MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
NỘI DUNG 2
A / Quảng cáo trong hoạt động kinh doanh 2
I/ Khái niệm quảng cáo 2
II/ Quảng cáo trong hoạt động marketing 6
III/ Các phương tiệm quảng cáo 8
1. Quảng cáo thông qua các ấn phẩm: tờ rơi, tờ gấp, báo, tạp chí, bưu phẩm trực tiếp 8
1.1/ Quảng cáo qua tờ rơi, tờ gấp 8
1.2/ Quảng cáo trực tiếp qua các bưu phẩm 9
1.3/ Quảng cáo qua báo chí 10
1.4/ Quảng cáo trên tạp chí 11
2. Quảng cáo trên đài phát thanh và đài truyền hình 12
3. Quảng cáo qua mạng Internet 13
4. Quảng cáo qua các hoạt động tài trợ 15
IV/ Quảng cáo trong lữnh vực kinh doanh ngân hàng 15
1. Đặc thù ngành ngân hàng 15
2. Đặc thù của quảng cáo trong ngân hàng 20
B/ Thực trạng hoạt động quảng cáo đối với sản phẩm mới của Habubank 21
I/ Đôi nét về ngân hàng Habubank 21
1. Lịch sử ra đời và phát triển 21
2. Ý nghĩa tên gọi và biểu trưng logo của Habubank 22
3. Sơ đồ cơ cấu tổ chức Habubank 23
4. Lĩnh vực hoạt động( Kết quả kinh doanh) 24
5. Đặc điểm của sản phẩm 25
II/ Thực trạng về hoạt động quảng cáo tại Habubank 26
1. Mục tiêu hoạt động của Habubank 26
2. Hoạt động quảng cáo của Habubank 26
2.1/ Khách hàng mục tiêu của Habubank 26
2.2/ Các phương tiện trong hoạt động quảng cáo của Habubank 27
2.2.1/ Quảng cáo thông qua các ấn phẩm, tờ rơi, tờ gấp, thông báo trên hệ thống thông tin của phường 27
2.2.2/ Quảng cáo trên báo chí 28
2.2.3/ Quảng cáo trên đài phát thanh và đài truyền hình 29
2.2.4/ Quảng cáo qua mạng internet 30
2.2.5/ Quảng cáo qua các hoạt động tài trợ 31
2.2.6. Quảng cáo qua hình thức khuyến mại 31
C/ Giải pháp hoàn thiện hoạt động quảng cáo đối với sản phẩm mới của ngân hàng Habubank 32
I/ Nghiên cứu đối tượng nhận tin 33
II/ Lập kế hoạch xác định mục tiêu 33
III/ Lựa chọn phương tiện 34
IV/ Những giải pháp khác 35
1. Chu kỳ sống của sản phẩm mới 35
2. Giá của sản phẩm 37
3. Phân phối sản phẩm 37
4. Những hoạt động xúc tiến khác 38
LỜI KẾT 39
TÀI LIỆU THAM KHẢO 40
42 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1888 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động quảng cáo đối với sản phẩm mới của ngân hàng Habubank trên thị trường Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quảng cáo , vào khách hàng trọng điểm, vào thời gian và khả năng tài chính, vào sự so sánh tương quan giữa các phương tiện trong đó yếu tố chi phí giữ vai trò quan trọng
Phí quảng cáo qua radio thay đổi theo loại thông tin quảng cáo và có thể theo từng trạm phát.
Ưu điểm của quảng cáo qua radio là có nhiều thính giả, có thể nhắc đi nhắc lại nhiều lần, tạo khả năng lựa chọn trạm phát ở nơi có khách hàng trọng điểm, thông tin quảng cáo được chuyển tới từng người nghe.
Tuy nhiên quảng cáo qua radio cũng có nhiều nhựơc điểm như: tính lâu bền của thông tin thấp, thông tin quảng cáo dễ bị người nghe bỏ qua và không phù hợp với tất cả các sản phẩm và dịch vụ , việc thử nghiệm tính hữu ích của quảng cáo qua radio tương đối khó.
