Đề án Một số giải pháp nhằm huy động vốn đầu tư vào phát triển nghành Dầu khí ở Việt Nam

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 1

Chương I: Khái quát chung về đầu tư và vấn đề huy động vốn đầu tư vào ngành Dầu khí Việt Nam. 3

1. Đầu tư và nguồn vốn đầu tư. 3

1.1. Đầu tư và đầu tư phát triển. 3

1.1.1. Đặc điểm của đầu tư phát triển. 4

1.1.2. Vai trò của Đầu tư phát triển. 5

1.2. Vốn và nguồn vốn. 10

1.2.1 Khái niệm về vốn. 10

1.2.2 Các nguồn vốn cơ bản: 10

2. Đặc điểm của ngành dầu khí và vấn đề huy động vốn đầu tư vào ngành dầu khí. 18

2.1. Đặc điểm của ngành dầu khí. 18

2.2. Sự cần thiết phải huy động vốn đầu tư vào ngành dầu khí ở Việt Nam. 20

Chương II: Thực trạng tình hình huy động vốn đầu tư vào ngành Dầu khí ở Việt Nam giai đoạn hiện nay. 22

1. Thực trạng huy động vốn đầu tư vào ngành dầu khí ở Việt Nam. 22

1.1. Tình hình phát triển ngành dầu khí ở Việt Nam những năm qua. 22

1.2. Quy mô và cơ cấu huy động vốn vào ngành Dầu khí ở Việt Nam. 30

1.2.1. Huy động vốn đầu tư trong nước. 30

1.2.2. Huy động vốn đầu tư nước ngoài. 32

2. Đánh giá thực trạng huy động vốn đầu tư vào ngành dầu khí ở Việt Nam thời gian qua. 35

2.1. Những kết quả đạt được. 35

2.2. Những hạn chế còn tồn tại trong vấn đề huy động vốn và phát triển ngành dầu khí ở nước ta. 37

Chương III: Một số giải pháp nhằm huy động vốn đầu tư vào phát triển nghành Dầu khí ở Việt Nam. 41

1. Định hướng phát triển ngành Dầu khí những năm tới. 41

2. Những cơ hội và thách thức trong vấn đề phát triển ngành

Dầu khí. 44

3. Những yêu cầu đặt ra để huy động vốn có hiệu quả. 47

4. Những giải pháp cơ bản để huy động vốn vào phát triển ngành Dầu khí ở Việt Nam. 48

LỜI KẾT 54

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 55

 

 

