MỤC LỤC
Lời nói đầu 1
Chương I: Những lý luận cơ bản về cạnh tranh sức cạnh tranh và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp 2
I) Thị trường và cạnh tranh 2
1. Thị trường 2
1.1. Định nghĩa 2
1.2. Phân loại theo mức độ cạnh tranh có 3 loại thị trường: 2
1.3. Vai trò của thị trường 2
2. Cạnh tranh 2
2.1 Các loại hình cạnh tranh 2
II) Lợi thế cạnh tranh 3
1. Định nghĩa lợi thế cạnh tranh 3
2. Các nhân tố tạo nên lợi thế 3
3. Nhóm nhân tố tác động đến khả năng cạnh tranh 4
3.1 Nhóm nhân tố thuộc môi trường vi mô . 4
3.2 Nhóm nhân tố bên ngoài doanh nghiệp . 4
3.3 Nhóm nhân tố thuộc môi trường nghành . 5
3.4 Nhóm nhân tố bên trong doanh nghiệp . 5
4. Các nhân tố tạo nên lợi thế cạnh tranh . 5
Chương II: Thực trạng sức cạnh tranh của doanh nghiệp nước ta 6
I) Đặc điểm của nền kinh tế nước ta . 6
1. Khái quát về nền kinh tế nước ta: 6
2. Các vấn đề ảnh hưởng đến nền kinh tế nước ta . 8
II) Thực trạng, khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp nước ta . 9
1. Môi trường kinh doanh vĩ mô . 9
2. Lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam 10
3. Những điểm yếu của doanh nghiệp Việt Nam . 14
Chương III: Một số giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam 17
1. Đối với doanh nghiệp: 17
2. Giải pháp của nhà nước . 19
Kết luận 22
Tài liệu tham khảo 23
25 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1707 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Một số giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ấm, mưa nhiều phù hợp với phát triển đa dạng các lợi cây con với năng suất cao tạo nguyên liệu cho các ngành công nghiệp chế biến . Tuy nhiên, do khí hậu diễn biến thất thường nhiều thiên tai (bão lớn, lũ lụt, hạn hán ......) cho nên tác động sâu sắc tới hoạt động sản xuất kinh doanh các nghành kinh tế nói chung và ngành công nghiệp chế biến nói riêng .
* Tài nguyên thiên nhiên: Nguồn tài nguyên khoáng sản chủ yếu do phát triển ngành công nghiệp nước ta khá phong phú va đa dạng với gần 100 chủng loại . Một số khoáng sản có trữ lượng lớn cho phép khai thác và sử dụng lâu dài như than đá, dầu mỏ , đá vôi, cát thuỷ tinh, bô xít ......Tuy đa dạng về loại hình với khoảng 1500 mỏ khác nhau nhưng đa số mỏ có trữ lượng nhỏ phân tán trên địa bàn rộng, khá khó khăn trong việc khai thác và vận chuyển . Nhiều khoáng sản có chất lượng tôt, trữ lượng lớn nhưng phân bố ở địa bàn khó khai thác như gần trên giới trên địa hình núi cao nên cần vốn lớn, giá thành khai thác cao nên dẫn tới khả năng cạnh tranh thấp . So cới các nước trong khu vực, chỉ số trữ lượng của Việt Nam về kim loại là thấp (Việt Nam 0,1 ; Thái Lan 0,47 ; Philippin 0,3 ; Inđônêxia 1,54)
Mặt khác, nước ta có 76 % dân cư sống ở nông thôn, hơn 70 % làm nông nghiệp . Nông dân là người chịu trách nhiệm chính trong việc đảm bảo an ninh lương thực của cả nước . Ngoài ra, việc tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá phải dựa vào sức mạnh của mình là chính, nông nghiệp còn là một trong các nguồn cung cấp vốn đầu tư cho công nghiệp . Năm 1996, việc xuất khẩu gạo và các nông sản đã đưa lại cho đất nước 850 triệu đô la ; năm 1997: 900 triệu đô la . Mặc dù hiện nay phần đóng góp của nông nghiệp vào GDP đang giảm dần (chỉ còn 27,2 % vào năm 1996 và so với năm 1990 là 40,5%)
Có thể nói, Việt Nam không thể phát triển được nếu bỏ qua hay đúng hơn là không chú ý tới nông nghiệp và chủ nhân nền kinh tế quan trọng là nông dân. Từ khi hoà bình lập lại đến nay Đảng và chính phủ ta đã đề ra nhiều chủ trương nhằm phát triển nông nghiệp và nông thôn nhờ đó bộ mặt nông thôn Việt Nam đã có nhiều thay đổi . Tuy nhiên cho tới nay nông dân vẫn là giai cấp xã hội chịu nhiều thiệt thòi nhất . Mặc dù so với quốc gia trong vùng mức độ nghèo giữa nông thông và thành thị ở nước ta không quá lớn như ở 1 số nước ASEAN khác . Nhưng nhìn chung các lợi ích phát triển của đất nước vẫn tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn đặc biệt là ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh . Theo kết quả khảo sát mức sống các tầng lớp dân cư ở Việt Nam trong năm 1992 - 1993 của dự án VIE 90/007 thu nhập bình quân tính theo đầu người là 1.105.000 đồng/năm cao hơn 2 lần so với nông thôn . Thu nhập nhóm chi tiêu cao nhất so với thu nhập bình quân của nhóm chi tiêu thấp nhất là cao hơn 4,43 lần . Sự khác biệt về thu nhập của 2 nhóm đó ở khu vực thành thị là 3,43 lần và ở nông thôn là 3,85 lần .
