MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG
1. Cơ sở lý thuyết về đầu tư - đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1. Đầu tư
1.1.1. Khái niệm đầu tư
1.1.2. Đặc trưng cơ bản đầu tư
1.2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.2.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.2.2. Đặc điểm đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.2.3. Các loại hình đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.3. Một số lý thuyết về đầu tư thương mại quốc tế
2. Chính sách Nhà nước với vấn đề đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam
2.1. Tính tất yếu đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam
2.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước trong Luật đầu tư nước ngoài
3. Kinh nghiệm ở một số nước trên thế giới trong vấn đề thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
3.1. Ở Philipin
3.2. Ở Trung Quốc
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG THU HÚT NGUỒN VỐN ĐẦU TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM
1. Tình hình thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam từ năm 1998 đến nay
1.1. Thời kỳ 1988 - 1990
1.2. Thời kỳ 1991 - 1996
1.3. Thời kỳ 1997 đến nay
2. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát triển nền kinh tế - xã hội ở Việt Nam
3. Những tồn tại và hạn chế trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
3.1. Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý
3.2. Nguồn thu hút vốn hẹp
3.3. Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài chưa hoàn thiện
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THU HÚT NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
1. Những mục tiêu hướng tới trong năm tiếp theo của Việt Nam
2. Những giải pháp cơ bản nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
2.1. Sửa đổi luật đầu tư nước ngoài
2.2. Tăng cường quản lý vĩ mô Nhà nước
2.2.1. Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước
2.2.2. Ổn định chính sách tiền tệ tín dụng đáp ứng yêu cầu thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
2.2.4. Phát triển cơ sở hạ tầng
2.3. Thực hiện các chính sách khuyến khích nhà đầu tư
2.3.1. Khuyến khích đầu tư của các Công ty đa quốc gia, Công ty xuyên quốc gia
2.3.2. Tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh
2.3.3. Đổi mới hoạt động vận động, xúc tiến đầu tư
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
38 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1775 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Một số giải pháp nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệt Nam được đánh giá là có độ hấp dẫn cao, phù hợp với thônglệ quốc tế. Hiện nay, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đang được tiếp tục điều chỉnh bổ xung cho phù hợp với thực tiễn điều kiện ở Việt Nam.
3. Kinh nghiệm ở một số nước trên thế giới trong vấn đề thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Nhìn vào lịch sử phát triển của các nước trên thế giới, ta thấy hầu như các nước khi bước vào công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước đều phải trải qua một giai đoạn chuẩn bị nhằm tạo tiền đề và cơ sở cho các bước tiếp theo. Trong giai đoạn này phải chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cần thiết, đặc biệt là vốn cho quá trình đó. Một trong các cách thức tạo vốn của các nước là theo con đường hướng ngoại. Bằng cách đưa ra các giải pháp thu hú vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
ở phần này, em xin trình bày kinh nghiệm của một số nước Châu á trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
3.1. Philippin.
3.1.1. Về chính sách thuế.
Để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, Nhà nước Philippin đã đưa ra chính sách thuế ưu đãi. Đặc biệt từ năm 1991, với luật đầu tư mới đã quy định: miễn thuế thu nhập Công ty 6 năm kể từ khi có lãi đối với Công ty tiên phong, 4 năm đối với Công ty không tiên phong. Miễn thuế nhập khẩu phụ tùng, thiết bị bộ phận rời đi theo cùng với việc miễn thuế nhập khẩu đối với máy móc thiết bị mua bằng vốn đầu tư. Ngay cả chi phí lao động cũng có thể được khấu trừ vào lợi nhuận chịu thuế của xí nghiệp.
Các khu vực kinh tế chủ quyền Philippin và các xí nghiệp phân bổ trong khu chế biến xuấ khẩu còn được hưởng những quyền lợi ưu đãi về thuế như sau:
- Thuế ưu đãi trao đổi, quyền lợi hàng hoá đặc biệt trong khu vực
- Miễn thuế giấy phép kinh doanh địa phương
- Miễn đánh thuế chuyển lợi nhuận giữa các chi nhánh.
Ngoài ra theo đề nghị của uỷ ban đầu tư, văn phòng nhập cư của Philippin giảm cước phí chế bản giấy tờ cho các nhà kinh doanh nước ngoài xuất nhập cảnh Philippin.