doc58 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1687 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Một số giải pháp nhằm huy động vốn đầu tư vào phát triển nghành Dầu khí ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
S (PVI) Công ty cổ phần đầu tư tài chính công đoàn Dầu khí (PVFI) Công ty cổ phần Đầu tư và Thương mại Dầu khí Sông Hồng (PVSH) Công ty cổ phần Dịch vụ - Vận tải Dầu khí Cửu Long (CGT J.S.C) Công ty cổ phần dung dịch khoan và hoá phẩm dầu khí (DMC JSC) Công ty Cổ phần kinh doanh khí hoá lỏng Miền Bắc (PVGAS NORTH) Công ty Cổ phần kinh doanh khí hoá lỏng Miền Nam (PVGAS SOUTH) Công ty Cổ phần Kinh doanh kho chứa khí hoá lỏng Vũng Tàu (PGS) Công ty cổ phần Phân đạm và Hóa chất Dầu khí (PVFCCo) Công ty cổ phần phân phối khí thấp áp (PVGAS DJSC) Công ty cổ phần Truyền thông Dầu khí (PV Media) Công ty cổ phần Tư vấn đầu tư và Thiết kế Dầu khí (Petrovietnam Engineering JSC) Công ty cổ phần xây dựng Dầu Khí Nghệ An (PVNC) Công ty cổ phần xây lắp dầu khí (PV Construction) Công ty du lịch dầu khí Phương Đông (PTC) Công ty nhựa và hoá chất Phú Mỹ (PMPC) Công ty TNHH 1 thành viên Quản lý và Khai thác tài sản Dầu (PVA) Công ty TNHH dầu khí Mê Kông (PETROMEKONG) Công ty TNHH một thành viên Chế biến và Kinh doanh sản phẩm dầu mỏ(PDC Co Ltd) Công ty TNHH một thành viên Cung ứng Nhân lực và Dịch vụ Dầu Khí (PETROMANNING) Công ty TNHH một thành viên điện lực Dầu khí Cà Mau (PVCMPC) Viện Dầu Khí Việt Nam (VPI) Công ty Cổ phần Điện lực Dầu khí Nhơn Trạch 2 (PVNT2) Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Chế biến Dầu khí (PVPro) Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển An toàn và Môi trường Dầu Khí (RDCPSE) Trung tâm thông tin tư liệu Dầu khí (PIC) Trung tâm Công nghệ thông tin, Viễn thông & Tự động hoá (PITAC) Trung tâm lưu trữ Dầu khí (PAC) Trung tâm ứng phó sự cố tràn dầu khu vực Miền Nam - (Petrovietnam NAOS) Trường đào tạo nhân lực Dầu khí (PVMTC) Ban chuẩn bị đầu tư Công trình đường ống dẫn khí Lô B - Ô Môn Ban chuẩn bị đầu tư công trình Liên hợp Lọc Hóa Dầu Nghi Sơn Ban chuẩn bị đầu tư Nhà máy lọc dầu số 3 Ban quản lý các dự án thuỷ điện Ban quản lý dự án Các công trình xây dựng phía Bắc Ban quản lý dự án các công trình xây dựng phía nam Ban quản lý dự án cụm Khí điện đạm Cà Mau (CPMB) Ban quản lý dự án Khí Điện Nhơn Trạch Ban quản lý dự án nhà máy lọc dầu Dung Quất (DQR) Ban quản lý dự án nhà số 1 & 5 Lê Duẩn Ban Quản lý Dự án Trung tâm Thương mại Dầu khí Hà Nội (PVTC) Ban trù bị thành lập Ngân hàng thương mại cổ Dầu khí (PV-Bank) Một thực tế là Việt Nam có một tiềm năng dầu khí không phải là nhỏ. Cùng với việc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, ngành dầu khí Việt Nam cũng từng bước phát triển. Từ chỗ phải nhập từng lít dầu hoả để thắp đèn, sau 34 năm thành lập, Tập đoàn dầu khí Việt Nam đã đưa ngành công nghiệp dầu khí Việt Nam phát triển tương xứng với tiềm năng của nó. Ta xem xét tình hình phát triển của ngành dầu khí Việt Nam trong những năm qua: “Ở hoạt động tìm kiếm thăm dò” với phương châm chủ yếu là phát huy nội lực, kết hợp tăng cường hợp tác quốc tế, thu hút đầu tư về khoa học và công nghệ của nước ngoài. Với mục tiêu xác định tiềm năng và gia tăng trữ lượng dầu khí, phát hiện thêm nhiều mỏ mới, đảm bảo nhu cầu về sản lượng dầu khí cho đất nước, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam đã không ngừng mở rộng khu vực tìm kiếm, thăm dò thông qua các hợp đồng phân chia sản phẩm, hợp đồng liên doanh, hợp đồng điều hành chung hoạt động tự đầu tư, tự điều hành tìm kiếm thăm dò, có nhiều phát hiện quan trọng, đưa nhanh các mỏ đã được phát hiện vào khai thác và áp dụng các công nghệ tiên tiến để nâng cao sản lượng, tăng hệ số thu hồi dầu khí, bảo vệ môi trường tài nguyên. Kết quả công tác tìm kiếm thăm dò cho đến nay đã xác định được bể trầm tích Đệ Tam có triển vọng dầu khí: Sông Hồng, Phú Khánh, Cửu Long, Nam Côn Sơn, Malay - Thổ Chu, Tư Chính – Vũng Mây, nhóm bể Trường Sa và Hoàng Sa, trong đó các bể Cửu Long, Nam Côn Sơn, Malay - Thổ Chu và Sông Hồng gồm cả đất liền (miền võng Hà Nội) đã phát hiện và đang khai thác dầu khí. Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam đã tiến hành khảo sát trên 300 nghìn km tuyến địa chấn 2D, gần 40 nghìn km2 địa chấn 3D, khoan 600 giếng tìm kiếm, thăm dò, thẩm lượng và khai thác với tổng số mét khoan trên 2.0 triệu km. Một số giếng khoan có phát hiện dầu khí quan trọng trong thời gian gần đây đã mở các quan điểm tìm kiếm thăm dò mới, gia tăng trữ lượng dầu khí, tạo ra sự quan tâm của các nhà đầu tư: phát hiên khí tại giếng Đông Quan D-1X, vùng trũng Hà Nội, phát hiện dầu tại giếng Rồng Tre 1X, lô 11-2, phát hiện dậu tại GK 16-1-TGT-1X lô 16-1 và 15-1-SN-1X lô 15-1, 15-R, 103-BAL-1X, 12E-CS-1X đảm bảo gia tăng trữ lượng 35-40 triệu tấn quy dầu/ năm. Bên cạnh việc mở rộng hoạt động thăm dò, khai thác ở trong nước, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam đã và đang triển khai thành công hoạt động tìm kiếm, thăm dò, khai thác ở nước ngoài để đánh giá tiềm năng dầu khí tổng thể của Việt Nam, quy hoạch khí tổng thể, nghiên cứu địa lý, vật lý vùng thềm lục địa Việt Nam... Tổng công ty đã triển khai một số đề án độc lập đạt kết quả tốt, khẳng định trình độ, khả năng quản lý và điều hành của mình. Như ở Inđônêxia (lô Madura I và II), Malaysia (lô PM 304, SK-305), Angiêri (lô 433a và 416b), Irắc, Mông Cổ, bước đầu mang lại những thành công đáng khích lệ như việc khai thác dầu từ Cendoz (lô PM-304 Malaysia), phát hiện mới các mỏ dầu ở Lô SK-305 (Malaysia) hay lô 433a và 416b (Angiêri. Ngoài ra, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam còn đang tích cực nghiên cứu đánh giá tìm kiếm các cơ hội đầu tư tại một số khu vực có tiềm năng ở Châu Phi, Nam Mỹ, Trung Đông, Đông Nam Á và các nước thuộc Liên Xô cũ “Ở hoạt động khai thác dầu khí” Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam hiện đang khai thác dầu khí tại 09 mỏ ở trong nước và ngoài nước : Bạch Hổ, Rồng, Đại Hùng, PM3-CAA/Cái Nước, Hồng Ngọc, Rạng Đông, Lan Tây – Lan Đỏ, Tiền Hải C, mỏ Sư Tử Đen, Rồng Đôi, Rồng Đôi Tây, Cendoz thuộc lô PM-304, Malaysia. Sản lượng khai thác trung bình của Tập đoàn Dầu khí đạt trên 350 nghìn thùng dầu thô/ngày và khoảng 18 triệu m3 khí/ngày. Tính đến hết 12/2006 đã khai thác trên 235 triệu tấn quy trong đó dầu thô đạt trên 205 triệu tấn; thu gom, vận chuyển vào bờ và cung cấp 30 tỷ m3 khí cho sản xuất điện, sản xuất đạm và các nhu cầu dân sinh khác. “Về công nghiệp khí”: được triển khai tích cực theo quy hoạch tổng thể. Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam đã và đang triển khai hàng loạt các dự án khí và điện với quy mô càng lớn, đa dạng và phức tạp, trên diện rộng nhằm không những đáp ứng nhu cầu khí cho điện mà còn đáp ứng các nhu cầu khí cho côngnghiệp hoá chất, phân bón, giao thông vận tải, vật liệu xây dựng v.v. Hai hệ thông vận chuyển khí Rạng Đông Bạch Hổ và Nam Côn Sơn vận hành ổn định, an toàn và phát huy hiệu quả, cung cấp trên 18 triệu m3 khí/ngày cho sản xuất điện, phân đạm và sản xuất công nghiệp, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng và lương thực quốc gia. Các dự án: Hệ thống đường dẫn khí Phú Mỹ Nhơn Trạch (dự kiến bắt đầu cung cấp khí vào đầu năm 2008); hệ thống đường dẫn khí PM3 – Cà Mau (dự kiến cung cấp khí vào đầu năm 2007); hệ thống đường ống dẫn khí lô B – Ô môn (dự kiến sẽ được vận hành vào năm 2009), sẽ đưa ngành công nghiệp khí Việt Nam lên một mức phát triển mới đóng góp sâu rộng hơn vào sự nghiệp hiện đại hoá công nghiệp hoá đất nước. Có thể tóm lược tình hình triển khai các dự án khí - điện trong các năm qua theo các khu vực, lĩnh vực sau: Tháng 5/1995 hệ thống vận chuyển khí Rạng Đông Bạch Hổ bắt đầu từ khí đồng hành Bạch Hổ cấp khoảng 350.000 tấn, đáp ứng khoảng 40% nhu cầu tiêu dùng trong nước.  