Theo báo cáo cho thấy vào giữa thế kỉ XX Việt Nam có trinh độ phát triển tương đương với Thái Lan và các nước khác ở châu á nhưng sau đó dòng thác công nghiệp đã lan nhanh đến khu vực này làm các nước lân cận đã nối đuôi nhau trong quá trình phát triển . Trong khi đó, Việt Nam vì điều kiện lịch sử đã mất phần lớn nửa thế kỉ sau này về phương diện kinh tê . Công cuộc đổi mới kinh tế do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo từ năm 1986 đã đưa Việt Nam hội nhập vào làn sóng phát triển năng động của khu vực và thu được thành tựu đáng tự hào . Nhưng giữa Việt Nam và các nước Đông Nam á vẫn còn khoảng cách tương đối lớn về trình độ phát triển mà tiêu biểu là khoảng cách 20 năm giữa Việt Nam và Thái Lan . Bên cạnh đó, việc hộ nhập kinh tế và khu vực và thế giới là quá trình không thể đảo ngược bởi vì một quốc gia không thể hùng mạnh mà lại cô lập với thế giới bên ngoài . Vì vậy, tham gia thương mại ASEAN là bước khởi dựng đầu tiên quyết định quá trình hội nhập kinh tế Việt Nam nói chung và doanh nghiệp Việt nam mà riêng điều đó được thể hiện rõ ràng qua các dự án mà nhà nước bở vốn và đầu tư . Theo số liệu cho thấy trong khoảng thời gian từ 1991 - 1997 nhà nước bỏ một lượng vốn ước chừng 386 tỷ đồng tương đương 36 tỷ đô la Mỹ . Ngoài ra, Việt Nam là nước nguồn xuất khẩu đứng ở vị trí cao trong khu vực . Các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam khoảng 172 USD/tấn.
Trong các nước ASEAN, Việt Nam là một trong hai nước xuất khẩu gạo chính.
* Xi măng: giá bán ổn định tương đương giá bán trong khu vực .
* Kính xây dựng: với thuế suất 20 % và được sự bảo hộ của nhà nước nên có độ cạnh tranh cao .
* Bưu chính viễn thông .
* Hàng không: được xếp vào loại dịch vụ có khả năng cạnh tranh cao .
* Ô tô .
* Mía đường: có khả năng cạnh tranh thấp
2. Các vấn đề ảnh hưởng đến nền kinh tế nước ta .
* Khó khăn trong việc huy động vốn đầu tư trong nước và tình trạng dư thừa vốn một cách giả tạo
* Nguồn vốn đầu tư trong nước hiện nay vẫn là vống tích luỹ của khu vực nhà nươc, nguồn vốn đó luôn chiếm 50 - 58 % tổng vốn đầu tư trong nước . Ngoài ra, nguồn vốn đầu tư từ khu vực nhà nước còn bao gồm một phần từ vốn bên ngoài đã được nội sinh hoá, đó là nguồn ODA và các viện trợ phát triển khác . Nguồn vốn trôi nổi trong dân vẫn còn rất lớn . Theo một số nhà nghiên cứu thì nguồn vốn trong dân hiện nay có thể lên tới 10 tỷ đô la, đại đa số được tích luỹ dưới hình thức vàng (40%) và bất động sản (20%) .