3.1.2. Ban hành các luật thu hút FDI
Nhằm khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài, Chính phủ ban hành hàng loạt các bộ luật ưu đãi đầu tư nước ngoài khuyến khích đầu tư RA 5186, luật khuyến khích xuấ khẩu RA 6135, luật điều chỉnh các công việc kinh doanh nước ngoài RA 5455
Năm 1994, Chính phủ ban hành luật tự do hoá gia nhập thị trường của các Ngân hàng nước ngoài.
Dưới sự ảnh hưởng của luật này, khoản vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài liên quan tới 10 Ngân hàng đạt tới 57,3 tỷ Peso từ năm 1995 đến thành 6 năm 1996.
Năm 1995, Chính phủ lại ban hành luật đặc khu kinh tế Special Economic zone Act cho phép thành lập các khu vực kinh tế chủ quyền của Philippin PEZA.
Với các chính sách trên, Philippin đã thu hút một nguồn vốn FDI ngày càng nhiều, đặc biệt từ thập kỷ 90 trở lại đây, góp phần rất lớn cho sự phát triển đất nước.
3.2. Trung Quốc.
Trung Quốc được coi là một trong những nước có tốc độ phát triển mạnh nhất khu vực Châu á cũng như toàn thế giới. Từ năm 1979 đến năm 1996, Trung Quốc đã phê chuẩn 283793 dự án này dùng vốn nước ngoài với tổng số vốn ký kết là 469,33 tỷ USD.
Từ năm 1993 đến nay, Trung Quốc chỉ đứng thứ hai sau Hoa Kỳ xét về khối lượng thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Có được kết quả đó là nhờ vào cơ chế chính sách hợp lý của Nhà nước, cụ thể là:
3.2.1. Cải cách tài chính
Từ 01/12/1996, việc Trung Quốc thực hiện chuyển đổi đồng nhân dân tệ trong tài khoản vãng lai đã giúp các xí nghiệp dùng vốn nước ngoài loại trừ được hạn chế trong thanh toán quốc tế. Bên cạnh đó, các liên doanh hoạt động trong lĩnh vực thương mại cũng được phép thành lập các cơ sở kinh doanh ở Phú Đông - Thượng Hải và ở các khu Thâm Quyến trên nguyên tắc thử nghiệm.
3.2.2. Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư.
Từ ngày 01/01/1997, Thâm Quyến đã áp dụng các mức giá dịch vụ thống nhất khiến các xí nghiệp dùng vốn nước ngoài cùng nhân viên của họ được hưởng mọi quy chế như các doanh nghiệp Trung Quốc. Sự cải thiện môi trường đầu tư còn được biểu hiện ở chủ trương tăng hiệu quả làm việc của các cấp chính quyền địa phương thông qua đơn giản hoá thủ tục phê chuẩn dự án, phục vụ tốt hơn các nhà đầu tư dùng vốn nước ngoài.
3.2.3. Thực hiện điều chỉnh thuế quan.
Từ ngày 01/4/1996, Trung Quốc đã xoá bỏ các điều khoản miễn giảm thuế nhập khẩu thiết bị và nguyên vật liệu cho các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các xí nghiệp ở các đặc khu kinh tế. Ngày 01/01/1998, Trung Quốc đã quyết định miễn thuế hải quan và thuế giá trị gia tăng cho việc nhập khẩu và các thiết bị phục vụ sản xuất, đồng thời công bố chỉ dẫn đầu tư nước ngoài vào các ngành, trong đó các lĩnh vực được khuyến khích là: nông nghiệp, các vật liệu xây dựng mới, dịch vụ.
Trên đây là một số chính sách nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, ở vài nước trong kiến tạo nguồn vốn cho mình qua đó. Đây cũng là một số học hỏi kinh nghiệm đối với Việt Nam trên con đường phát triển với nét đặc thù riêng có của mình, để thực hiện thành công công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Chương II: Thực trạng thu hút nguồn vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam
1. Tình hình thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam từ năm 1998 đến nay.
Kể từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới nền kinh tế đến nay, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn như: tốc độ tăng trưởng kinh tế liên tục cao và ổn định trong nhiều năm.
Một trong những nguyên nhân thành tựu đó là chủ trương mới của Đảng về hoạt động kinh tế đối ngoại. Trong đó có hoạt động thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam.