3. Quảng cáo qua mạng Internet
Cũng như các loại hình quảng cáo khác, quảng cáo trên mạng nhằm cung cấp thông tin đẩy nhanh tiến độ giao dịch giữa người mua và người bán. Nhưng quảng cáo trên Web khác hẳn với quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng khác, nó giúp cho người tiêu dùng có thể tương tác với quảng cáo .Khách hàng có thể nhấn vào quảng cáo để lấy thông tin hoặc mua sản phẩm cùng mẫu mã trên quảng cáo đó
Trên Web, mọi thứ đều có thể đưa vào quảng cáo , từ bố trí sản phẩm ( logo hoặc tên sản phẩm trong văn bản hoặc trên màn hình) tới thiết kế Wallpaper ( các ảnh nền phía sau nội dung quảng cáo ) làm cho logo bất cứ nhãn hiệu sản phẩm nào cũng trở nên nổi bật
Quảng cáo trên Web đã tạo cơ hội cho các nhà quảng cáo nhằm chính xác vào khách hàng của mình, và giúp họ tiến hành quảng cáo theo đúng với sở thích và thị hiếu của người tiêu dùng. Các phươg tiện thông tin đại chúng khác cũng có khả năng chọn, nhưng chỉ có mạng Web mới có khă năng tuyệt vời
Ban đầu quảng cáo trên Internet được định nghĩa là sự tổng hợp của tất cả các ngành. Ngày nay người ta định nghĩa quảng cáo trên Internet là kết hợp quảng cáo truyền thông và tiếp thị trực tiếp
Nhóm quảng cáo của hãng AOL đã hoàn thiện hơn nữa khái niện về quảng cáo trên mạng. Steve Keenan, phó giám đốc điều hành tiếp thị của hãng AOL nói rằng:
“ Chúng tôi không cho rằng quảng cáo trên Internet chỉ là việc tạo nhãn hiệu hay để tiếp thị trực tiếp. Trên Internet bạn có thể tiến hành quảng cáo giống như trên tivi, đài, báo chí, có thể truyền tải lượng thông tin đến mọi người giống như trên báo chí và tiếp thị trực tiếp, hay tiến hành giao dịch giống như đi mua sắm ở các quầy hàng hoặc gọi điện thoại số 800”.
Theo AOL thì quảng cáo trên Internet là sự kết hợp vừa cung cấp nhãn hiệu, cung cấp thông tin và trao đổi buôn bán ở cùng một nơi
Quảng cáo trên mạng có nhiều ưu điểm, đó là:
Nhà quảng cáo trên mạng có rất nhiều khả năng lựa chọn i. Họ có thể chọn các công ty, các quốc gia hoặc khu vực địa lý cũng như họ có thể sử dụng cơ sở dữ liệu để làm cơ sở cho tiếp thị trực tiếp. Họ cũng có thể dựa vào sở thích cá nhân và hành vi của người tiêu dùng để chọn vào đối tượng thích hợp
Các nhà tiếp thị trên mạng có thể theo dõi hành vi của người sử dụng đối với nhãn hiệu của họ và tìm hiểu sở thích cũng như mối quan tâm của những khách hàng triển vọng
Các nhà quảng cáo cũng có thể xác định được hiệu quả của quảng cáo thông qua số lần quảng cáo được nhấn, số ngời mua sản phẩm ,và số lần tiến hành quảng cáo …nhưng điều này rất khó thực hiện đối với kiểu quảng cáo truyền thông như tivi, báo chí, và bảng thông báo…
Quảng cáo trên Internet còn có ưu điểm nổi bật khác với quảng cáo trên báo chí là tính linh hoạt và khả năng phân phối. Một quảng cáo trên mạng được truyền tải 24/24 giờ một ngày, cả tuần, cả năm. Hơn nữa chiến dịch quảng cáo có thể được bắt đầu cập nhật hoặc huỷ bỏ bất cứ lúc nào. Nhà quảng cáo có thể theo dõi tiến độ quảng cáo ngày ngày, xem xét hiệu quả ở tuần đầu tiên và có thể thay đổi quảng cáo ở tuần 2 lúc không cần
Ngoài ra quảng cáo trên mạng còn có tính tương tác. Mục tiêu của nhà quảng cáo là gắn khách hàng triển vọng với nhãn hiệu sản phẩm của họ. Điều này có thể thực hiện hiệu quả trên mạng, vì khách hàng có thể tương tác với sản phẩm ,kiểm tra sản phẩm và nếu thoả mãn thì có thể mua. Không có loại hình thông tin đại chúng nào lại có thể dẫn khách hàng từ lúc tìm hiểu thông tin đến khi mua sản phẩm mà không gặp trở ngại nào như mạng Internet
4. Quảng cáo qua các hoạt động tài trợ
Các doang nghiệp quảng cáo sản phẩm và hoạt động của mình thông qua các hoạt động tài trợ như tài trợ cho giải bóng đá, tài trợ kinh phí cho việc sản xuất phim, tài trợ cho quỹ vì người nghèo….Thông qua các hoạt động tài trợ này mà khách hàng biết đến doanh nghiệp và tạo niềm tin, sự yêu mến của khách hàng , qua đó thu hút khách hàng đến với doanh nghiệp mình
Đây là một hoạt động quảng cáo có chi phí cao nhưng đạt hiệu quả, những cũng dễ gây lãng phí. Để tránh lãng phí trong hoạt động này thì doanh nghiệp phải có kế hoạch và cần có sự lựa chọn cân nhắc kỹ lưỡng trước khi thực hiện sao cho phù hợp với lĩnh vực kinh doanh của mình
IV/ Quảng cáo trong lữnh vực kinh doanh ngân hàng
1. Đặc thù ngành ngân hàng
Ngân hàng là loại hình kinh doanh đặc biệt nó là một trung gian tài chính. Nó có ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ nền kinh tế và ảnh hưởng của nó mang tính chất dây chuyền, lây lan và sâu rộng
Để hiểu được chức năng đặc biệt của ngân hàng trong nền kinh tế, chúng ta hãy hình dung một thế giới giản đơn trong đó không tồn tại hoạt động của hệ thống ngân hàng .