* Sự chênh lệch về trình độ phát triển khoảng cách giàu nghèo đang lan rộng.
* Tình trạng lạc hậu về khoa học công nghệ . Theo đánh giá của bộ khoa học Công nghệ và môi trường công nghệ Việt Nam lạc hậu so với các nước tiên tiến nhất 50 - 100 năm . Đội ngũ cán bộ nước ta tuy đông về số lượng nhưng chất lượng chưa cao, vẫn còn thiếu cán bộ điều hành và các chuyên gia giỏi đặc biệt là chuyên gia về công nghệ .
* Nguồn nhân lực dồi dào nhưng thiếu lao động có kĩ năng .
* Tình trạng suy giảm nguồn tài nguyên thiên nhiên ô nhiễm môi trường sinh thái .
Đó là những vấn đề tác động trực tiệp đến nền kinh tế của nước ta từ trong nước còn đối với khu vực quốc tế thì toàn cầu hoá không chỉ đưa lại những cơ hội phát triển mà nó còn đưa lại những thách thức đó là sự tác động tiêu cực .
* Thứ nhất là tạo điều kiện dễ dàng cho dòng vốn đầu tư công nghệ di chuyển từ nước này đến nước khác toàn cầu hoá sẽ làm cho nguồn vốn đó nhanh chóng rút ra khỏi một quốc gia nếu tình hình chính trị bấp bênh .
* Thứ hai: Kỉ nguyên về toàn cầu hoá về kinh tê, cạnh tranh kinh tế cũng mang tính chất toàn cầu các lợi thế phi mậu dịch do bảo hộ nối ngoặc với chính quyền sở tại sẽ trở nên mất tác dụng trong việc vảo vệ các nhà sản xuất kém hiệu quả . Tự so hoá thương mại làm sụp đổ các ngành kinh tế không có khả năng đứng vững trong môi trường phi bảo hộ .
* Thứ ba: Khi các nước trên thế giới quyết định mở cửa đất nước, thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài ; khi khả năng về FDI, CDA và các nguồn vốn đầu tư khác chỉ có hạn mà nhu cầu về các nguồn vốn này lại tăng tất yếu sẽ dẫn tới tình trạng khan hiếm FDI . Cuộc cạnh tranh giành FDI trên thế giới sẽ trở nên gay gắt chưa từng có giữa các nước phát triển với nhau . Nếu nước ta không cố gắng hơn nữa, quyết liệt hơn để khai thông các dòng chảy FDI nguồn vốn này sẽ chảy sang các nước khác .
II) Thực trạng, khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp nước ta .
1. Môi trường kinh doanh vĩ mô .
Khái niệm: Sức mua trong nền kinh tế phụ thuộc vào thu nhập hiện có giá cả lượng tiền tiết kiệm và khả năng vay tiền .
Để tiêu thụ được sản phẩm thì thị trường cần có nhu cầu về sản phẩm đó nhưng chỉ nhu cầu thôi thì chưa đủ mà phải đi đôi với khả năng thanh toán, tức là sức mua của con người . Sức mua lại phụ thuộc rất lớn vào môi trường kinh doanh của mỗi nước .
ở Việt Nam môi trường kinh doanh ngày càng ổn định và phát triển có điều kiện thuận lợi hơn nhiều nước trong khu vực . Tỷ lệ lạm phát ở mức có thể kiểm soát được, giá trị đồng tiền ổn định, ít bị ảnh hưởng bởi các cuộc khủng hoảng kinh tế, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất trong nước làm ăn có hiệu quả, yên tâm nhằm đưa ra thị trường nhiều mặt hàng phong phú, đa dạng, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng .
Hiện nay nhà nước ta có nhiều biện pháp bảo hộ đối với doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi đối với doanh nghiệp, giúp họ an tâm sản xuất . Tuy nhiên, trong một số chính sách quản lý của nhà nước lại gây cản trở khó khăn và làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp cũng như giảm sự thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam
Một trong những cản trở trực tiếp đó là sự giải quyết các thủ tục pháp lý khi giải quyết cho một doanh nghiệp hoạt động . Và nhiều khâu giải quyết dần đến sự bỏ lờ cơ hội đầu tư cũng như cơ hội cạnh tranh trong một trường hợp của các doanh nghiệp trong nước cũng như ngoài nước . Theo thống kê một doanh nghiệp đó có thể coi là hợp pháp thì phải có 32 loại giấy tờ . Đến tháng 10 năm 2000, ở thành phố Hồ Chí Minh một dự án đầu tư phải trải qua 23 công đoạn và chờ duyệt 226 ngày . Sau ngày 1 / 1 / 2000, theo doanh nghiệp là có thể bỏ qua bước xin giấy phép thành lập doanh nghiệp .
Ngoài ra, việc bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh với nhau cũng là 1 vấn đề không thể không nói tới . Việc các nhà doanh nghiệp có số vốn nhỏ qua các hình thức cạnh tranh về giá cả, sản phẩm cũng như chất lượng cần được nhà nước quân tâm và điều chỉnh trong môi trường kinh doanh hiện nay . Mặt khác, sự cạnh tranh còn thể hiện mặt thua kém của doanh nghiệp Việt Nam đối với doanh nghiệp nước ngoaì quá lượng vốn đầu tư .Vấn đề về thuế cần được nhà nước quan tâm và điều chỉnh thường xuyên . Việc đó được nhà nước biểu hiện cụ thể qua hình thức thay đổi thuế doanh thu bằng loại thuế giá trị gia tăng (VAT) tuy nhiên, vẫn còn nhiều trở ngại . Việc thuế VAT được tính bằng bất cứ hình thức nào nhưng nó cũng bắt buộc người sản xuất kinh doanh phải có hoá đơn thanh toán . Điều này gây khó khăn, trở ngại đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh . Mặt khác, việc thay đổi liên tục các chính sách thuế làm các doanh nghiệp phải bỡ ngỡ khi gặp chính sách mới trong khi vừa làm quen với chính sách thuế cũ . Điều đó gây trở ngại đối với các doanh nghiệp làm cho họ có tâm lý không ổn định, nhất là đối với doanh nghiệp nước ngoài việc làm quen với cách thức thuế ở Việt Nam là rất khó khăn nên họ rất ngại khi bỏ số vốn lớn để đầu tư vào Việt Nam . Điều này làm nước ta mất một số lớn tiền mặt cũng như công nghệ .
2. Lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam
Trong khi so sánh khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam so với doanh nghiệp các nước ASEAN chúng ta cần biết rõ những mặt mà doanh nghiệp Việt Nam có lợi thế có thể khai thác để vượt qua thách thức.
Đó là trước hết chúng ta có một lực lượng doanh nghiệp trưởng thành hơn rất nhiều so với các thời kỳ đầu đổi mới, cơ sở để phát triển nhanh hơn, vững chắc hơn trong những năm tới . Qua thử thách trong môi trường cạnh tranh hơn một thập kỉ qua, nhiều doanh nghiệp Việt Nam không những đứng vững mà còn phát triển đóng góp tích cực vào sự phát triển của nhiều ngành, nhiều vùng và toàn bộ nền kinh tế . Nhiều sản phẩm Việt Nam chiếm lĩnh được thị trường trong nước và được xuất khẩu sang thị trường khu vực và thế giới, trong đó có những sản phẩm chúng ta có năng lực cạnh tranh khác như hàng dệt may, giầy dep, có thứ hạng cao trong các nước xuất khẩu như gạo, cà phê, thuỷ sản, hạt điều......Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân
20 %/ năm trong thậpkỉ qua và mở rộng quan hệ thương mại với 140 nước trên thế giới minh chứng cho sự trưởng thành của doanh nghiệp Việt Nam .
Trong quá trình này nhiều doanh nghiệp đã đổi mới trong thiết bị và công nghệ, đổi mới hệ thống quản lý, xây dựng và đào tạo được đội ngũ quản lý và lao động có trình độ đáp ứng được yêu cầu phát triển liên tục của doanh nghiệp . Đặc biệt, lực lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ và khu vực dân doanh với tính năng hoạt động và hiệu quả của mình đã vươn lên khẳng định vị trí ngày càng quan trọng hơn trong đầu tư, kinh doanh trong nước cũng như xuất khẩu .