Qua hơn mười năm, kể từ khi có luật đầu tư nước ngoài vào Việt Nam (12/1987), nước ta đã thu hút nguồn vốn FDI qua các năm như sau:
Biểu 1: Tổng vốn đăng ký FDI từ năm 1988 đến năm 2000
Vốn đăng ký (Triệu USD
Năm
Đơn vị tính: Triệu USD
Nguồn: Đoàn Thị Hồng Vân 0 13 năm thu hút đầu tư nước ngoài thành tựu và những điều trăn trở - Tạp chí phát triển kinh tế số 128/2001 - trang 7.
Số dự án
Biểu 2: Số dự án FDI được cấp giấy phép 1989 - 2000
Nguồn: Đoàn Thị Hồng Vân 0 13 năm thu hút đầu tư nước ngoài thành tựu và những điều trăn trở - Tạp chí phát triển kinh tế số 128/2001 - trang 7
Từ số liệu trên, quá trình thu hút vốn đầu tư Fdi vào Việt Nam được chia làm 3 thời kỳ:
1.1. Thời kỳ 1988 - 1990.
Đây được coi là thời kỳ khởi động cho quá trình thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Năm 1988, năm đầu tiên thực hiện luật đầu tư nước ngoài, chúng ta đã cấp giấy phép đầu tư cho 37 dự án, với tống số vốn đăng ký là 366 triệu USD. Kết quả đó tuy nhỏ nhưng có ý nghĩa quan trọng đối với nước ta khi vừa bước sang nền kinh tế thị trường.
Nó đánh dấu sự thành công ban đầu của công cuộc đổi mới, mở cửa nền kinh tế, thực hiện và phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.
Cho đến năm 1990, sau 30 năm thực hiện luật đầu tư nước ngoài, chúng ta đã cấp giấy phép cho 213 dự án với số vốn đăng ký 1582 triệu USD, quy mô trung bình của mỗi dự án là 7 triệu USD, dự án. Lĩnh vực đầu tư chủ yếu trong thời kỳ này là thăm dò dầu khí 32,2% khách sạn 20,6%, tổng vốn đăng ký. Ta nhận thấy rõ, việc gia tăng vốn đầu tư chậm là vì đây là một lĩnh vực còn mới mẻ, chúng ta vừa học, vừa làm, kinh nghiệm chưa nhiều.
Tuy nhiên, những kết quả đó đã chứng minh triển vọng lạc quan của hoạt động đầu tư nước ngoài trong thời kỳ này.
1.2. Thời kỳ 1991 - 1996.
Trong thời kỳ này, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam tăng trưởng một cách nhanh chóng và có sự thay đổi lớn về chất. Tính từ năm 1991 đến 1996, chúng ta đã cấp 1768 số dự án với vốn đăng ký 25309 triệu USD trong đó nổi bật nhất về số dự án là năm 1995 đã cấo 412 dự án nhưng năm 1996 là năm có số vốn đăng ký là 8640 triệu USD chiếm 34,13% tổng vốn đăng ký trong kỳ này.
Đồng thời quy mô mỗi dự án tăng lên qua các năm.
Biểu 3: Quy mô dự án từ năm 1991 - 1996
Đơn vị tính: Triệu USD/dự án
Năm
1991
1992
1993
1994
1995
1996
Quy mô bình quân dự án
8,7
10,4
9,7
11,0
16,1
23,5
Nguồn: Đoàn Thị Hồng Vân - 13 năm thu hút đầu tư nước ngoài thành tựu và những điều trăn trở - Tạp chí kinh tế kinh tế số 128/2001 - trang 7
Biểu 4: Mức vốn thực hiện từ năm 1991 - 1996
Đơn vị tính: Triệu USD/dự án
Năm
1991
1992
1993
1994
1995
1996
Vốn thực hiện
213
394
1099
1946
2671
2646
Nguồn: Đoàn Thị Hồng Vân - 13 năm thu hút đầu tư nước ngoài thành tựu và những điều trăn trở - Tạp chí kinh tế kinh tế số 128/2001 - trang 7
Thời kỳ này, các dự án đầu tư nước ngoài được phân bố rộng rãi trong nhiều lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Nhiều ngành ngành công nghiệp mới xuất hiện như: công nghiệp điện tử, công nghệ sinh học, chế tạo xe máy, ô tô.v.v....