Trong một thế giới như vậy, những khoản tiết kiệm của dân chúng chỉ có thể được sử dụng hoặc là dưới dạng tiền mặt ; hoặc là dưới dạng đầu tư chứng khoán vào các công ty
Trong một thế giới không có ngân hàng thì qui mô các luồng vốn từ những người tiết kiệm chuyển đến các công ty là rất thấp, những nguyên nhân chính là do: chi phí để giám sát hoạt động của công ty rất tốn kém; chi phí chuyển nhượng ( thanh khoản) các chứng khoán công ty rất cao; và rủi ro biến động giá cả chứng khoán trên thị trường
Trong một thế giới mà hệ thống ngân hàng không tồn tại, thì những nguyên nhân nêu trên khiến cho dân chúng giảm động lực tiết kiệm, tăng tiêu dùng và hoặc là tiết kiệm ở dạng tiền mặt.
Tuy nhiên, chúng ta đang sống trong một thế giới mà ở đó hệ thống ngân hàng phát triển mạnh mẽ và được coi như bộ xương sống của nền kinh tế. Hệ thống ngân hàng cung cấp một kênh dẫn vốn gián tiếp từ những người có nhu cầu đầu tư đến các công ty.
Ngân hàng thực hiện những chức năng cơ bản đó là: chức năng luân chuyển tài sản; chức năng cung cấp các dịch vụ thanh toán, môi giới và tư vấn….
Về các dịch vụ thanh toán, môi giới và tư vấn: Ngân hàng hoạt động như là đại lí của khách hàng. Ví dụ như hoạt động nghiên cứu và đầu tư cho khách hàng, hướng dẫn khách hàng mua bán chứng khoán…. Thông qua chức năng tư vấn và cung cấp dịch vụ thanh toán làm cho chi phí đầu tư của khách hàng giảm xuống và người đầu tư có thể nắm bắt được tình hình tài chính và hoạt động kinh doanh của công ty một cách chính xác và toàn diện hơn. Do đó thông qua chức năng cung cấp dịch vụ tư vấn và đầu tư, hệ thống ngân hàng đã khuyến khích được tỷ lệ tiết kiệm trong dân chúng tăng lên
Về chức năng luân chuyển tài sản: Trong chức năng luân chuyển tài sản, ngân hàng tiến hành đồng thời hai hoạt động.
Thứ nhất, ngân hàng huy động vốn bằng cách phát hành các chứng chỉ tiền gửi. Các chứng chỉ tiền gửi do ngân hàng phát hành thường hấp dẫn người đầu tư hơn nhiều so với các chứng khoán do các công ty phát hành trực tiếp cho dân chúng, bởi vì, đối với hầu hết những người đầu tư thì việc mua các chứng chỉ tiền gửi của ngân hàng sẽ giảm được đáng kể các chi phí như chi phí thanh khoản và rủi ro giá cả, chi phí giám sát.
Thứ hai, ngân hàng tiến hành đầu tư bằng cách cấp tín dụng và mua các cổ phiếu và trái phiếu do các công ty phát hành( gọi chung là đầu tư chứng khoán), những chứng khoán này là những chứng khoán sơ cấp. Như vậy, những chứng chỉ tiền gửi do ngân hàng phát hành là chứng khoán thứ cấp, bởi vì chúng chỉ được phát hành khi các công ty phát hành các chứng khoán sơ cấp để đầu tư vào tài sản thực.
Một câu hỏi căn bản được đặt ra đối với ngân hàng là làm thế nào để kinh doanh ngân hàng có lãi khi mà ngân hàng mua các chứng khoán sơ cấp của các công ty rồi sau đó đem bán lại cho dân chúng dưới dạng chứng khoán thứ cấp?.