Để đổi mới công nghệ, phương hướng phát triển của nghành cơ khí trong 5 năm 2001 - 2005 được đại hội Đảng IX đề ra là: " Đáp ứng khoảng 25 % nhu cầu chế tạo thiết bị cho nền kinh tế và nội địa hoá, khoảng 70 - 80 % các loại phụ tùng xe máy và 30 % phụ tùng lắp ráp ô tô ." Như vậy, chúng ta cần tăng gấp 2,5 lần giá trị sản xuất nghành cơ khí, cũng tức là cần có chương trình nội địa hoá sản phẩm xe máy, ô tô và sản phẩm khác không hoàn toàn đồng nghia với nội địa hoá công nghệ . Chiến lược nội địa hoá công nghệ gồm nội dung sau:
- Chiến lược công nghệ quốc gia trong đó cần chỉ ra công nghệ nào cần nhập, công nghệ nào trong nước chế tạo theo tiến trình cụ thể cho từng nghành .
- Chiến lược phát triển nguồn nhân lực khoa học công nghệ điều chỉnh tầng cơ sở đào tạo về công nghệ kĩ thuật bậc cao về kĩ sư thực hành, hình thành các nhóm nhà khoa học công nghệ điều hành có khả năng đảm nhận dự án đổi mới công nghệ bằng năng lực nội sinh .
- Thị trường hoá công nghệ với các chiến dịch khuyến khích đổi mới đầu tư công nghệ .
- Nâng cao năng lực công nghệ nội sinh khác với tự túc công nghệ . Không có nước nào phát triển mà không sử dụng các thành tựu công nghệ của thế giới bằng các hình thức chuyển giao, bắt chước, lặp lại và cải tiến, thích nghi công nghệ đã có, tiến tới xuất khẩu công nghệ . Ví dụ, một vài công ty ở nước ta đã xuất khẩu được dây chuyền sản xuất mì ăn liền, bánh phở, bóc tách hạt điều, lò nung ......vào thị trường ngách cần khuyến khích.
- Các bước không tuần tự mà có sự phối hợp giữa các doanh nghiệp . Ví dụ, nhập một dây chuyền sau đó chào hàng trong nước để sản xuất một dây chuyền tương tự . Các doanh nghiệp chế tạo căn cứ vào công nghệ mới của thế giới, vào nhu cầu công nghệ, phân tích các ưu nhược điểm, chủ động đưa ra lý thuyết và mẫu thiết kế, sau đó thuê gia công chế thử các bộ phận, lắp đặt, vận hành, đánh giá, công bố và đăng ký bảo hộ sáng chế . Theo hướng này sẽ có nhiều phát minh vượt qua biên giới thu tiền về cho cá nhân doanh nghiệp và quốc gia . Ví dụ, mẫu máy, mẫu sản phẩm, phần mềm máy tính, công nghệ môi trường, sinh học ......có thể làm được ở Việt Nam .
Trong cơ chế thị trường hiện nay, việc đổi mới công nghệ là nhiêm vụ của doanh nghiệp . Các chính sách của nhà nước chỉ có tác dụng hỗ trợ cho quá trình đổi mới chứ không cấp vốn và cũng không bù lỗ hoàn toàn cho việc đổi mới công nghệ thất bại . Lịch sử đã ghi nhiều sự đổi mới công nghệ doanh nghiệp . Doanh nghiệp tự đổi mới công nghệ bằng vốn thuộc quyền sử dụng, vốn vay, vốn tài trợ, với các hình thức hợp pháp và chấp nhận mạo hiểm cùng các biện pháp giảm thiểu rủi ro . Sự chỉ đạo, quản lý của Nhà nước là cần thiết để tránh các khuynh hướng đổi mới tràn lan theo hướng thời thượng, phi hiệu quả mà tổn thất thuộc về xã hội, trong đó chủ đầu tư chịu thiệt thòi nhiều hơn .
Vốn, công nghệ, thị trường là ba yếu tố cơ bản nhất của dự án đầu tư đổi mới công nghệ mà các nhà đầu tư phối hợp sử dụng . Một dự án tốt nhất là dự án kết hợp khéo léo các thành phần của công nghệ với vốn và thị trường được mô phỏng theo công thức:
P = (T ; H ; I ; O) + (M) + (K)
Trong đó: P là dự án ; M là thị trường ; K là vốn ; T, H, I, O là thành phần kĩ thuật, O - tổ chức cho công nghệ hoạt động (T là phần cứng, các thành phần H, I, O là phần mềm, tri thức của con người còn gọi là phần ướt, tạo nên các kênh liên hệ, kết dính và phát sáng các phần khác .