Năm 2002, công suất của hệ thống khí Bạch Hổ một lần nữa được nâng lên khi khí đồng hành từ mỏ Rạng Đông được kết nối với hệ thống khí Bạch Hổ để đưa vào bờ sử dụng qua Đường ống Rạng Đông, Bạch Hổ với chiều dài 46.5 km và đường kính 16 inch. Công suất của hệ thống khí Bạch Hổ đạt 2 tỷ m3/năm, lượng khí đưa vào bờ sử dụng đạt từ 4 đến 5 triệu m3. Công trình trạm nén áp lực khí cung cấp cho các Nhà máy điện Phú Mỹ tại Dinh Cố, nhằm đảm bảo hệ thống hoạt động một cách hiệu quả trong điều kiện vận hành mới đã được lắp đặt và đưa vào hoạt động. Hai công trình mới này cũng còn là mốc khởi đầu của việc thu gom, vận chuyển khí từ các mỏ khác trong khu vực bể Cửu Long. Dự án đường ống Phú Mỹ, Nhơn Trạch với công suất vận chuyển 2 tỷ m3/năm đang trong giai đoạn triển khai xây dựng góp phần mở rộng thị trường tiêu thụ khí của khu vực miền Đông Nam Bộ. Cũng với việc đầu tư xây dựng các dự án trong lĩnh vực trung và hạ nguồn nêu trên, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam đang cùng đối tác nước ngoài lập kế hoạch Phát triển mỏ Emerald, Ruby, Cá Ngừ Vàng, Phương Đông thuộc bể Cửu Long, đồng thời nghiên cứu phương án thu gom khí đồng hành của mỏ dầu Sư Tử Đen, Vàng, Nâu, Trắng .v.v. nhằm duy trì sản lượng đưa khí vào bờ khi khả năng cung cấp khí của mỏ Bạch Hổ giảm xuống. Hệ thống khí Nam Côn Sơn chính thức được triển khai ngày 15/12/2000 khi dự án được cấp giấy phép đầu tư. Dự án khí Nam Côn Sơn bao gồm các hạng mục công trình như sau: Phát triển lô 06.1 tại mỏ Lan Tây, Lan Đỏ có công suất khai thác 10.048.000 m3 khí/ngày đêm đã được cải hoán nâng công suất khai thác lên tới 15 triệu m3 / ngày đêm; Đường ống dẫn khí ngoài khơi dài 362km, đường khính 26 inch, công suất vận chuyển tối đa đạt 7 tỷ m3/năm; Trạm tiếp nhận xử lý khí tại Dinh Cố có công suất xử lý khí trong giai đoạn 1 là 10.048.000 m3 khí / ngày đêm đã được cải hoán công suất lên 15 triệu m3/ngày đêm và đang mở rộng dây chuyền 2 để nâng công suất tổng cồng lên 20 triệu m3/ngày đêm; Tuyến đường ống dẫn khí trên bờ với tổng chiều dài 38km, với 2 đoạn: khí cao áp từ Long Hải tới Dinh Cố có đường kính 26 inch, dài 9km và đoạn vận chuyển khí thành phẩm từ Dinh Cố tới Phú Mỹ với đường kính 30 inch, dài 29km; Trung tâm phân phối khí Phú Mỹ. Như vậy, cùng với hệ thống khí Bạch Hổ, sự hình thành hệ thống khí Nam Côn Sơn đang trở thành cột sống của nền công nghiệp khí Việt Nam, đóng góp đáng kể cho ngân sách Nhà nước, hứa hẹn đảm bảo khả năng cung cấp khí lên tới 6-10 tỷ m3/năm trong các năm 2006-2010 tại khu vực miền Đông Nam Bộ. Các kết quả thăm dò khả quan ở thềm lục địa phía Nam và Tây Nam Bộ của Việt Nam cũng như tại các khu vực chống lấn giữa Việt Nam và Malaysia, đã cho phép Tập đoàn Dầu khí đầu tư và xây dựng các kế hoạch phát triển khu công nghiệp Khí - Điện - Đạm Cà Mau. Dự án đường ống dẫn khí PM3-Cà Mau dài 328km đường kính 18” có công suất vận chuyển 2 tỷ m3/năm và nhà máy điện Cà Mau I công suất 750 KW sẽ được đưa vào khai thác sử dụng vào năm 2007 và nhà máy điện Cà Mau II có công suất tương tự như Cà Mau I vào năm 2008. Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam cùng nhà thầu Chevron đang triển khai phát triển lô B, 52/97, 48/95. Dự kiến sẽ xây dựng tuyến đường ống dẫn khí nồi từ khu mỏ này đến Ô Môn và Cà Mau, đây sẽ là tuyến ống huyết mạch có thể dùng để kết nối mạng Đông Tây và Đường ống xuyên các nước Đông Nam Á. Về lĩnh vực chế biến lọc hoá dầu: Một loạt dự án chế biến dầu khí quan trọng đã và đang được Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam triển khai tích cực. Nhà máy sản xuất phân đạm Phú Mỹ - một trong những dự án hoá khí đầu tiên của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam trong lĩnh vực hạ nguồn – đã đi vào hoạt động chính thức từ đầu tháng 9/2004 cung cấp phân bón phục vụ nông nghiệp của đất nước. Dự án nhà máy lọc dầu Dung Quất – Quảng Ngãi có công suất 6.5 triệu tấn/năm đang trong giai đoạn xây dựng. Dự án Liên hợp lọc hoá dầu Nghi Sơn – Thanh Hoá đang trong giai đoạn lựa chọn đối tác tham gia. Dự án nhà máy lọc dầu phía Nam đang xúc tiến triển khai kêu gọi đầu tư. Dự án nhà máy sản xuất phân đạm Cà Mau (trong cụm Khí Điện - Đạm Cà Mau) đang trong giai đoạn lựa chọn nhà thầu EPC. Những công trình này sau khi xây dựng xong sẽ đáp ứng cơ bản nhu cầu của thị trường nội địa về sản phẩm lọc, hoá dầu và phục vụ cho xuất khẩu. Cùng với sự phát triển của công nghiệp lọc hoá dầu, các ngành công nghiệp khác, đặc biệt là hoá dầu cũng phát triển. Trước mắt là ngành công nghiệp sử dụng khí thiên nhiên và khí đồng hành. Ngoài việc sử dụng cho sản xuất điện và các nhu cầu nhiên, nguyên liệu trong sinh hoạt và công nghiệp, khí thiên nhiên sẽ là nguồn nguyên liệu rất quý giá để sản xuất methanol, ethylen làm nguyên liệu sản xuất các sản phẩm hoá dầu và amoniac để sản xuất phân đạm. Công nghiệp hoá dầu là một ngành công nghiệp rất mới đang được hình thành ở Việt Nam. Để đáp ứng nhu cầu thị trường và từng bước xây dựng ngành công nghiệp dầu khí hoàn chỉnh, hiện đại, phục vụ công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam chủ chương phát triển ngành công nghiệp hoá dầu theo hướng đi từ việc nhập monomer từ nước ngoài về để sản xuất các sản phẩm hoá dầu trong giai đoạn đầu, sau đó tiến tới sử dụng nguyên liệu sản xuất trong nước qua việc hình thành và phát triển các tổ hợp hoá dầu trên cơ sở nguyên liệu từ dầu và khí, tạo thành một chu trình khép kín từ khâu lọc dầu đến khâu hoá dầu. Tập đoàn Dầu khí đã và đang triển khai các dự án hoá dầu sau:  Các dự án đã đi vào hoạt động: Dự án sản xuất nhựa PVC công suất 100.000 tấn/năm. Liên doanh giữa Petrovietnam (43%), Petronas (50%) và Tramatsuco (7%) đã chính thức đi vào hoạt động từ tháng 1/2003. Hiện nay, Petrovietnam đang đàm phán bán phần góp vốn của Petrovietnam cho công ty Thai Plastic & Chemicals (Thái Lan). Dự án sản xuất DOP, công suất 30.000 tấn/năm, liên doanh giữa Petrovietnam (15%), LG và tổng công ty Hoá chất Việt Nam đã đi vào sản xuất từ tháng 1/1997. Dự án nhà máy sản xuất phân đạm Phú Mỹ công suất 740.000 tấn urê/năm đã chính thức đi vào hoạt động từ tháng9/2004, đáp ứng khoảng 30% nhu cầu phân đạm trong nước, góp phần bình ổn thị trường, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia. Các dự án đang triển khai: Dự án Nhà máy sản xuất phân đạm Cà Mau công suất 800.000 tấn/năm, hiện đang trong giai đoạn đấu thầu EPC. Dự kiến đưa vào hoạt động cuối năm 2010. Dự án Polypropylene, công suất 150.000 tấn/năm (tại Dung Quất). Dự án đầu tư hiệu chỉnh đã được phê duyệt, hiện đang đầu thầu EPC, với mục tiêu năm 2009 Nhà máy sẽ đi vào vận hành. Dự án Tổ hợp hoá dầu miền Nam: Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam đang cùng với Tập đoàn Sian Cement, Công ty Thai Platisc và Tổng công ty Hoá chất đang triển khai lập dự án đầu tư và chuẩn bị thành lập Công ty liên doanh. Một số dự án khác đang trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư: LAB (nguyên liệu sản xuất chất tây rửa tổng hợp), PET (sơ sợi tổng hợp), Nhựa đường, sản xuất