Đề án Một số giải pháp thu hút vốn trong doanh nghiệp Việt Nam

MỤC LỤC

 

LỜI MỞ ĐẦU 3

CHƯƠNG 1: HUY ĐỘNG VỐN ĐẦU TƯ TRONG CÁC DOANH NGHIỆP : NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG 4

 1. Khái niệm về vốn. 4

 2. Phân loại vốn. 5

 3. Vai trò của vốn đối với doanh nghiệp. 6

 3.1. Điều kiện tiên quyết để thành lập doanh nghiệp. 6

 3.2. Cơ sở cho hoạt động sản xuất kinh doanh của

doanh nghiệp. 7

 3.3. Cơ sở cho việc mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh. 7

 4. Các phương thức huy động vốn. 8

 4.1. Huy động vốn chủ sở hữu 8

 4.1.1. Vốn góp ban đầu. 9

 4.1.2. Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia. 9

 4.1.3. Phát hành cổ phiếu mới. 10

 4.2. Huy động vốn nợ. 11

 4.2.1. Tín dụng thương mại. 11

 4.2.2. Tín dụng thuê mua. 11

 4.2.3. Tín dụng ngân hàng. 12

 4.2.4. Phát hành trái phiếu. 13

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM 15

 1. Thực trạng về vốn và các phương thức huy động vốn của các doanh nghiệp Việt Nam. 15

 1.1. Thực trạng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp Việt Nam. 15

 1.2. Thực trạng việc huy động từ vốn nợ của doanh nghiệp. 20

 1.2.1. Thực trạng về tín dụng thương mại. 20

 1.2.2. Thực trạng về tín dụng ngân hàng. 21

 1.2.3. Thực trạng về Tín dụng thuê mua. 23

 1.2.4. Huy động vốn từ việc phát hành trái phiếu công ty. 25

 2. Những thành tựu đạt được. 26

 3. Những tồn tại và nguyên nhân. 28

CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM ĐẾN 2020. 35

KẾT LUẬN 39

TÀI LIỆU THAM KHẢO 40

 

 

 

 

 

 