Đây là câu hỏi đặc thù về hoạt động kinh doanh của các ngân hàng và có ý nghĩa to lớn đối với nền kinh tế nói chung. Ngân hàng làm được điều đó mà vẫn có lãi là vì chính ngân hàng đã xử lí tốt hơn và giảm được đáng kể ba loại chi phí, đó là chi phí giám sát, chi phí thanh khoản và rủi ro giá cả mà từng nhà đầu tư riêng rẽ không thể đạt được. Mà cụ thể là giảm được các chi phí về điều tra khách hàng, chi phí đại lí và chi phí về luân chuyển tài sản
Chi phí về điều tra khách hàng: đối với những người riêng lẻ đầu tư trực tiếp vào cổ phiếu và trái phiếu công ty phải chịu chi phí cao để điều tra về tình hình tài chính và hoạt động của công ty này.
Sau khi đã đầu tư, những người đầu tư phải thường xuyên giám sát được hoạt động của công ty một cách kịp thời và toàn diện, nếu không làm được điều này thì họ có thể phải gánh chịu hậu quả do công ty có những hoạt động sai lệch hoặc đi ngược với lợi ích của người đầu tư.
Nghĩa là rủi ro đối với người đầu tư trong trường hợp công ty sử dụng vốn huy động vào các mục đích khác tiềm ẩn rủi ro cao so với mục đích đã được cam kết trong hợp đồng phát hành chứng khoán.
Để giải quyết vấn đề này đối với những người đầu tư riêng lẻ, đó là việc tập hợp các khoản tiết kiệm đơn lẻ vào ngân hàng ( hoặc công ty đầu tư chứng khoán), để ngân hàng này dùng số vốn huy động được đầu tư trực tiếp cho các công ty.
Vấn đề tập hợp vốn đầu tư như vậy, giải quyết được một số vấn đề đó là :Một ngân hàng lớn có đủ điều kiện và có trách nhiệm hơn nhiều so với các nhà đầu tư riêng lẻ khi thực hịên việc điều tra và giám sát hoạt động kinh doanh của công ty.
Hơn nữa thông qua ngân hàng thì chi phí bình quân trong việc thu thập xử lý thông tin và giám sát hoạt động của công ty giảm đáng kể. Qua đó, cho thấy tính hiệu quả trong việc thu thập và xử lí thông tin đối với ngân hàng phản ánh lợi thế so sánh của ngân hàng so với những nhà đầu tư riêng lẻ là thế nào.
Trên cơ sở giám sát có hiệu quả và giảm được chi phí, ngân hàng càng tạo được lòng tin để phát hành thêm các chứng chỉ tiền gửi mới để tăng vốn, vốn tăng dẫn đến đầu tư vào các công ty tăng, càng tạo cho ngân hàng giám sát tốt hơn hoạt động của các công ty và càng giảm được chi phí.
Một ví dụ điểm hình về tăng cường giám sát của ngân hàng đối với công ty có thể minh hoạ thông qua hoạt động tín dụng của ngân hàng . Tín dụng ngân hàng thông thường có kì hạn ngắn hơn so với đầu tư chứng khoán, vì vậy thông qua hoạt động tín dụng của mình ngân hàng có thể tăng cường giám sát và kiểm tra hoạt động của công ty sau mỗi lần quyết định cấp tín dụng, thông qua việc lặp đi lặp lại nhiều lần xét duyệt tín dụng trong một năm, ngân hàng đã trở thành người nắm bắt được đầy đủ chính xác các thông tin về tình hình tài chính cũng như điều kiện kinh doanh của công ty.
Điều này có thể thay thế được các điều khoản ràng buộc cứng nhắc trong các hợp đồng phát hành chứng khoán của các công ty. Thông qua quan hệ với ngân hàng mà các thông tin trung thực về tình hình tài chính của công ty được công khai.
Trong trường hợp các thông tin này là thông tin tốt thì công ty có thể phát hành được chứng khoán ra công chúng với chi phí thấp hơn, và các thông tin sai lệch về công ty cũng được các nhà đầu tư điều chỉnh. Điều này khuyến khích được các luồng vốn luân chuyển đúng địa chỉ, làm tăng hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế nói chung
Về thanh khoản và rủi ro giá cả: bên cạnh giảm được chi phí điều tra, thu thập và xử lý thông tin, ngân hàng còn cung cấp các dịch vụ tiền gửi có tính thanh khoản cao hơn hẳn so với các cổ phiếu và trái phiếu công ty.