1.3. Thời kỳ 1997 đến nay.
Thời kỳ này, tốc độc thu hút vốn đầu tư nước ngoài có dấu hiệu chững lại và giảm dần.
Qua biểu 2 cho thấy, năm 1998 cấp được ít nhất trong kỳ này là 275 dự án năm 1999 là năm có số vốn đăng ký là ít nhất trong kỳ là 1566 triệu USD.
Đồng thời mức thực hiện vốn và quy mô dự án giảm rõ rệt qua từng năm.
Biểu 5: Mức vốn thực hiện và quy mô mỗi dự án từ 1997 - 2000
Đơn vị tính: triệu USD
Năm
1997
1998
1999
2000
Mức vốn thực hiện
3250
19000
1519
2228
Quy mô mỗi dự án
13,6
13,1
5,1
5,7
Nguồn: Đoàn Thị Hồng Vân - 13 năm thu hút đầu tư nước ngoài thành tựu và những điều trăn trở - Tạp chí phát triển kinh tế số 128/2001 - trang 7.
Giải thích cho sự giảm sút này trong thời kỳ 1997 - 2000 là do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực từ giữa năm 1997 đã lan nhanh và rộng khắp. Phần lớn, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là thu hút từ các nhà đầu tư trong khu vực, nên khi xảy ra khủng hoảng các nhà đầu tư trong khu vực gặp khó khăn về tài chính. Do đó họ giảm việc đầu tư ra nước ngoài dẫn đễn lượng vốn vào Việt Nam giảm. Nhưng sang năm 2000, tình hình có khả quan hơn, số vốn và số dự án tăng lên: số dự án tăng 11%, số vốn đăng ký tăng 26%, có được kết quả phục hồi này, một phần là nhờ vào tác động tích cực của các giải pháp hoàn thiện môi trường đầu tư nước ngoài của Việt Nam trong thời gian gần đây.
2. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát triển nền kinh tế - xã hội ở Việt Nam.
Nhìn chung, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoìa ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Cụ thể được biểu thị bảng dưới đây:
Biểu 6: Vốn FDI trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội năm 1995 - 2001
Năm
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
Vốn FDI (tỷ đồng)
22.000
22.700
30.300
24.300
18.900
20.800
34.500
Tổng vốn toàn xã hội
(tỷ đồng)
68.048
79.367
96.870
97.336
103.900
124.000
143.840
Tỷ trọng FDI trong tổng vốn toàn xã hội (%)
32,3
28,6
31,3
24,9
18,2
16,8
24
Nguồn: Nguyễn Trọng Hà - Đánh giá tác động của FDI đến ngoại thương Việt Nam - Tạp chí kinh tế và phát triển - số 62 tháng 8/2002 - trang 28
Tính chung trong tháng 7 từ năm 1995 - 2001 thì vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đóng góp khoảng 25% trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Mặc dù có sự suy giảm trong năm 1999 và năm 2000, thế nhưng trong năm 2001, Fdi đã phục hồi nhanh chóng và có lượng vốn Fdi vào Việt Nam lớn nhất từ trước đến nay số dự án được cấp là 172 triệu dự án với tổng vốn đăng ký là 300 triệu USD.
Ngoài ra, tỷ lệ đóng góp của khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài trong GDP tăng dần qua các năm.
Biểu 7: Tỷ lệ đóng góp GDP của các thành phần kinh tế có vốn FDI
Tỷ lệ
Đơn vị tính: %
Năm
Nguồn: Đoàn Thị Hồng Vân - 13 năm thu hút đầu tư nước ngoài thành tựu và những điều trăn trở - Tạp chí phát triển kinh tế - Số 128/2001 - trang 7.
Như vậy, việc gia tăng nguồn vốn FDI có trong GDP đã thúc đẩy tốc độ tăng trưởng qua các năm, làm ổn định nền kinh tế, điều đó càng khẳng định vai trò FDI trong nền kinh tế quốc dân.
Cho đến thời điểm này, có thể khẳng định chủ trương hợp tác thông qua thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài của nước ta thực sự đã đi vào cuộc sống. Nguồn vốn FDI góp phần quan trọng trong việc tạo việc làm cho người lao động.
Theo báo cáo của Bộ kế hoạch và Đầu tư, số lao động làm việc trong khu vực này liên tục tăng qua các năm.