doc40 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1623 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Một số giải pháp thu hút vốn trong doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h. Đối với loại trái phiếu này chỉ có công ty cổ phần mới được phát hành, cho phép công ty huy động vốn là vay nợ nhưng khi chuyển đổi trái phiếu thì nợ chuyển sang vốn điều lệ công ty giúp cho công ty có thể tái cấu trúc vốn để giảm nợ.Việc phát hành trái phiếu loại này có một số ưu điểm là chi phí sử dụng vốn thấp do trái phiếu chuyển đổi thường có lãi suất thấp hơn so với các trái phiếu thông thường có cùng độ rủi ro nhưng không có khả năng chuyển đổi; việc phát hành tương đối dễ dàng do đây là một công cụ đầu tư rất hấp dẫn. Tuy nhiên việc phát hành trái phiếu chuyển đổi có nhược điểm là doanh nghiệp khó kiểm soát được cấu trúc vốn khi đến thời hạn chuyển đổi do quyền lựa chọn thuộc về trái chủ. e) Trái phiếu kèm quyền mua cổ phiếu: Là loại trái phiếu cho phép trái chủ được quyền mua thêm một số lượng cổ phiếu thường ở mức giá xác định và trong khoảng thời gian xác định. f) Trái phiếu có tài sản đảm bảo: Là loại trái phiếu được bảo đảm bằng những tài sản của doanh nghiệp hoặc bằng tài sản của bên thứ ba. Những tài sản để bảo đảm cho các trái phiếu phát hành thường là bất động sản hoặc nhà xưởng hay máy móc thiết bị... Khi phát hành loại trái phiếu này, công ty hoặc bên thứ ba có trách nhiệm duy trì các tài sản đảm bảo trong tình trạng tốt nhất. Một tài sản có thể làm vật bảo đảm cho nhiều lần phát hành trái phiếu nhưng, tổng giá trị trái phiếu phát hành không được vượt quá giá trị của tài sản đảm bảo. g) Trái phiếu không có tài sản đảm bảo: Là loại trái phiếu không được bảo đảm cho việc thanh toán gốc và lãi trái phiếu bằng một tài sản cụ thể nào. Đây là loai trái phiếu được doanh nghiệp phát hành tương đối phổ biến. Loại trái phiếu này thường đi đôi với lãi suất huy động khá cao do độ rủi ro cho trái chủ cao. Thường chỉ những doanh nghiệp lớn, có uy tín mới có thể phát hành thành công các trái phiếu loại này. CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM 1. Thực trạng về vốn và các phương thức huy động vốn của các doanh nghiệp Việt Nam. 1.1. Thực trạng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp Việt Nam. Theo số liệu của Tổng cục thống kê. Số doanh nghiệp tại thời điểm 31/12/2006 phân theo quy mô vốn và phân theo loại hình doanh nghiệp thì có đến 131318 doanh nghiệp được thành lập. Nguồn : Tổng cục thống kê Tổng số Phân theo quy mô vốn Dưới 0.5 tỉ đồng Từ 0,5 đến dưới 1 tỷ đồng Từ 1 đến dưới 5 tỷ đồng Từ 5 đến dưới 10 tỷ đồng Từ 10 đến dưới 50 tỷ đồng Từ 50 đến dưới 200 tỷ đồng Từ200 đến dưới 500 tỷ đồng Từ 500 tỷ đồng trở lên TỔNG SỐ 131318 15908 21809 64137 12487 11502 3835 1009 631 Doanh nghiệp Nhà nước 3706 31 25 319 365 1195 1064 407 300    Trung ương 1744 12 8 70 91 460 616 259 228    Địa phương 1962 19 17 249 274 735 448 148 72 DN ngoài Nhà nước 123392 15773 21693 63226 11630 8804 1848 299 119    Tập thể 6219 2780 952 1445 580 434 25 2 1    Tư nhân 37323 6787 9783 17822 1900 912 109 7 3    Công ty hợp danh 31 7 9 12 2 1    Công ty TNHH 63658 5207 8998 35922 7271 5120 974 132 34    Công ty cổ phần có vốn Nhà nước 1360 9 32 184 162 570 289 81 33    Công ty cổ phần không có vốn Nhà nước 14801 983 1919 7841 1715 1767 451 77 48 Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 4220 104 91 592 492 1503 923 303 212    DN 100% vốn nước ngoài 3342 88 75 489 404 1232 715 215 124    DN liên doanh với nước ngoài 878 16 16 103 88 271 208 88 88 Bảng 1: DN phân theo quy mô vốn Trong đó doanh nghiệp Nhà nước chiếm 2.821% tổng vốn của doanh