Ngân hàng làm được điều này là do ngân hàng đã dựa trên khả năng đa dạng hoá danh mục đầu tư của chính ngân hàng . Thông qua hoạt động đa dạng hoá danh mục đầu tư thì mức độ rủi ro được giảm xuống
Ngoài những dịch vụ đặc thù cơ bản của ngân hàng như thanh toán, thanh khoản và giảm rủi ro giá cả đã giúp giảm được chi phí giám sát, tăng tính thanh khoản của tiền gửi và giảm được rủi ro giá cả, thì ngân hàng còn cung cấp thêm hai dịch vụ đặc thù khác giúp làm giảm chi phí giao dịch và chuyển hoá linh hoạt kỳ hạn của tài sản đó là:
Giảm chi phí giao dịch: trong khi ngân hàng cung cấp dịch vụ thu thập và xử lý thông tin hiệu quả, thì ngân hàng cũng cung cấp một tiềm năng to lớn trong việc giảm chi phí giao dịch.
Cũng như trên các thị trường khác, người mua lẻ bao giờ cũng phải chịu một chi phí giao dịch lớn hơn so với những nhà mua buôn, vì vậy ngân hàng trên cơ sở nguồn vốn lớn sẽ đầu tư những khoản lớn, do đó chi phí giao dịch được giảm xuống .
Ngoài ra, do giao dịch với khối lượng lớn nên chênh lệch giữa giá mua và giá bán thông thường nhỏ hơn đối với những giao dịch có khối lượng nhỏ, điều này làm tăng được hiệu quả kinh tế chung của xã hội
Chuyển hoá linh hoạt kỳ hạn của tài sản: thông qua việc đa dạng hoá tài sản, không những giảm được rủi ro, mà ngân hàng còn có thể xử lý được sự không cân xứng các kỳ hạn của tài sản nợ và tài sản có hiệu quả hơn nhiều so với các nhà đầu tư riêng lẻ. Ngân hàng đã xử lý tốt việc không cân xứng kỳ hạn của tài sản đối với toàn bộ nền kinh tế
Trên thực tế, những nhà hoạch định chính sách và những nhà định chế còn đưa ra một số lĩnh vực thuộc về tính đặc trưng của ngân hàng, đó là: ngân hàng là đối tượng và đồng thời là các trung gian chuyển tải chính sách tiền tệ, phân bổ tín dụng, dịch vụ thanh toán
Nói đến đặc thù ngân hàng thì không thể không nói đến rủi ro trong ngân hàng . Những rủi ro đôí với hoạt động ngân hàng đó là những rủi ro về lãi xuất, rủi ro ngoại hối, rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro hoạt động ngoại bảng, rủi ro công nghệ và hoạt động, rủi ro quốc gia và rủi ro khác
2. Đặc thù của quảng cáo trong ngân hàng
Vì ngân hàng là ngành kinh doanh đặc biệt nên quảng cáo trong ngân hàng cũng có những đặc thù riêng. Do sản phẩm và dịch vụ của các ngân hàng có đặc trưng chung nên chúng dễ bị các ngân hàng khác bắt trước, làm theo. Các hoạt động quảng cáo vì thế cũng dễ bị trùng lặp nhau.
Hơn nữa sản phẩm của ngân hàng là sản phẩm mang tính vô hình, không lưu giữ được, luôn thay đổi và không đồng nhất, nên hoạt động quảng cáo trong ngân hàng chủ yếu là dưới hình thức thông tin trực tiếp hoặc là các thông điệp quảng cáo .
Quảng cáo trong ngân hàng chưa được đánh giá cao, chủ yếu các ngân hàng sử dụng hình thức xúc tiến bán hàng trực tiếp là chính. Tuy nhiên , trong những năm gần đây quảng cáo ngày càng được chú trọng trong hoạt động của ngân hàng
Hiệu quả của quảng cáo trong ngân hàng phụ thuộc lớn đến việc chọn thời gian quảng cáo và phương tiện quảng cáo .Thời gian quảng cáo đúng lúc, phương tiện phù hợp sẽ tạo ra được hiệu quả cao.Nói cách khác, thời gian quảng cáo và phương tiện quảng cáo là những yếu tố quyết định thành công trong quảng cáo .
Quảng cáo trong ngân hàng thường sử dụng phương tiện báo, tạp chí, đài phát thanh , đài truyền hình, tờ rơi, tờ gấp, quảng cáo qua mạng, quảng cáo qua các hoạt động tài trợ.
Quảng cáo trên đài phát thanh và đài truyền hình thông thường dưới dạng tin về các sự kiện hoặc các phóng sự ngắn được phát ở chương trình thời sự, các chương trình kinh tế.