Biểu 8: Số lao động làm việc trong khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài từ năm 1996 - 2000
Năm
1996
1997
1998
1999
2000
Số lao động
220.000
250.000
270.000
296.000
327.000
Nguồn: Lê Hồng Yến - Hoàn thiện công tác quản lý Nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài - Tạp chí kinh tế và phát triển số 59 tháng 5/2002 - trang 30.
Để đánh giá chính xác hơn về vai trò của nguồn vốn FDI trong tạo việc làm người ta đưa ra chỉ tiêu lao động gián tiếp, những người không trực tiếp hưởng lương từ các chủ đầu tư nước ngoài, nhưng làm việc trong các đơn vị hình thành do các tác động của vốn FDI là khoảng 1 trieuẹ lao động gián tiếp (bao gồm công nhân xây dựng, các ngành sản xuất dịch vụ phụ trợ có liên quan). Như vậy số lao động làm việc trong các bộ phận có liên quan đến hoạt động của các dự án đầu tư nước ngoài bằng khoảng 39% tổng số lao động bình quân hàng năm trong khu vực Nhà nước. Đây là kết quả nổi bật của đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Tiền lương mà chủ đầu tư nước ngoài trả cho lao động Việt Nam cao hơn so với các khu vực khác, điều này phù hợp với năng suất lao động cao do lực lượng lao động này tạo ra. Theo quyết định số 708 ngày 15/6/1999 của bộ lao động - thương binh và xã hội, mức lương tối thiểu bằng đồng Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được chia làm ba mức.
Căn cứ theo khu vực: 626.000đ/tháng, 556.000đ/tháng, 487.000đ/tháng. Cũng qua đó theo kết quả khảo sát thì mức thu nhập trung bình của công nhân làm việc trong các doanh nghiệp FDI vào khoảng 70 - 100USD/tháng (tương đương là 980.000đ - 1.500.000đồng), bằng khoảng 150% mức thu nhập bình quân của lao động trong khu vực Nhà nước. Riêng đối với cán bộ quản lý thì nằm trong khoảng 200 - 300USD. Đây là yếu tố hấp dẫn đối với lao động Việt Nam có trình độ cao làm việc cho các dự án FDI.
Bên cạnh đó, hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra một khối lượng hàng hoá và sản phẩm lớn cho xuấ khẩu từ đó góp phần tăng nhanh kim ngạch xuấ khẩu nước ta.
Biểu 9: Kim ngạch xuấ khẩu của các doanh nghiệp FDI từ năm 1995 - 2001
Năm
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
Kim ngạch xuấ khẩu từ FDI (triệu USD)
336
788
1890
1982
2547
3320
3573
Kim ngạch xuấ khẩu
(triệu USD)
5448,9
6255,9
9185
9361
11523
14308
15100
Tỷ trọng FDI trong tổng số
6,2
10,9
19,5
21,2
22,1
23,2
23,7
Nguồn: Nguyễn Trọng Hà - Đánh giá tác động của FDI đến ngoại thương Việt Nam - Tạp chí kinh tế và phát triển - Số 62 tháng 8/2002
Như vậy, các doanh nghiệp có vốn FDI xuấ khẩu chủ yếu là hàng dệt may và dầu thô, trong ngành này, có khá nhiều doanh nghiệp đạt tỷ lệ xuấ khẩu từ 80% trở lên. Các ngành khác, tỷlệ xuất khẩu thấp hơn, chẳng hạn, ngành thuỷ sản đạt 49%, công nghiệp nặng 34%, giao thông vận tải bưu điện 1%.
Tóm lại FDI làm tăng xuất khẩu ở những sử dụng các nguồn lực mà Việt Nam có lợi thế như tài nguyên thiên nhiên (như dầu thô 2001 xuất khẩu được hơn 3 tỷ USD) và nguồn lao động rẻ (dệt may, giày da).
3. Những tồn tại và hạn chế trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam.
Bên cạnh những tác động tích cực lên nền kinh tế Việt Nam đã trình bày ở trên, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài còn bộc lộ nhiều hạn chế.
3.1. Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý.
Xét theo cơ cấu đầu tư theo ngành vào Việt Nam, chúng ta đã có được kết quả đáng khích lệ. Nhìn chung, tốc độ tăng trưởng các ngành đều tăng hàng năm mặc dù có sự mất cân đối trong các cơ cấu đầu tư.