nghiệp cả nước, doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm 93.96%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 3.213% tổng vốn các doanh nghiệp cả nước. Cơ cấu DN phân theo quy mô vốn . Vốn sản xuất kinh doanh bình quân hang năm của các doanh nghiệp phân theo loại hình doanh nghiêp: Cơ cấu % Nguồn : Tổng cục thống kê 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 TỔNG SỐ 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00 DN Nhà nước 67.13 65.91 63.50 59.53 57.40 54.88 51.92 Trung ương 57.89 57.33 54.29 50.93 49.26 47.79 45.75 Địa phương 9.24 8.58 9.21 8.60 8.14 7.09 6.17 DN ngoài Nhà nước 9.86 11.99 14.97 18.48 21.50 24.98 28.16    Tập thể 0.79 0.69 0.70 0.69 0.65 0.62 0.59    Tư nhân 1.59 1.81 2.01 2.19 2.20 2.56 2.68  Công ty hợp danh 0.00 0.01 0.09 0.01 0.00 0.00  Công ty TNHH 4.46 5.51 7.38 8.90 10.40 11.35 11.92 DN CP có vốn Nhà nước 1.04 2.29 2.90 3.58 3.92 4.51 5.40    Công ty cổ phần không có vốn Nhà nước 1.98 1.69 1.98 3.02 4.34 5.95 7.58 DN có vốn Nước ngoài 23.02 22.10 21.53 21.99 21.09 20.14 19.92  DN 100% Vốn nước ngoài 8.40 9.01 9.76 10.27 11.07 11.40 11.95 DN liên doanh với nước ngoài 14.62 13.09 11.78 11.72 10.02 8.74 7.97 Bảng 2: DN phân theo loại hình doanh nghiệp Việc huy động vốn từ nguồn lợi nhuận không chia để lại thì còn khá khiêm tốn. Thực tế ở Việt Nam, do TTCK được thành lập rất muộn so với các nước, nên nhà đầu tư chưa có kinh nghiệm và trình độ cao trong đầu tư, bên cạnh đó lại chủ yếu là các nhà đầu tư ngắn hạn. Nếu công ty cổ phần niêm yết không thanh toán cổ tức lập tức sẽ có sự phản ứng tức thời trên thị trường, giá cổ phiếu sẽ giảm. Bởi thông thường các nhà đầu tư cho rằng sự sụt giảm về lợi nhuận và cổ tức là dấu hiệu xấu cho thấy tương lai của công ty gặp nhiều khó khăn, khi đó đa số nhà môi giới đều khuyên khách hàng bán cổ phiếu đi. Vì thế, nguồn tài trợ từ nguồn lợi nhuận giữ lại của các công ty cổ phần hiện nay chưa được quan tâm xem xét đúng mức. Nếu xem xét trên TTCK Mỹ, các cổ phiếu như Microsoft từ trước đến nay không thanh toán cổ tức cho cổ đông, chỉ thanh toán vào năm 2003 với cổ tức năm (0,16 USD) tính đến 30.6.2003 vốn cổ phần thường của Microsoft là 35.344.000.000 USD, lợi nhuận giữ lại là 25.676.000.000 USD đạt 72,65% so với vốn cổ phiếu thường. Như vậy đây là một nguồn vốn không nhỏ nếu chúng ta biết cách phát huy nó một cách có hiệu quả. Huy động vốn từ việc phát hành cổ phiếu mới là một biện pháp đang được rất nhiều doanh nghiệp quan tâm hiện nay. Rất nhiều doanh nghiệp nhà nước trong tiến trình cổ phần hóa đã phát hành thêm cổ phiếu mới để thu hút vốn đầu từ từ bên ngoài. Các doanh nghiệp cổ phần khác cũng coi đây là một nguồn vốn vô cùng to lớn. Một số doanh nghiệp đã tăng được vốn chủ sở hữu lên đáng kể khi sử dụng biện pháp phát hành thêm cổ phiếu này. Điển hình nhất phải kể đến các ngân hàng thương mại cổ phần. Như Ngân hàng xuất nhập khẩu VN (Eximbank) đã phát hành thêm 400 tỷ đồng cổ phiếu cho các cổ đông hiện hữu và nhà đầu tư chiến lược (8/2006). Đồng thời, hiện Eximbank vẫn trong thời gian tiến hành đàm phán để hoàn thành kế hoạch bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài, đồng thời thực hiện kế hoạch tăng vốn điều lệ từ 815 tỷ đồng lên 1.200 tỷ đồng vào cuối năm nay. Ngoài những loại cổ phiếu mới, nhiều công ty cũ rên sàn cũng phát hành thêm cổ phiếu như Công ty cổ phần Cơ điện lạnh (REE) phát hành thêm 10 triệu cổ phiếu (bằng 100 tỉ đồng mệnh giá), Công ty cổ phần Sữa Việt Nam (Vinamilk) chuẩn bị phát hành thêm 15,9 triệu cổ phiếu (159 tỉ đồng mệnh giá). Thị trường chứng khoán Việt Nam còn đang ở giai đoạn phát triển ban đầu. Tuy nhiên thị trường chứng khoán