Còn quảng cáo trên báo, tạp chí thông thường dưới dạng phỏng vấn, bài viết trực tiếp về hoạt động và chất lượng dịch vụ của ngân hàng hoặc bài viết khuyếch trương thương hiệu hoặc mở chuyên mục dưới một tờ báo chuyên ngành lớn như báo Kinh tế Sài Gòn, Thời báo kinh tế Việt nam, diễn đàm doanh nghiệp…
Phương tiện quảng cáo ngân hàng hữu hiệu nhất có lẽ là tờ rơi, tờ gấp và quảng cáo qua mạng. Qua các phương tiện này khách hàng có thể biết thông tin đầy đủ và chính xác nhất về các hoạt động cũng như các sản phẩm và dịch vụ của ngân hàng
Hiện nay hình thức quảng cáo qua các hoạt động tài trợ cũng được các ngân hàng ưa dùng, nhưng chủ yếu là các ngân hàng lớn, vì hình thức này rất tốn kém và phải có sự lựa chọn và cân nhắc kỹ sao cho phù hợp với lĩnh vực hoạt động kinh doanh ngân hàng
B/ Thực trạng hoạt động quảng cáo đối với sản phẩm mới của Habubank
I/ Đôi nét về ngân hàng Habubank
1. Lịch sử ra đời và phát triển
Ngày 2/1/2004, ngân hàng TMCP nhà Hà nội, tên giao dịch là Habubank tổ chức lễ kỷ niệm 15 năm ngày thành lập (2/1/1989 – 2/1/2004)
Khi mới thành lập, Habubank chỉ có 16 cán bộ với số vốn ban đầu 5 tỷ VNĐ, hoạt động theo hướng chuyên doanh.
Trải qua 15 năm xây dựng và trưởng thành từ một ngân hàng chuyên doanh nhà ở sang ngân hàng đa năng với những thành tựu nổi bật, đến nay ngân hàng đã có đội ngũ CBCNV đông đảo ( 216 người ), trong đó 70% có trình độ đại học và trên đại học. Vốn điều lệ tăng 24 lần ( từ 5 tỷ lên 120 tỷ đồng ), tổng tài sản tăng 357 lần ( từ 7 tỷ VNĐ lên 2500 tỷ VNĐ ).
Habubank bước đầu đã phát triển được một mạng lưới gồm nhiều chi nhánh tại các địa bàn kinh tế trọng điểm của cả nước: Hà Nội, Bắc Ninh, Quảng Ninh, và TP Hồ Chí Minh. Đồng thời, Habubank cũng phát triển quan hệ với hàng nghìn đại lí trong và ngoài nước (83 nước ).
Dựa trên cơ sở đầu tư phát triển và ứng dụng các công nghệ ngân hàng hiện đại, lĩnh vực hoạt động của Habubank cũng ngày càng được mở rộng, sản phẩm và dịch vụ của ngân hàng ngày càng phong phú và đa dạng để đáp ứng nhu cầu của dân cư
2. ý nghĩa tên gọi và biểu trưng logo của Habubank
Từ khi chuẩn bị thành lập ngân hàng TMCP Nhà Hà nội năm 1986, ban trù bị đã thống nhất lấy tên Habubank làm tên giao dịch quốc tế. Tuy bề bộn với nhiều công việc nhưng ban trù bị cũng không quên tìm một biểu tượng ( logo) cho Ngân hàng nhà. ý tưởng đó được nêu ra tại hội nghị những người mua cổ phần đầu tiên của ngân hàng vào tháng 12/1989 và dự kiến sẽ thuê người thiết kế
Trong hội nghị đó có một cổ đông lớn là “Công ty xây dựng 11” thuộc bộ xây dựng do anh Nguyễn Văn Vịnh , phó tổng giám đốc đại diện và anh đã nhận thiết kế biểu tượng cho ngân hàng
ít ngày sau anh gửi đến logo đơn giản và sống động với các nội dung: Tên giao dịch quốc tế là Habubank được sử dụng như những viên gạch nền móng vững chắc; tên viết tắt là HBB in đậm là một điểm nhấn, gợi cảm giác uy nghi một ngôi nhà, thể hiện sự vững vàng, hãnh diện của mô hình kinh tế mới, niềm mơ ước của TP Hà Nội và ngành ngân hàng thời kì bắt đầu đổi mới.