Biểu 10: Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài theo ngành
tính đến ngày 31/10/2002
Đơn vị tính: 1000USD
Ngành
Số dự án
Vốn đăng ký
Vốn pháp định
Công nghiệp nặng
581
6.210.350
2.535.239
Công nghiệp nhẹ
859
4.029.200
2.013.763
Xây dựng
274
3.574.021
1.337.647
Xây dựng khu đô thị
3
3.344.237
924.452
GTVT - bưu điện
136
3.204.428
2.276.918
Khách sạn - Du lịch
199
3.096.000
2.185.534
Công nghiệp dầu khí
63
3.086.443
2.283.113
Văn phòng cho thuê
105
3.000.225
1.072.107
Công nghiệp thực phẩm
194
2.151.306
946.005
Nông - lâm nghiệp
272
1.029.213
497.489
Dịch vụ khác
172
845.021
473.825
Văn hoá - y tế - giáo dục
93
526.259
243.535
Thuỷ sản
95
343.819
185.141
Xây dựng KCN - KCX
5
302.078
102.460
Tài chính - Ngân hàng
35
243.322
215.752
Các ngành khác
4
27.359
11.540
Tổng cộng:
3.216
37.138.311
17.444.520
Nguồn: Phạm Thị Hà - Một số giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam - Tạp chí phát triển kinh tế - số 128/2001 - trang 12.
Qua các số liệu trên, ta có thể thấy rằng, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, tăng cường tiềm lực để khai thác và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong nước như dầu khí, điện năng, nuôi trồng và chế biến cây công nghiệp.v.v...
Dựa vào bảng trên, tỷ lệ đầu tư vào ngành công nghiệp chiếm phần lớn dự án và số vốn đăng ký đầu tư. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của ngành công nghiệp liên tục tăng: năm 1996 là 21,7%, năm 1998 là 23,3%, năm 2000 là 20%.
Tuy nhiên, vấn đề đầu tư cơ cấu theo ngành còn khá nhiều bất hợp lý.
- Đầu tư mới chỉ hướng vào những ngành dễ thu lợi nhuận, thời gian thu hồi vốn nhanh, có thị trường tiêu thụ trong nước lớn nên các ngành nông lâm - thuỷ sản đầu tư còn quá nhỏ. Những ngành trong nước có tiềm năng lớn nhưng chưa được khai thác hợp lý như ngành may mặc, tẩy rửa, hàng điện tử dân dụng, sắt thép, xi măng.v.v... còn đầu tư vào những ngành công nghệ cao chưa nhiều vì mục tiêu hàng đầu của nhà đầu tư là lợi nhuận, họ chỉ mong đầu tư vào những ngành những lĩnh vực bỏ vốn ít mà thu lợi cao. Đồng thời do nước ta bắt đầu xuất phát điểm rất thấp cho nên cơ sở hạ tầng kém và duy chúng ta chỉ có một số ít tài nguyên thiên nhiên, hơn nữa trình độ tay nghề và kỹ năng người lao động không cao. Vì lý do đó mà nhà đầu tư không dám đầu tư vào Việt Nam những ngành công nghệ cao chứa nhiều chất xám.
- Mặt khác, trong việc thẩm định lựa chọn dự án, chúng ta đã không có một chiến lược phát triển kinh tế tổng hợp trên quy mô một vùng rộng lớn, vì vậy cứ hễ nơi nào chưa phát triển ngành này là cứ cấp giấy phép đầu tư, không xem xét đến tình hình đặc điểm vùng đó như thế nào. Dẫn đến đầu tư một cách tràn lan và sẽ khó khăn giải quyết những vấn đề phát sinh như: thị trường tiêu thụ ở đâu, đào tạo nguồn lao động theo hướng nào...
Ví dụ: như trong ngành khách sạn - du lịch hiện nay, tỷ lệ sử dụng phòng ở các khách sạn là quá nhỏ mà chỉ ở những vùng có lợi thế về biển thì mới có tỷ lệ sử dụng phòng lớn, nhưng những nơi đó thì không nhiều. Điều đó gây lãng phí cho đầu tư trong xã hội.