Việt Nam đang phát triển với tốc độ rất nhanh. Khoảng một tháng gần đây, hàng loạt công ty nộp đơn lên Uỷ ban Chứng khoán nhà nước xin cấp phép niêm yết và phát hành thêm cổ phiếu. Ngoài yếu tố “chạy" ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp trước thời điểm tháng 1/2007, sự phục hồi khả quan của thị trường chứng khoán (TTCK) cũng tạo sức hút đáng kể.Các nhà hoạch định chính sách đã đưa ra chỉ tiêu: năm 2006 đưa tổng giá trị cổ phiếu niêm yết, đăng ký giao dịch trên TTCK đạt khoảng từ2-3% GDP. Con số này là khiêm tốn, vì theo đánh giá của Ủy ban chứng khoán Nhà nước thì năm 2005 quy mô thị trường giao dịch chứng khoán tăng với tốc độ lớn nhất trong 5 năm qua, 64% so với năm 2004. Giá trị thị trường của chứng khoán niêm yết và đăng ký giao dịch tăng gấp 1,6 lần, tương đương 6,5% GDP năm 2005 (năm 2004 con số này là 3,9% GDP). Mặc dù vậy, kế hoạch phát triển TTCK Việt Nam đến năm 2010 cũng chỉ đặt ra mục tiêu tổng giá trị vốn niêm yết trên thị trường chứng khoán đạt 10-15% GDP. Kế hoạch là một chuyện, còn thực tế lại diễn ra khác xa. theo ông Nguyễn Sơn (Phó trưởng ban phát triển thị trường, UBCK Nhà nước): kế hoạch năm 2006 đạt 3% GDP, nhưng ngay quý I năm 2006 đã đạt 6,5%. Đây là mức tăng trưởng nhanh, hiện đã có 299 DN đã đăng ký niêm yết. Theo đánh giá của các chuyên gia thì quy mô thị trương sẽ tăng mạnh trong 4 năm tới. Số lượng nhà đầu tư có khả năng tăng gấp 2-3 lần hiện nay (đạt khoảng 500.000 tài khoản) và có sự gia tăng nhanh nhóm NĐT chuyên nghiệp. Quy mô vốn của các công ty chứng khóan cũng sẽ tăng mạnh (bình quân khoảng 500 tỷ đồng/Công ty) và sẽ có sự phân hóa rõ rệt. Vẫn theo UBCK, đến năm 2010, cổ phiếu niêm yết có gía trị thị trường ít nhất bằng 60% GDP. 1.2. Thực trạng việc huy động từ vốn nợ của doanh nghiệp. 1.2.1. Thực trạng về tín dụng thương mại. Trong kinh doanh luôn tồn tại nhu cầu về vốn. Doanh nghiệp nào tìm được biện pháp có thể giải quyết hữu hiệu vấn đề vốn sẽ có thuận lợi lớn trong hoạt động kinh doanh của mình và dễ dàng chiếm ưu thế trong cuộc cạnh tranh với đối thủ. Sự đòi hỏi về vốn ngày một tăng trong nền kinh tế thị trường chính là “cha đẻ” của hình thức bán chịu, một hoạt động được coi là “phao cứu sinh” giúp các doanh nghiệp vượt qua những cơn sóng gió tài chính. Đây chính là quan hệ mua bán chịu giữa các doanh nghiệp với nhau trong quá trình mua bán hàng hóa. Để thanh toán hoặc đòi tiền lẫn nhau, các doanh nghiệp thường sử dụng các công cụ như hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ hay séc... Những loại giấy tờ này, nếu còn giá trị, đều có thể chuyển nhượng lại. Lâu nay, các doanh nghiệp và ngân hàng đều đã sử dụng hối phiếu trong thanh toán xuất nhập khẩu và vay nợ nước ngoài. Tất cả các giao dịch này đều thực hiện theo thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, trong thanh toán nội địa, các doanh nghiệp chưa sử dụng thương phiếu như là công cụ thanh toán phổ biến. Ngân hàng thương mại cũng chưa đủ điều kiện để cấp tín dụng cho doanh nghiệp dưới các hình thức chiết khấu thương phiếu hoặc cho vay có bảo đảm bằng cầm cố thương phiếu. Trong khi đó, mua bán chịu giữa các doanh nghiệp, bán hàng gối đầu giữa nhà sản xuất và đại lý, giữa các tiểu thương ở chợ đầu mối là nhu cầu thực tế. Ở Việt Nam hiện nay theo thống kê có tới 80,5% số doanh nghiệp huy động vốn từ các nguồn mua bán chịu, sử dụng vốn của đối tác. Tuy nhiên, những giao dịch đó chỉ được ghi lại một cách đơn giản trên sổ nợ của người bán; ngay cả khi mua bán trả chậm, các bên cũng chỉ lập văn bản thỏa thuận với nội dung đơn giản về thời gian và số tiền trả chậm. Vì vậy, các khoản nợ đã không được xác nhận về mặt pháp lý và khó chứng minhkhi nảy sinh tranh chấp; dẫn đến nguy cơ nợ nần dây dưa, thậm chí mất trắng tiền tỷ của các tiểu thương ở chợ đầu mối... Mặc dù quan hệ tín dụng thương mại mua bán chịu giữa các doanh nghiệp, tiểu thương đã tồn tại như một quan hệ thực tế khách quan trong nền kinh tế Việt Nam, nhưng phải tới ngày 1/7/2006, với việc Luật các công cụ chuyển nhượng có hiệu lực, quan hệ này mới chính thức được pháp luật thừa nhận. Đây được xem như một động lực thúc đẩy sự phát triển thị trường mua bán nợ nói riêng và thị trường tiền tệ nói chung. 