Anh tâm đắc với hìng thức “cổ phần” và khẳng định đó là cốt lõi của sự chuyển mình sang cơ chế thị trường, vì vậy anh đã cất lên mái nhà Habubank những lớp lợp ( vạch), thể hiện cho sự đa dạng của các thành phần kinh tế
Đường viền bao quanh ngôi nhà là biểu tượng cho tính thống nhất, đoàn kết chung sức, chung lòng của tập thể lãnh đạo, công nhân viên trong đại gia đình Habubank: đường gấp khúc vuông góc, sắc cạnh là tính kỷ luật , nghiêm minh trong môi trường kinh doanh tiền tệ, đường uốn cong mềm mại, uyển chuyển thể hiện cho tính linh hoạt trong các hoạt động kinh doanh của ngân hàng
3. Sơ đồ cơ cấu tổ chức Habubank
HĐQT
Ban điều hành
Ban kiểm soát
Uỷ ban quản lý tài sản
Uỷ ban chính sách tín dụng
Rủi ro thị trường và thanh toán
Rủi ro tín dụng
Dịch vụ NH Doanh nghiệp phát triền kinh doanh
Tổng giám đốc điều hành
Rủi ro hoạt động
Phó tổng giám đốc
Nguồn vốn
Hỗ trợ quản lý và kiểm tra kiểm soát nội bộ
Kiểm tra và xét duyệt tín dụng
Phó tổng giám đốc
Cung ứng dịch vụ ( giao dịch)
Marketing và dịch vụ NH Tiêu dùng
Phó tổng giám đốc
4. Lĩnh vực hoạt động( Kết quả kinh doanh)
“Cung ứng một cách toàn diện các sản phẩm dịch vụ tài chính có tính sáng tạo nhằm đáp ứng nhu cầu và mong muốn của từng đối tượng khách hàng với chất lượng dịch vụ và chuyên môn hoá cao” là phương châm hoạt động của Habubank.
Nhận thức được nhu cầu khác nhau và ngày càng phức tạp hơn của khách hàng trong nền kinh tế thị trường, từ năm 1995 Habubank đã chuỷên mình từ một ngân hàng chỉ chuyên kinh doanh phát triển nhà ở sang một ngân hàng thương mại đa năng, với nhiều loại hình sản phẩm dịch vụ đa dạng và linh hoạt, không ngừng nghiên cứu và đổi mới để tạo giá trị cho các doanh nghiệp, hộ gia đình cũng như cá nhân
15 năm hoạt động Habubank đã luôn thực hiện theo phương châm đã đề ra và đã thu được những kết quả xứng đáng. Ngân hàng luôn được xếp loại A và là một trong những ngân hàng cổ phần đô thị phát triển lành mạnh, an toàn và hiệu quả
Năm 1995, Habubank tăng vốn điều lệ lên 24,396 tỷ VNĐ, khai trương hoạt động phòng giao dịch số 1 của ngân hàng tại 57 Hàng Cót, Hoàn Kiếm Hà Nội.
Năm 1996 tăng vốn điều lệ lên 50 tỷ VNĐ, bắt đầu được phép thực hiện các nghiệp vụ TTQT và khai trương phòng giao dịch số 2 của ngân hàng tại 314 Hoàng Quốc Việt, Nghĩa Đô, Hà Nội.
Đến năm 1999 ngân hàng đã tăng vốn điều lệ lên 57 tỷ VNĐ và khai trương PGD số 3 tại 67C Hàm Long Hà Nội.
Năm 2001 tăng vốn điều lệ lên 70 tỷ VNĐ và trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội Viễn thông tài chính liên ngân hàng toàn cầu (SWIFT), triển khai phần mềm quản lí ngân hàng mới SMARTBANK, mở chi nhánh Quảng Ninh tại TP Hạ Long sau khi sát nhập Ngân hàng TMCP Nông thôn Quảng Ninh vào Habubank.
Đến năm 2002 tăng vốn điều lệ lên 80 tỷ VNĐ và được công nhận là thành viên của trung tâm thanh toán điện tử liên ngân hàng .Khai trương chi nhánh cấp tại Phố Mới, Đông Ngàn, Từ Sơn, Bắc Ninh.
Năm 2003 tăng vốn điều lệ lên 120 tỷ VNĐ khai trương chi nhánh TP Hồ Chí Minh tại số 83 đường Nguyễn Huệ, Quận 1, và chi nhánh cấp 2 Xuân Thuỷ tại Toà nhà HITC, 239 đường Xuân Thuỷ, Cầu Giấy, Hà Nội
5. Đặc điểm của sản phẩm
Sản phẩm mang tính vô hình
Dịch vụ là không nhìn thấy được. Việc chuyển tiền hay việc thanh toán lương là công việc mà khách hàng không nhìn thấy được, mà chỉ nhận biết được. Để giảm sự nghi ngờ, khách hàng thường đánh giá chất lượng dịch vụ qua: nơi giao dịch, nhân viên phục vụ, thiết bị, biểu tượng, giá.