Biểu 11: Số dự án và vốn phân theo vùng kinh tế đến tháng 2 - 2002
Đơn vị tính: triệu USD
Vùng kinh tế
Chỉ tiêu
Vùng núi phía Bắc
Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ
Vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ
Vùng Tây Nguyên
Vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ
Vùng đồng bằng Sông Cửu Long
1. Đăng ký
- Số dự án
60
628
95
60
1.686
158
- Vốn đầu tư
331
11.819
2.643
937
21.264
1.171
2. Còn hiệu lực
- Số dự án
42
499
74
50
1.400
114
- Vốn đầu tư
264
10.888
984
989
17.305
1.006
3. Vốn thực hiện
156
3.999
426
119
7.313
714
Biểu 12: Cơ cấu vốn đầu tư phân theo ngành và vùng kinh tế đến T12 - 2002
Đơn vị tính: %
Vùng kinh tế
Ngành
Vùng núi phía Bắc
Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ
Vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ
Vùng Tây Nguyên
Vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ
Vùng đồng bằng Sông Cửu Long
Công nghiệp nặng
12,2
24,2
4,6
0
8
0
Công nghiệp nhẹ
63,8
0
0
9,9
19,4
13,6
Công nghiệp thực phẩm
9,3
23,3
10,9
Nông - lâm nghiệp
6,5
16,5
54,6
10,2
Xây dựng
5
9,4
22,8
57,6
Khách sạn - du lịch
19,7
17,3
35,4
GTVT và Bưu điện
13,5
Xây dựng văn phòng
9,4
15,4
Vốn đầu tư còn hiệu lực bình quân cho 1 tỉnh (triệu USD)
22
1.912,95
495,88
299,38
4326,28
3,82
Nguồn: Phạm Thị Hà - Một số giải pháp nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam - Tạp chí phát triển kinh tế số 128/2001 trang 12.
Qua 2 bảng trên, ta thấy rõ ràng mất cân đối đầu tư giữa các vùng kinh tế về số dự án, vốn và các ngành.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào chủ yếu là vùng kinh tế trọng điểm, tập trung vao hai vùng lớn là Nam Bộ và Bắc Bộ. Cả hai vùng này chiếm 86,11% số dự án đăng ký, riêng Nam Bộ chiếm 62,74% số dự án đăng ký cả nước. Bởi lẽ hai vùng này có số dự án lớn là do cơ sở hạ tầng phát triển, trình độ giáo dục đào tạo ở mức cao hơn so các vùng khác. Rõ ràng, hệ thống cơ sở hạ tầng mang tính quyết định trong nhân tố hấp dẫn các nhà đầu tư.
Ví dụ: Như ở vùng Tây Nguyên, đó là vùng kinh tế có nhiều tài nguyên khoáng sản nhưng cũng chỉ chiém 2,2% số dự án đăng ký. Quả là một con số ít ỏi, do vùng Tây Nguyên phần lớn là đồi núi, đường xá hệ thống điện nước có nhiều khó khăn trong vấn đề cung cấp. Ngoài ra, mọi người ở vùng này thường quen công tác trên mảnh ruộng đất của họ vẫn mang tính truyền thống, nếu có sự thay đổi cũng chỉ là một con số ít trong nhiều người dân ở đây.
- Mặt khác, chúng ta cũng còn thấy được sự bất cập giữa ngành đầu tư với vùng kinh tế, có những vùng kinh tế không phù hợp với một số ngành thì lại chiếm tỷ trọng lớn của ngành trong vùng. Ví dụ như vùng đồng bằng sông Cửu Long, thì lợi thế của ngành này chủ yếu là ngành nông nghiệp. Thế nhưng vùng đã quá chú trọng đến ngành xây dựng chiếm gần 60% tổng vốn đầu tư. Điều đó cho chúng ta thấy rõ rằng, khả năng phát huy lợi thế của vùng nói riêng, và cả nước nói chung là kém hiệu quả, năng suất không cao mà còn làm cho khả năng cạnh tranh hàng hàng hoá kém trên thị trường. Việc hạn chế này là do, trình độ cán bộ trong công tác thẩm định dự án là không cao, không thấy rõ được đặc điểm hoạt động của dự án so với tình hình cụ thể địa phương mình.
Hơn nữa, không có sự phối hợp các bộ ngành, cơ quan nghiên cứu trong việc quyết định lựa chọn dự án.
3.2. Nguồn thu hút vốn hẹp.
Cho đến nay, Việt Nam đã thu hút được 65 quốc gia đưa vốn vào đầu tư. Nếu căn cứ vào số đăng ký cũng như vốn pháp định theo thứ tự giảm dần, thì có thể xếp 10 quốc gia sau đây thuộc nhóm đã đóng góp đáng kể vào sự phát triển nền kinh tế.