1.2.2. Thực trạng về tín dụng ngân hàng. Tín dụng ngân hàng là hình thức huy động vốn chủ yếu của các doanh nghiệp nước ta. Các Tổ chức Tín dụng, đặc biệt là các Tổ chức Tín dụng nhà nước hoạt động chủ yếu vẫn là huy động và cho vay với các hình thức tín dụng truyền thống, chiếm 75 - 80% thị phần cũng như tài sản của toàn hệ thống ngân hàng. Hiện nay nền kinh tế nước ta đang phát triển lên một cấp độ mới, nền kinh tế hội nhập. Điều đó đang đặt ra cho các chủ thể kinh doanh của nền kinh tế phải đối mặt với những thách thức mới. Đó là làm thế nào để có thể tồn tại, đứng vững và phát triển trong điều kiện cạnh tranh gay gắt của hội nhập quốc tế. Trong bối cảnh như vậy, hoạt động tín dụng ngân hàng nổi lên như một mắt xích trọng yếu trong hoạt động của nền kinh tế hiện đại, tín dụng ngân hàng có một vai trò cực kỳ quan trọng, với vị trí là trung gian tài chính của nền kinh tế, thông qua các nguồn lực xã hội được phân bổ sử dụng một cách hợp lý và có hiệu quả. Thông qua việc cung ứng nguồn vốn, tín dụng ngân hàng có tác động rất lớn tới quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Đặc biệt đang lúc chúng ta đẩy nhanh quá trình sắp xếp lại và cổ phần hoá các DNNN thì vai trò của hoạt động tín dụng ngân hàng lại càng quan trọng hơn, nhất là trong bối cảnh hiện tại khu mà vốn của ngân hàng thương mại chiếm tỷ trọng lớn trong tài sản của DNNN, có trường hợp vốn tín dụng ngân hàng chiếm tới 80% tài sản của doanh nghiệp. Vì thế hoạt động tín dụng ngân hàng lại càng quan trọng hơn trong việc phân bổ lại các nguồn lực nhằm lành mạnh và tối ưu hoá các hoạt động kinh tế của loại hình doanh nghiệp này. Theo đó, cần tích cực cung ứng vốn tín dụng cho ngành nghề, các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, có lợi thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế như các ngành: thuỷ sản, may mặc và da giày. Kiên quyết không cung ứng và thu hồi vốn tín dụng đối với các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, nợ nần dây dưa, mất uy tín trên thương trường, hạn chế đầu tư đối với các ngành mà có sản phẩm khó có thể cạnh tranh trên thị trường, đó cũng là một trong những biện pháp quan trọng để sử dụng tối ưu hoá nguồn lực xã hội. Do đó trong thời gian tới cần tăng tỷ trọng vốn tín dụng trung, dài hạn trong hoạt động đầu tư. Lẽ ra việc đầu tư vốn trung dài hạn cần được huy động từ thị trường chứng khoán, nhưng hiện tại hoạt động của thị trường này còn quá non yếu chưa đáp ứng được các bước phát triển của nền kinh tế. Việc Ngân hàng Nhà nước cho phép các ngân hàng thương mại được nâng tỷ lệ vốn huy động ngắn hạn để đầu tư trung, dài hạn từ 25% đến 30% đang là những bước đi tích cực, điều này sẽ tạo nhiều thuận và trang bị công nghệ hiện đại.Hơn nữa, các ngân hàng thương mại cần có quan hệ tín dụng thực sự bình đẳng giữa các chủ thể kinh doanh, mà cụ thể là các DNNN và các doanh nghiệp dân doanh, vì theo ước tính những năm gần đây có đến 80% vốn tín dụng được đầu tư vào DNNN và chỉ có 20% vốn tín dụng được đầu tư vào các doanh nghiệp dân doanh trong khi đó khu vực dân doanh đóng góp tới 42% GDP của cả nước. Nếu ở thời