dung môi. 1.2. Quy mô và cơ cấu huy động vốn vào ngành Dầu khí ở Việt Nam. 1.2.1. Huy động vốn đầu tư trong nước. Nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn với số lượng lớn, đồng thời khắc phục những hạn chế của các kênh huy động vốn truyền thống, trong những năm gần đây, các doanh nghiệp bắt đầu triển khai và thúc đẩy các kênh huy động vốn mới với tính chủ động cao. Một trong những hình thức huy động vốn tốt nhất được Chính phủ cũng như các doanh nghiệp sử dụng là hình thức phát hành trái phiếu. Thông qua hình thức này, doanh nghiệp không những tạo tính chủ động, linh hoạt trong việc sử dụng các nguồn vốn mà còn tạo ra một danh mục đầu tư hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Trong giai đoạn 2005-2010 với chiến lược phát triển Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PetroVietnam) thành một tập đoàn kinh tế mạnh, hoạt động đa ngành đa lĩnh vực và thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế thành công, ước tính nhu cầu vốn cho phát triển ngành Dầu khí lên tới hàng chục tỷ USD. Một phần lớn nguồn vốn này được giao cho Tổng Công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam (PVFC) thu xếp qua các kênh huy động vốn, trong đó bao gồm phát hành trái phiếu của PetroVietnam và PVFC. Với vai trò là một định chế tài chính của PetroVietnam, các hoạt động kinh doanh của PVFC như tín dụng, đầu tư, đặc biệt đối với các dự án dầu khí, năng lượng luôn đòi hỏi nguồn vốn dài hạn, ổn định. Khi quy mô hoạt động của PVFC ngày càng phát triển thì việc cải thiện cơ cấu nguồn vốn theo hướng tăng tỷ trọng nguồn vốn trung, dài hạn một cách ổn định là một yêu cầu cấp thiết. Với chiến lược dài hạn từ nay đến 2015 và kế hoạch hoạt động kinh doanh năm 2008 đã được PVFC đề ra ngay từ đầu năm, với mục tiêu cấu trúc nguồn vốn của PVFC theo hướng bền vững, tăng dần tỷ trọng vốn trung dài hạn trong tổng nguồn vốn thì việc tăng cường huy động vốn trung dài hạn thông qua các hình thức huy động vốn trực tiếp và phát hành trái phiếu của PVFC là rất cần thiết. PVFC bắt đầu triển khai phát hành trái phiếu Tài chính Dầu khí từ năm 2006, từ đó thực hiện định kỳ hàng năm. Đến nay, PVFC phát hành được 3.290,6 tỷ đồng (quy đổi). Năm 2008, PVFC phát hành Trái phiếu Tài chính Dầu khí 2008 với tổng mệnh giá là 1.600 tỷ đồng (quy đổi); thời hạn trái phiếu là 3 năm; phát hành theo hình thức ghi sổ; lãi suất năm đầu đối với VND là 17,5%/năm, USD là 6,2%/năm; lãi suất từ năm thứ 2 được xác định bằng bình quân lãi suất huy động tiết kiệm 12 tháng lãi trả cuối kỳ (VND hoặc USD tương ứng) của 4 ngân hàng (VCB, BIDV, Vietinbank, Agribank) + 0,3%/năm. Trái phiếu Tài chính Dầu khí 2008 có tính thanh khoản cao, được cầm cố, chiết khấu để vay vốn tại PVFC hoặc các tổ chức tín dụng khác và được tự do chuyển nhượng dưới các hình thức mua, bán, cho, tặng, thừa kế. Cùng với kinh nghiệm phát hành và khả năng quản lý, sử dụng vốn hiệu quả từ việc phát hành trái phiếu nhiều năm qua của PVFC, Trái phiếu Tài chính Dầu khí 2008 đã được các nhà đầu tư tin tưởng, gửi gắm vốn đầu tư của mình. Chắc chắn rằng, cùng với bước tiến phát triển vững chắc và nhanh chóng của PVFC, Trái phiếu Tài chính Dầu khí sẽ khẳng định vị trí của mình trên thị trường tài chính tiền tệ. Đây cũng là một hình thức huy động vốn điển hình để các doanh nghiệp Việt Nam cùng học tập và phát huy trong bối cảnh thị trường nguồn vốn trong nước gặp nhiều khó khăn như hiện nay. 1.2.2. Huy động vốn đầu tư nước ngoài. Theo thống kê thì năm 2006 Đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép năm 2006 phân theo ngành kinh tế vào ngành dầu khí tăng khá nhanh 8 dự án với tổng vốn đăng kí lên tới 144.3 triệu $. Số dự án Tổng vốn đăng kí Vốn cấp mới