Các doanh nghiệp công nghệ trong quá trình đổi mới và phát triển thường gặp những khó khăn: thiếu vốn, công nghệ lạc hậu, không có thị trường tiêu thụ . Hiếm có doanh nghiệp nào hoàn hảo ba yếu tố này, môi trường kinh doanh cũng không bao giờ có sẵn các yếu tố đó cho doanh nghiệp . Các cơ hội không nhiều và luôn ẩn hiện .
Một mặt lợi thế khác của doanh nghiệp Việt Nam là lợi thế của người đi sau biết học hỏi và rut kinh nghiệm của người đi trước . Doanh nghiệp Việt Nam phát triển chủ yếu trong thập niên 1990 trong khi thế giới và một số nước trong khu vực đã đạt được sự phát triển cao về khoa học công nghệ cũng như khoa học quản lý và đã ứng dụng thành công trong phát triển kinh tế và doanh nghiệp của mình . Đây cũng là thời kỳ của sự chuyển dịch một số nghành công nghiệp và dịch vụ từ các nước có trình độ cao hơn song các nước có trình độ thấp hơn theo mô hình đàn ngỗng bay trong khu vưc Đông á . Các doanh nghiệp Việt Nam trên con đường đi lên để học hỏi, tiếp thu kinh nghiệm và nguồn vốn, công nghệ, kỹ năng của doanh nghiệp ở các nước tiên tiến hơn để rút ngắn thời gian phát triển của mình, đồng thời, có thể học hỏi để tránh được sai lầm mà các doanh nghiệp nước khác vấp phải .
Doanh nghiệp Việt Nam cũng có lợi thế khi đi ra thị trường quốc tế trong điều kiện thị trường khu vực và thế giới tuy cạn tranh quyết liệt nhưng rộng mở hơn bao giờ hết . Do kết quả của những cuộc đấu tranh của các nước trong khu vưc, quá trình đàm phán quốc tế kéo dài nhiều năm hệ thống thương mại thế giới ngày nay đã hình thành 1 hệ thống mở trong đó quyền lợi của các nước nghèo yếu hơn đước bảo vệ ở mức độ nhất định, quyền kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc các nước phát triển hơn được mở rộng hơn nhiều so vơí trước đây . Đối với ASEAN chúng ta gia nhập khi ASEAN đã chuyển mạnh sang hợp tác kinh tế với nhiều chương trình hợp tác đa phương không những trong khối mà cả với nền kinh tế chủ yếu của thế giới phù hợp với lợi ích phát triển lâu dài của đất nước và doanh nghiệp nước ta. Tuy thách thức không nhỏ nhưng rất nhiều vận hội mở rộng cho doanh nghiệp nước ta trong khu vực và quốc tế .
Trong những năm tới, khi chúng ta đi sâu vào tiến trình AFTA doanh nghiệp Việt Nam sẽ có những cơ hội quanh trọng để phát triển trong mối liên kêt kinh tê với thị trường khu vực này .
Về thương mại với mức thuế 0 - 5% áp dụng hầu hết các mặt hàng với việc bỏ dở hàng rào phi thuế quan, doanh nghiệp Việt Nam có thời cơ lớn để đẩy mạn xuất khẩu sang thị trường ASEAN . Đặc biệt, sự phục hồi kinh tế của các nước bị khủng hoảng và sự điều chỉnh cơ cấu của một số nước sẽ tạo điều kiện cho ta thời cơ mở rộng xuất khẩu một số sản phẩm của nước này . Việc nhập khẩu các nguyên vật liệu từ các thành viên ASEAN vào nước ta sẽ thuận lợi hơn .
Về đầu tư, sự hình thành khu vực mậu dịch ASEAN sẽ thúc đẩy đầu tư không những từ các nước ASEAN mà cả từ các nước khác vào nước ta . Thị trường nội địa Việt Nam nước đông dân thứ hai trong các nước ASEAN được nối kết với thị trường rộng lớn hơn 400 triệu dân các nưóc ASEAN bằng một cơ chế tự do có sức hấp dẫn không nhỏ đối với nhà đầu tư quốc tế . Sự trưởng thành của doanh nghiệp Việt Nam cũng là nhân tố quan trọng để các doanh nghiệp Việt Nam có thêm đối tác cần thiết cho quá trình phát triển kinh doanh ở trong nước, trong khu vực và trên thị trường quốc tế .