điểm cuối năm 2005 dư nợ cho vay doanh nghiệp nhà nước (cả Trung ương và địa phương) của hệ thống ngân hàng Hà Nội là 42.170 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 47,6%/tổng dư nợ thì đến nay số dư này còn khoảng 41.500 tỷ đồng và chỉ chiếm tỷ trọng khoảng gần 41%/ tổng dư nợ. Trong báo cáo đánh giá hoạt động ngân hàng 6 tháng đầu năm 2006, hầu hết các ngân hàng thương mại đều nêu đối tượng khách hàng được quan tâm hiện nay của họ là các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa và nhu cầu vay của người dân... Không có ngân hàng nào đặt ưu tiên tín dụng vào doanh nghiệp Nhà nước trong thời gian này. Đây là một điểm đáng chú ý nếu như chúng ta nhớ rằng chỉ cách đây một vài năm, doanh nghiệp Nhà nước vẫn là đối tượng khách hàng cạnh tranh của các ngân hàng. Lúc đó dư nợ cho vay doanh nghiệp nhà nước chiếm đến 70%-80% tổng dư nợ cho vay của các chi nhánh ngân hàng thương mại nhà nước nhưng từ năm 2004 đến nay tình hình đã khác.Ước tính 80% lượng vốn cung ứng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ là từ kênh ngân hàng. Nhưng theo định hướng của Chính phủ, đến năm 2010, cả nước sẽ có 500.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN). Đi cùng với con số này là một lượng vốn lớn cần được đáp ứng. Trong hai năm gần đây, số vốn mà các ngân hàng thương mại cho các DNVVN vay chiếm bình quân 40% tổng dư nợ. Theo đại diện các ngân hàng, đây là tỷ lệ cao nhất từ trước tới nay; thậm chí có những trường hợp chiếm từ 50 – 60% tổng dư nợ như Ngân hàng Công thương Việt Nam. Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước, tốc độ tăng trưởng tín dụng dành cho khối DNVVN trong những năm gần đây cũng đã cho thấy những tín hiệu khả quan: năm 2003 là 37,1%, năm 2004 là 20,18% và năm 2005 ước tính là 22%. Tuy nhiên, trong một điều tra về thực trạng DNVVN do Cục Phát triển doanh nghiệp (Bộ Kế hoạch Đầu tư) công bố mới đây lại cho thấy chỉ có 32,38% số doanh nghiệp cho biết có khả năng tiếp cận được các nguồn vốn Nhà nước (chủ yếu là từ các ngân hàng thương mại), 35,24% doanh nghiệp khó tiếp cận và 32,38% số doanh nghiệp không tiếp cận được. Như vậy, khả năng tiếp cận vốn ngân hàng thương mại của các DNVVN vẫn còn nhiều hạn chế. 1.2.3. Thực trạng về Tín dụng thuê mua. Nghiệp vụ cho thuê tài chính (CTTC) ở Việt Nam được NHNN áp dụng thí điểm bởi quyết định số 14/QĐ-NH5 từ ngày 17-5-1995. Đến ngày 9-10-1995 chính phủ ban hành nghị định 64/CP "Quy chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của công ty CTTC ở Việt Nam". Ngày 9-2-1996, Thống đốc NHNNVN có thông tư 03/TT-NH5 hướng dẫn thực hiện quy chế tạm thời về tổ chức hoạt động của công ty CTTC. Ngày 02-5-2001, Chính phủ ban hành nghị định 16/NĐ-CP về tổ chức hoạt động của công ty CTTC. Công ty cho thuê tài chính đầu tiên ở VN là công ty CTTC quốc tế VN VILC (Vietnam International Leasing Company) được thành lập ngày 28-10-1996 theo giấy phép số 01/GP-CTCTTC với số vốn điều lệ là 5 triệu USD. Đến nay ở VN có 9 công ty CTTC, tất cả đều thuộc ngân hàng. Đến cuối năm 1999, tổng số vốn điều lệ của 8 công ty (lúc đó công ty CTTC của ngân hàng Đầu tư chưa tách ra làm 2 công ty) là 494 tỉ VND, năm 2003 đã tăng lên 785,6 tỉ VND (vốn điều lệ của công ty thuộc tổ chức tín dụng là 50 tỷ VND). Đó là các công ty; 1. Công ty CTTC ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn 1 (1998). 2. Công ty CTTC ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn 2 (1998). 3. Công ty CTTC ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam 1 4. Công ty CTTC ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam 2 5. Công ty CTTC ngân hàng Công thương Việt Nam (1998). 