Biểu 13: Số dự án và vốn phân theo quốc gia cho đến ngày 31/10/2002
Đơn vị tính: 1000 USD
Quốc gia
Số dự án
Vốn đăng ký
Vốn pháp định
Singapore
251
5.331.304
1.820.679
Đài Loan
646
4.889.125
2.199.799
Nhật Bản
332
3.551.815
1.863.846
Hồng Kông
325
3.257.953
1.471.364
Hàn Quốc
298
3.138.304
1.287.439
Pháp
157
2.176.807
1.254.026
IsLands
94
1.779.596
718.135
Nga
62
1.319.661
912
Mỹ
121
1.341.442
629.853
Anh
41
1.133.716
768.228
Nguồn: Phạm Thị Hà - Một số giải pháp nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam - Tạp chí phát triển kinh tế - Số 128/2001 - trang 12.
Nhìn vào bảng ta thấy, phần lớn những nước có số vốn đăng ký vốn pháp định và số dự án lớn nhất đầu tư vào Việt Nam chủ yếu từ các nước trong khu vực ASEAN và các nước Đông á. Điều này cho ta thấy rõ tính vững vàng nguồn vốn đầu tư vào Việt Nam không cao. Lấy ví dụ cụ thể, qua cuộc khủng hoảng kinh tế tiền tệ trong khu vực năm 1997, hầu hết các Công ty lớn Châu á ở Việt Nam đã rút lui một phần vốn của mình do gặp khó khăn tài chính. Hàng loạt các dự án đã phải giảm tiến độ thực hiện hoặc xin tam dừng triển khai lên tới 3 tỷ USD trong đó, lĩnh vực chủ yếu là khách sạn nhà hàng, văn phòng.
Ngoài ra, việc đối tác chủ yếu là từ khu vực Châu á cũng gây ra những bất lợi trong việc tiếp thu khoa học công nghệ. Toàn bộ các trang thiết bị dây chuyền chuyển sang cho Việt Nam là cũ lạc hậu so với nước mang đi đầu tư. Thế mà các đối tác như: Singpore, Đài Loan, Hàn Quốc, tuy rằng đây là những nước không phải là nền công nghệ kém nhưng khả năng trình độ khoa học chưa thể sánh bằng Tây Âu và Nhật Bản. Do đó, nếu chúng ta không thận trọng trong việc lựa chọn dự án gắn với công nghệ, dễ dàng chúng ta trở thành "bãi thải công nghệ".
3.3. Luật đầu tư nước ngoài chưa hoàn thiện.
Luật đầu tư nước ngoài đầu tiên của Việt Nam được ban hành năm 1987, liên tục bổ xung và sửa đổi một số điều vào năm 1990, 1992, sửa đổi căn bản vào năm 1996 để cho phù hợp với yêu cầu phát triển và cởi mở của nền kinh tế, nâng cao hơn nữa tính hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Tuy nhiên, những nội dung mới sửa đổi năm 1996 đã bộc lộ một số nhược điểm trong những năm vừa qua. Cụ thể các vấn đề chủ yếu sau:
- Hình thức đầu tư
- Nguyên tắc nhất trí trong liên doanh
- Việc tổ chức lại, giải thể doanh nghiệp
- Thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng
- Thủ tục hành chính
- Việc đền bù giải phóng mặt bằng
- Cân đối ngoại tệ, mở tài khoản Ngân hàng.v.v....
Các quy định về các vấn đề trên đang bị các nhà đầu tư nước ngoài cũng như bên đối tác Việt Nam của họ, các chuyên gia nghiên cứu vấn đề đầu tư nước ngoài và cả các cơ quan thực hiện quản lý Nhà nước về đầu tư nước ngoài cho là vẫn còn có sự gò bó vướng mắc. Trong khi đó, Việt Nam đang phải đương đầu với sự cạnh tranh.
Rõ ràng, nhiều nước láng giềng của ta và các nước khác trên thế giới đã và đang có những biện pháp mau lẹ và khá hiệu quả, nhằm nâng cao tính cạnh tranh môi trường đầu tư của họ, trên thực tế họ đã thành công.
Chương III: Một số giải pháp nh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 62109.doc