Tiến trình AFTA và những đòi hỏi của nó thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam hoàn thiện hệ thống quản lý, tiêu chuẩn hoá chất lượng sản phẩm và hiện đại hóa phương thức kinh doanh của mình để đáp ứng các tiêu chuẩn khu vực . Điều đó sẽ cải thiện một cách cơ bản năng lực cạnh tranh và tạo uy tín tốt hơn cho doanh nghiệp Việt Nam trên trường quốc tế .
Và ngoài ra điều quan trọng nhất doanh nghiệp Việt Nam được hoạt động trong một thị trường kinh tế có lực lượng lao động dồi dào, sự ổn định của nền kinh tế chính trị tạo điều kiện an tâm khi kinh doanh .
Tổng sản lượng trong nước theo giá trị thực tế .
Năm 1995
(tỷ đồng)
Năm 1998
(tỷ đồng)
Năm 1999
(tỷ đồng)
Năm 2002 Sơ bộ 2001
(tỷ đồng) (tỷ đồng)
Tổng sản phẩm trong nước(GDP)
Tích luỹ tài sản
- ISCD
-Thayđổi tồn kho
Tiêu dùng
cuối cùng
- Nông nghiệp
- Cá nhân
Chênh lệch xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ .
Sai số
228892
62131
58187
3944
187233
18741
108492
- 20819
347
361016
104875
97351
7324
283444
27523
255921
- 26371
- 932
399942
110503
102799
7704
301690
27137
274553
- 11418
- 833
441646 484492
130771 149621
122101 139895
8670 9726
321853 344840
28346 30145
293507 314695
-10878 - 9845
-100 - 124
3. Những điểm yếu của doanh nghiệp Việt Nam .
" Thực trạng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam là rất trì trệ. Tình trạng tham nhũng và làm thất thoát tài sản là rất phổ biến " .
Nhận định này của thủ tướng chính phủ từ năm 1998 vẫn đúng cho đến thời điểm hiện tại và chắc chắn rằng còn đúng trong cả vài năm trước mắt . Thực tế cho thấy các nguyên nhân dẫn đến nguy cơ phá sản hay thành công trong kinh doanh dù ít hay nhiều đều liên quan đến khả năng cạnh tranh .
Ngoài các nguyên nhân ngoài tầm kiểm soát của doanh nghiệp, doanh nghiệp dễ bị phá sản là do:
* Bị thua thiệt trong cạnh tranh (cạnh tranh bằng giá, bằng chất lượng hàng hoá, bằng tổ chức các dịch vụ tiêu thụ hàng hoá) .
* Chất lượng sản phẩm giảm sút (do xuất hiện sản phẩm mới ưu việt hơn do máy móc thiết bị cũ, chất lượng nguyên vật liệu, do ý thức ......)
* Phí tổn sản xuất cao dẫn đến thua lỗ (do bộ máy điều hành làm hiệu quả, chi phí trong các khâu sản xuất quá lớn)
* Sai lầm về chính sách giá (giá quá cao hoặc quá thấp sẽ gây nhiều thị trường)
* Lượng cung vượt quá lượng cầu .
Căn cứ vào nguyên nhân đó, chúng ta thấy rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam bị phá sản theo bước tiến của quá trình hội nhập, điều này thể hiện cụ thể hơn qua việc nhìn vào nên kinh tế Việt Nam . Dù chỉ chiếm 20 % tổng số 35.000 doanh nghiệp của cả nước, doanh nghiệp nhà nước vẫn nắm giữ hầu hết các nguồn lực cơ bản của xã hội và giữ vai trò đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế, chưa nói đến doanh nghiệp ngoài quốc doanh đang mới mẻ, khả năng cạnh tranh còn thấp .
Đối chiếu với 6 yếu tố M của các nước thường dùng để đánh giá năng lực của doanh nghiệp thì các doanh nghiệp Việt Nam đều yếu cả về 6 M đó .