Cũng vì đặc tính này của dịch vụ mà chúng ta thường thấy ít có bảo hộ bản quyền về dịch vụ và các dịch vụ thường dễ dàng bị bắt trước giữa các ngân hàng
Sản phẩm không lưu giữ được
Dịch vụ không thể lưu kho được. Vì vậy các ngân hàng không thể thực hiện việc kiểm kê về dịch vụ . Vì vậy việc dự phòng về cầu đối với ngân hàng là một công việc hoàn toàn mang tính sáng tạo
Sản phẩm có tính đồng thời và không thể chia rẽ
Không thể chia rẽ công đoạn sản xuất và tiêu thụ đối với dịch vụ và hai quá trình này diễn ra đồng thời. Vì vậy, chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của khách hàng phụ thuộc rất nhiều vào thời điểm “tức thời” tức là thời điểm dịch vụ được cung cấp cho khách hàng.
Ngoài ra, khách hàng cũng là đối tượng tham gia vào quá trình thực hiện dịch vụ và ngân hàng phải đặc biệt chú trọng tới mối quan hệ : “nhân viên- khách hàng”
Sự thay đổi và không đồng nhất
Dịch vụ thường khó được chuẩn hoá và chất lượng phụ thuộc rất nhiều vào nhười thực hiện dịch vụ. Để giảm tính chất thay đổi của dịch vụ và chất lượng dịch vụ, ngân hàng đang cố gắng chuẩn hoá việc cung cấp dịch vụ thông qua việc sử dụng máy móc và công nghệ, giảm bớt yếu tố con người
II/ Thực trạng về hoạt động quảng cáo tại Habubank
1. Mục tiêu hoạt động của Habubank
Năm 2003 ngân hàng Habubank đã tập chung vào việc xây dựng hình ảnh của mình trên thị trường
Ngân hàng đã chú trọng đến việc quảng bá rộng rãi các sản phẩm dịch vụ hiện có và các sản phẩm dịch vụ mới của mình, từ đó tạo ấn tượng tốt, tiến tới tạo thói quen sử dụng các sản phẩm dịch vụ và các tiện ích khác của Habubank
Tranh thủ sự ủng hộ của khách hàng đối với Habubank thông qua kênh thông tin đại chúng
Đồng thời tiếp tục khuyếch trương hình ảnh của Habubank, xây dựng hình ảnh tốt đẹp, tạo niềm tin cho khách hàng khi nghĩ đến Habubank
Cùng với việc triển khai có hiệu quả khuyếch trương các sản phẩm dịch vụ mới, tăng số lượng khách hàng đến với Habubank
2. Hoạt động quảng cáo của Habubank
Mặc dù Habubank đã ý thức được vai trò quan trọng của quảng cáo đối với hoạt động của ngân hàng ,đã tiến hành một số hoạt động cụ thể như đăng báo, tặng quà…nhưng những việc trên chưa được thực hiện một cách có kế hoạch do vậy hiệu quả chưa cao.
Tuy nhiên do nhiều yếu tố tác động (như chất lượng dịch vụ …) nên Habubank đã có một vị trí nhất định trên thị trường, đây là cơ sở để hoạt động quảng cáo có kế hoạch phát triển trong thời gian tới
2.1/ Khách hàng mục tiêu của Habubank
Đến với Habubank ngày nay, khách hàng dù là doanh nghiệp, hộ gia đình hay cá nhân đều có thể nhận được tư vấn và sử dụng các dịch vụ tài chính thích hợp nhất với chất lượng cao, đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp và nhiệt tình.
Habubank định hướng ngay từ đầu khách hàng trọng tâm là doanh nhiệp vừa và nhỏ, Habubank thấu hiểu nhu cầu và cơ hội kinh doanh mà nhiều khi là cấp thiết đối với doanh nghiệp.
Habubank tin rằng: ngân hàng chỉ được coi là lớn mạnh khi song hành cùng sự phát triển từ lúc khởi đầu cho đến khi trở thành các tập đoàn mạnh, các doanh nghiệp Sao đỏ, đóng góp vào sự nghiệp làm giàu mạnh đất nước.
Ngoài ra ngân hàng cũng đầu tư vào cải tiến các dịch vụ gửi và chuyển tiền với chi phí rẻ hơn, nhanh chóng, an toàn cho các khách hàng muốn gởi tiền chưa dùng đến hay tích luỹ cho việc chi tiêu cần thi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 65027.DOC