Vốn tăng thêm Đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép năm 2006 phân theo ngành kinh tế 8 144.3 118.6 25.7 (Niên giám thống kê 2006) Tính từ năm 1989-2006 cả nước có 15 dự án từ nguồn vốn FDI trong đó bên Việt Nam góp số vốn cũng tương đương với bên ngước ngoài. Số dự án Tổng số vốn đăng kí Tổng vốn điều lệ Nước ngoài góp Việt Nam góp Đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép năm 1989-2006 phân theo ngành kinh tế 15 379 376.3 210.8 168.5 ( Đơn vị: Triệu $) (Niên giám thống kê 2006) Nhiều tập đoàn dầu khí lớn đang có kế hoạch đầu tư và mở rộng hoạt động tại Việt Nam. Ngoài số hợp đồng thăm dò khai thác được Tổng công ty Dầu khí Việt Nam (PetroVietnam) ký với các nhà thầu nước ngoài từ đầu năm đến nay, hai tập đoàn dầu khí lớn nhất đang hoạt động tại Việt Nam là BP và ConocoPhillips cũng đang xúc tiến các kế hoạch mở rộng hoạt động.  Tổng giám đốc BP Việt Nam, nói với báo giới rằng BP muốn tiếp tục hợp tác chặt chẽ với Chính phủ Việt Nam để có thể triển khai hiệu quả một số dự án mới và mở rộng các dự án hiện hữu trong 10 năm tới. BP tính toán họ và các đối tác sẽ cần khoảng 2 tỉ Đôla Mỹ, trong đó phần đầu tư của BP ước tính sẽ chiếm khoảng 1 tỉ Đôla. Nguồn vốn này sẽ được đầu tư vào việc nâng công suất khai thác mỏ khí Lan Tây & Lan Đỏ (lô 6.1), phát triển thêm mỏ khí Hải Thạch & Mộc Tinh (lô 5.2 và 5.3) và xây dựng một nhà máy điện tiêu thụ khí tại Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Hiện tại BP đang là nhà thầu điều hành dự án khí Nam Côn Sơn, có tổng vốn đầu tư 1,3 tỉ Đôla, và nắm 35% cổ phần khai thác tại lô 6.1 của dự án này. Lô 6.1 hiện có công suất khai thác là 3 tỉ mét khối khí/năm. Tổng giám đốc BP cho biết BP đang có kế hoạch đầu tư mở rộng giàn khoan khai thác để nâng công suất khai thác của lô 6.1 thêm 50% so với công suất thiết kế ban đầu vào giữa năm sau, nhằm tăng sản lượng cung cấp khí thiên nhiên cho các nhà máy điện vào năm 2010. Các đối tác đầu tư của BP tại lô 6.1 là ONGC (Ấn Độ) với 45% cổ phần và PetroVietnam với 20% cổ phần.  Ngoài ra, công ty cũng đang trong quá trình thảo luận để sớm triển khai dự án phát triển lô 5.2 và 5.3, nằm kế bên lô 6.1 với mục tiêu đưa khí vào bờ vào cuối thập kỷ này (2010). Mặc dù chưa xác định được số tiền đầu tư vào mỏ khí này nhưng BP cho biết đã đạt được sự nhất trí với các bên liên quan về lộ trình thực hiện cũng như những thỏa thuận cần được ký kết để có thể triển khai dự án.  Đầu năm 2007, BP, PetroVietnam, Tổng công ty Điện lực Việt Nam (EVN) và Bộ Công nghiệp (MOI) đã ký một biên bản hợp tác để phát triển một trung tâm điện lực tại Nhơn Trạch sử dụng khí khai thác từ lô 5.2 và 5.3. Trung tâm điện lực Nhơn Trạch dự kiến sẽ tiêu thụ 2,5 tỉ mét khối khí/năm và có công suất là 2.640 MW.  Tại đây, BP cũng có kế hoạch xây dựng một nhà máy điện với công suất gần tương đương với nhà máy điện Phú Mỹ 3 tại Bà Rịa - Vũng Tàu, để tạo thị trường tiêu thụ khí cho lô 5.2 và 5.3 Bên cạnh việc khai thác các mỏ khí và xây dựng nhà máy điện, BP cho biết họ cũng đang làm việc với các đối tác Việt Nam về khả năng đầu tư vào việc sản xuất khí hóa lỏng (LPG), một phân khúc thị trường rất có tiềm năng đối với chiến lược kinh doanh của công ty tại Việt Nam.  Tập đoàn Dầu khí ConocoPhillips (Mỹ), hiện nay đang là một trong những nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất tại Việt Nam với tổng số vốn giải ngân trong 10 năm qua đã lên tới 1 tỉ Đôla Mỹ, gần đây cũng tuyên bố trong 10 năm tới sẽ đầu tư tiếp khoảng hơn 1 tỉ Đôla cho các dự án khai thác dầu tại Việt Nam. ConocoPhillips cho biết trong năm nay, công ty sẽ đầu tư khoảng 115 triệu Đôla để phát triển lô 15.1 bao gồm các mỏ dầu Sư Tử Đen, Sư Tử Trắng, Sư Tử Vàng và Sư Tử Nâu. Hiện tại mỏ Sư Tử Đen có công suất khai thác 70.000 thùng dầu/ngày và là mỏ dầu có công suất khai thác lớn thứ ba tại Việt Nam. Tại Việt Nam, ConocoPhillips nắm giữ 23,25% cổ phần khai thác tại lô 15.1; 36% tại lô 15.2; 70% tại lô 133 và 134; 50% tại lô 5.3 và 16,33% tại dự án đường ống dẫn khí Nam Côn Sơn.  