Trước hết về vốn: tuy chiếm hơn 80 % tổng nguồn vốn của nền kinh tế nhưng song sẽ là khập khiễng nếu đem quy mô vốn bình quân của doanh nghiệp nhà nước so với mức vốn của doanh nghiệp quốc tê có khả năng cạnh tranh trung bình . Nếu so sánh quy mô vốn của doanh nghiệp nhà nước với doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì thấy doanh nghiệp nhà nước có lợi thế . Song phép so sánh này chẳng có nghĩa gì khi coi vốn như một chỉ tiêu tiền đề cho khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong hội nhập kinh tế thế giới .
Tính đến cuối năm 1999, tổng số doanh nghiệp nhà nước là 5.450 với 1.733 doanh nghiệp trung ương va 3.717 doanh nghiệp địa phương . Trong đó, gần 100 tổng công ty (17 tổng công ty 91 và gần 30 tổng công ty 90) tổng số vốn nhà nước tại doanh nghiệp là 112.000 tỷ đồng . Rõ ràng, số vốn của doanh nghiệp là rất nhỏ . Số vốn của doanh nghiệp Việt Nam lại càng trở nên nhỏ hơn khi đối chiếu với vốn chủ sở hữu và tình hình công nợ của doanh nghiệp . Vốn đã ít, nợ lại càng nhiều, số nợ của doanh nghiệp nhà nước phải trả thường cao hơn rất nhiều so với số vốn của doanh nghiệp . Liệu có bình thường không khi số vốn thực có không bù đắp nổi số vốn âm rất khổng lồ này ?
Thứ hai là máy móc thiết bị và công nghệ: số doanh nghiệp Việt Nam đang hoạt động với những công cụ lạc hậu vài ba thập kỉ so với các nước xung quanh . Do đó, năng suất lao động và chất lượng sản phẩm bị thua kém rõ rệt .
Thứ ba là nguyên vật liệu nguồn cung ứng trong nước có những hạn chế về chất lượng và số lượng, chủng loại, tính ổn định, giá thành (kể cả nguyên liệu từ nông nghiệp) hoặc nguồn nhập khẩu đều chưa tạo lợi thế cạnh tranh cao cho doanh nghiệp Việt nam .
Thứ tư là nhân lưc: tuy nước ta có nguồn nhân công dồi dào, trình độ học vấn cơ bản tương đối khá nhưng tỷ lệ lao động được đào tạo để có kĩ năng, có chất lượng lại thấp do đó năng suất lao động cuat nước ta còn thấp hơn nhiều nước trong khu vực .
Thứ năm là kĩ năng quản lý: phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam chưa áp dụng hệ thống quản lý tiên tiến đội ngũ những người quản trị kinh doanh và quản lý các lĩnh vực khác nhau trong doanh nghiệp . Hiện nay còn có những hạn chế về kĩ năng quản lý chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ và khả năng sử dụng các công cụ cần thiết trong kinh doanh hiện đại như Internet, thương mại điện tử do họ không được đào tạo một cách cơ bản và liên tục như đội ngũ doanh nhân các nước .
Thứ sáu là thị trường, tiếp thị: Chúng ta có thị trường nội địa còn hẹp do kinh tế chậm phát triển, mức thu nhập thấp, trong khi cạnh tranh trên thị trường quốc tế ngày càng quyết liệt, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp còn thấp và ta tham gia thị trường thế giới chưa lâu, hội nhập chưa đầy đủ nên doanh nghiệp ta không dễ dàng tiếp cận thị trường thế giới rộng lớn ở bên ngoài .
Ngoài 6 M đó doanh nghiệp Việt Nam còn gặp khó khăn về các yếu tố cho sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp các nước ít gặp hoặc không gặp phải . Đó là sự thiếu vốn và khó tiếp cận với các nguồn cung ứng về đất đai, mặt bằng sản xuất kinh doanh với các nguồn thông tin có chất lượng và đáng tin cậy, với công nghệ mới ......là hạn chế về năng lực nghiên cứu và phát triển về mạng lưới quan hệ trên thương trường .
Với kinh nghiệm và kĩ năng hoạt động trên thương trường nhất là thị trường quốc tế các doanh nghiệp Việt Nam có nhiều hạn chế bởi lý do lịch sử. Chỉ từ khi công cuộc đổi mới chúng ta bắt đầu phát triển lực lượng doanh nghiệp và chú trọng kinh doanh . Năm 1990, luật công ty và doanh nghiệp tư nhân mới ba
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 100049.doc