6. Công ty CTTC ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (1998). 7. Công ty CTTC Quốc tế Việt Nam VILC. 8. Công ty CTTC ANZ V-TRAC. 9. Công ty CTTC Kexim Việt Nam. Trong đó 6 công ty đầu tiên là các công ty trực thuộc tổ chức tín dụng, 100% vốn trong nước. Công ty thứ 7 là công ty liên doanh (giữa 5 bên : ngân hàng công thươnng Việt Nam, công ty tài chính KDB (Hàn Quốc), ngân hàng AoZora (Nhật bản), công ty tài chính IFC thuộc ngân hàng thế giới, ngân hàng Natexi banques populairé (Pháp). 2 công ty thứ 8 và 9 là 2 công ty CTTC 100% vốn nước ngoài. Khách hàng của công ty CTTC nước ngoài là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, con khách hàng của công CTTC trong nước là các doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiêm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân. Tỉ lệ vốn đầu tư vào doanh nghiệp quốc doanh chiếm khoảng 74% tổng Dư nợ. Đến tháng 9/2004 tổng dư nợ CTTC đã đạt 5.872.400 triệu VNĐ tăng 36% so với năm 2003.Theo đánh giá của Phó Thống đốc thường trực Ngân hàng Nhà nước thì từ khi ra đời đến nay, các công ty CTTC đã phát triển nhanh chóng cả về quy mô và mạng lưới hoạt động. Cụ thể: đã thực hiện được nhiều nghiệp vụ cho thuê khác nhau, đa dạng hoá các tài sản cho thuê, phương thức cho thuê và đối tượng khách hàng. Trong 8 năm, các công ty CTTC đã từng bước phát huy được vai trò quan trọng là hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư chiều sâu, đổi mới máy móc thiết bị, cải tiến kỹ thuật. Không chỉ có thế, tỷ lệ dư nợ quá hạn của các công ty CTTC thấp hơn nhiều so với các ngân hàng, lợi nhuận năm sau luôn cao hơn năm trước. Dư nợ CTTC gia tăng mạnh trong khoảng thời gian 1999-2004. Tỷ trọng dư nợ CTTC trong tổng tài sản chiếm đa số và tăng liên tục từ 65% năm 1999 lên 91% năm 2004. Do đó, vị trí các công ty CTTC ngày càng quan trọng trong hoạt động của các tổ chức tín dụng. 1.2.4. Huy động vốn từ việc phát hành trái phiếu công ty. Nhìn chung thị trường trái phiếu doanh nghiệp nước ta hiện nay chưa phát triển. Tổ chức phát hành chủ yếu mới chỉ là các ngân hàng thương mại. Số doanh nghiệp phát hành trái phiếu rất ít, tập trung ở những doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn. Đến hết tháng 5/2005, dư nợ trái phiếu là 1071,9 tỉ đồng, chiếm khoảng 9% GDP.Thêm vào đó khung pháp lý quản ly việc phát hành trái phiếu còn thiếu toàn diện, chưa tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc huy động vốn. Nghị định 144/2003/NDCP tuy đã được ban hành từ năm 2003 nhưng cho đến nay vẫn chưa thực sự được áp dụng nhiều vào thực tế do: Tiêu chuẩn các định việc phát hành trái phiếu ra công chúng tuy đã được định lượng nhưng khó vận dụng và không phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam, khả năng phát hành trái phiếu của các doanh nghiệp bị hạn chế do việc phát hành trái phiếu phải bắt buộc thực hiện theo phương thức bảo lãnh phát hành thông qua các công ty chứng khoán, trong khi mức bảo lãnh phát hành của các công ty chứng khoán lại bị giới hạn... Mới đây, chính phủ vừa ban hành Nghị định 52/2006/NĐ-CP về phát hành trái phiếu doanh nghiệp đã mở ra một kênh mới để huy động vốn cho doanh nghiệp. Về phương diện chính sách, Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư mới được Quốc hội thông qua năm 2005 đã cho phép các doanh nghiệp được phát hành trái phiếu để huy động vốn từ thị trường. Tuy nhiên, hiện nay chúng ta mới chỉ có quy định về việc phát hành trái phiếu ra công chúng. Vì vậy, việc ra đời của Nghị định 52/2006/NĐ-CP là một bước kiện toàn về hệ thống chính sách quản lý của Nhà nước, đảm bảo cho hệ thống chính sách toàn diện hơn, hoạt động của các doanh nghiệp được thực hiện