Đại diện của ConocoPhillips tại Việt Nam cho biết khoản đầu tư trong 10 năm tới của tập đoàn này tại Việt Nam sẽ tập trung vào các dự án phát triển mỏ mà công ty có cổ phần khai thác. Như vậy riêng vốn của hai tập đoàn dầu khí lớn là BP và ConocoPhillips đầu tư vào Việt Nam trong lĩnh vực dầu khí dự tính sẽ đạt hơn 2 tỉ Đôla trong vòng 10 năm tới. Các chuyên gia kinh tế nước ngoài dự báo đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam trong lĩnh vực dầu khí, một lĩnh vực sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài hơn cả, sẽ tiếp tục tăng mạnh trong những năm tới. Doanh thu từ ngành này hiện đang chiếm trên 25% tổng thu ngân sách của Việt Nam. Hiện tại có khoảng 29 hợp đồng dầu khí đang có hiệu lực tại Việt Nam, bao gồm ba hợp đồng mới được ký kết cho bốn lô thuộc bể Phú Khánh trong nửa đầu năm nay, với sự góp mặt của hầu hết các tập đoàn dầu khí đứng đầu trên thế giới. PetroVietnam cho biết trong thời gian tới sẽ tiếp tục ký kết các hợp đồng đang mời thầu còn lại với các công ty nước ngoài. Như vậy: Nguồn vốn huy động được vào ngành dầu khí ở Việt Nam trong thời gian qua là những con số không nhỏ, từ đó đã mang lại những kết quả khả quan trong ngành công nghiệp nói chung và ngành công nghiệp dầu khí nói riêng. Song ngành dầu khí như ta đã thấy đặc điểm của công nghiệp dầu khí là cần vốn lớn, chịu nhiều rủi ro, hơn nữa Dầu khí còn là ngành công nghiệp mũi nhọn của Việt Nam và tiềm năng vốn có của thiên nhiên ban tặng. Việt Nam trong thế kỷ 21 này cần có nhiều biện pháp để huy động vốn vào ngành dầu khí. 2. Đánh giá thực trạng huy động vốn đầu tư vào ngành dầu khí ở Việt Nam thời gian qua. 2.1. Những kết quả đạt được. Như vậy. bằng những nỗ lực không nhỏ để huy động vốn đầu tư vào ngành Dầu khí và nhờ tiếp xúc thường xuyên với các đối tác nước ngoài, công tác đào tạo cán bộ rất cần được coi trọng, nên PetroVietnam có thể nói là đơn vị kinh tế hội nhập khá thuận lợi vào ngành dầu khí thế giới. Trong nhiều năm liên tục công tác tài chính kế toán luôn đạt được những kết quả cao nhờ hoạt động sản xuất kinh doanh luôn phát triển vượt mức kế hoạch đề ra. Theo báo cáo giữa nhiệm kỳ của Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam (PV), từ năm 2006 đến 2008, PV đã duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế, trong đó các mặt thăm dò tìm kiếm dầu khí đã phát hiện thêm 11 phát hiện dầu khí mới, ký 33 hợp đồng dầu khí trong nước và nước ngoài. Về khai thác đưa thêm 7 mỏ vào khai thác mới, tổng sản lượng đạt 69,82 triệu tấn quy dầu. Về công nghiệp khí điện hoàn thành đưa vào vận hành đường ống dẫn khí PM3 Cà Mau, Phú Mỹ- Nhơn Trạch, điện Cà Mau 1-2, Nhơn Trạch… Công nghiệp chế biến dầu khí đạm Phú Mỹ vận hành ổn định, cung cấp 35% nhu cầu đạm cho sản xuất trong nước, đạt 45% kế hoạch 5 năm 2006-2010. Lĩnh vực dịch vụ dầu khí như dịch vụ kỹ thuật, khoan, xây lắp, tài chính, bảo hiểm tốc độ tăng trưởng trên 20% năm đạt mục tiêu đề ra. Doanh thu của tập đoàn năm 2006-2008 đạt 689 ngàn tỷ đồng, bằng 134% kế hoạch 5 năm 2006-2010. Xuất khẩu PV đạt 29 tỷ USD. Thời báo Tài Chính Việt Nam, 6/11/2008, Thế Hùng Petrovietnam không hoàn thành kế hoạch khai thác dầu khí. Thời tiết xấu, thị trường vật tư tăng cao, trạng thái khai thác ở một số mỏ phức tạp… là nguyên nhân khiến Petrovietnam không ho

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA6379.DOC
Tài liệu liên quan