH như quản lý sổ BHXH chi trả trợ cấp cho người lao động .áp dụng công nghệ thông tin vào quản lý thu BHXH đã có một số tác dụng sau :
*Giảm nhẹ sức lao động thủ công trong hoạt động thống kê báo cáo thu BHXH,đồng thời đảm bảo tính chính xác kịp thời của các báo cáo thu hàng quý của BHXH các cấp
*Thúc đẩy các đơn vị sử dụng lao động quan tâm đến việc báo các số người tham gia BHXH,mức lương tham gia BHXH để phản ánh chính xác kịp thời tình hình thu nộp BHXH của đơn vị .
*Tiết kiệm thời gian luân chuyển chứng từ truyền đạt thông tin giữa các cấp BHXH.
Tuy đã trang bị hệ thống máy vi tính cho các cấp BHXH nhưng các chương trình được sử dụng đều là những chương trình riêng lẻ ,không có sự liên kết giữa các cấp BHXHvà chưa tạo điều kiện cho việc kết hợp công tác quản lý thu BHXHvà công tác khác trong ngành .Hơn nữa mỗi cấp BHXH lại sử dụng một chương trình khác nhau .Đặc biệt có nơi vẩn sử dụng những chương trình đã lạc hậu vì vậy cũng không có khả năng liên kết giửa các cấp BHXH với nhau Trong thời gian tới để bảo đảm công tác thu BHXH cũng như bảo đảm sự phát triển của toàn ngành ,BHXH Việt Nam cần hoàn thiện hơn nữa hệ thống thông tin và nối mạng toàn quốc.
Bên cạnh việc trang bị các phương tiện thông tin hiện đại
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35298.doc