công khai, minh bạch hơn. Vừa qua, được phép của NHNN Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) phát hành trái phiếu dài hạn với tên gọi trái phiếu Agribank với 2 thời hạn ban đầu là 10 năm và 15 năm. Thời hạn phát hành trái phiếu Agribank tối đa 60 ngày. Ngày phát hành trái phiếu: 10/10/2006, ngày đến hạn thanh toán lãi trái phiếu là ngày 10/10 hàng năm. Trái phiếu Agribank được phát hành bằng Đồng Việt Nam (VNĐ) với khối lượng 3.000 tỷ VNĐ qua hình thức ghi sổ. Việc phát hành trái phiếu Agribank 2006 là bước đi đúng hướng của Agribank nhằm đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, tăng thêm nguồn vốn dài hạn đầu tư cho các dự án phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và tăng cường năng lực tài chính của mình. 2. Những thành tựu đạt được. Mức vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp ngày một tăng. Năm 2000 tổng số vốn sản xuất bình quân mới là 998423 tỉ đồng, đến năm 2006 con số này đã là 3035416 tỉ đồng, nhưng trên thực tế thì con số này cao hơn số vốn đăng ký ở cùng thời kỳ và doanh nghiệp tư nhân trong nước là nhà đầu tư chủ yếu và chiếm tỷ trọng lớn. Như ở Lào Cai, trong khi vốn đăng ký kinh doanh năm 2002 chỉ khoảng 93 tỷ, thì vốn đầu tư thực hiện của các doanh nghiệp là 422 tỷ. ở các địa phương khác, cũng tương tự. Qua 6 năm thi hành Luật Doanh nghiệp, đã có 160.752 doanh nghiệp được thành lập, huy động 321,25 ngàn tỷ đồng vốn đăng ký ban đầu. Đồng thời, các doanh nghiệp đang hoạt động cũng đã đăng ký bổ sung 103,47 ngàn tỷ đồng vốn. Trong đó riêng năm 2005, số vốn đăng ký bổ sung này là 38,34 ngàn tỷ đồng Bước đầu đã thu hút được vốn từ việc phát hành cổ phiếu & phát hành trái phiếu công ty. Chính phủ đã ban hành những quy định rõ ràng hơn về việc phát hành cổ phiếu & trái phiếu của doanh nghiệp. Luật Chứng khoán được Quốc hội thông qua sẽ có hiệu lực từ 1/1/2007 sẽ tạo khung hành lang pháp lý thuận lợi cho việc phát hành cổ phiếu của các doanh nghiệp. Như Nghị định 52/2006/NĐ-CP về phát hành trái phiếu doanh nghiệp đã mở ra một kênh mới để huy động vốn cho doanh nghiệp, khuyến khích các doanh nghiệp trực tiếp tham gia huy động vốn trên thị trường để phục vụ mục tiêu đầu tư phát triển của doanh nghiệp, kể cả mục tiêu tăng quy mô vốn tự có. Tín dụng ngân hàng vẫn là hình thức huy động vốn chủ yếu của các doanh nghiệp nước ta. Hoạt động chủ yếu của các Tổ chức Tín dụng vẫn là huy động và cho vay với các hình thức tín dụng truyền thống, chiếm 75 - 80% thị phần cũng như tài sản của toàn hệ thống ngân hàng. Một số ngân hàng có chiến lược rõ ràng hướng về khu vực DN vừa & nhỏ, mỗi ngân hàng đã dành một lượng vốn nhất định để cho khu vực doanh nghiệp này vay. Một số ngân hàng cũng đang thay đổi chế độ cho vay đối với DN vừa & nhỏ, có sự linh hoạt hơn, thích hợp hơn với cơ chế thị trường. Trong hai năm gần đây, số vốn mà các ngân hàng thương mại cho các DN vừa & nhỏ vay chiếm bình quân 40% tổng dư nợ. Theo đại diện các ngân hàng, đây là tỷ lệ cao nhất từ trước tới nay; thậm chí có những trường hợp chiếm từ 50 – 60% tổng dư nợ như Ngân hàng Công thương Việt Nam. Tính đến nay với hơn chục công ty cho thuê tài chính, trên 500 nhân viên chuyên nghiệp, vốn tự có trên 900 tỷ đồng và vốn đầu tư trên 3.000 tỷ đồng, hoạt động cho thuê tài chính đã đảm bảo nộp ngân sách, có lãi và góp phần hỗ trợ tích cực trong việc cung cấp các giải pháp tài chính cho DN, đặc biệt là khu vực DN vừa và nhỏ. Mặc dù ra đời chưa lâu nhưng hoạt động CTTC của chúng ta đã có những bước phát triển đáng kể. CTTC thực sự là một kênh dẫn vốn trung và dài hạn quan trọn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24981.doc
Tài liệu liên quan