Đề án Một số giải pháp thúc đẩy sự hoạt động thị trường chứng khoán Việt Nam

MỤC LỤC

Lời mở đầu 1

Nội dung 2

Chương I: Tổng quan về thị trường chứng khoán 2

I. Khái niệm về thị trường chứng khoán 2

1. Khái niệm về chứng khoán. 2

2. Khái niệm về thị trường tài chính. 2

3. Thị trường chứng khoán. 2

II. Lịch sử hình thành thị trường chứng khoán 3

1. Thời kỳ phôi thai (từ giữa thế kỷ 15 đến năm 1929). 3

2. Thời kỳ phục hưng (1930-1970). 3

3. Thời kỳ quốc tế hoá và công chúng hoá thị trường chứng khoán (1971 đến nay). 3

III. Vai trò và chức năng của thị trường chứng khoán. 4

1. Chức năng của thị trường chứng khoán . 4

1.1. Chức năng thu hút vốn nhàn rỗi vào đầu tư phát triển. 4

1.2. Chức năng điều tiết các nguồn vốn. 4

1.3.Chức năng hoà nhập nền kinh tế thế giới. 4

1.4. Chức năng điều tiết vĩ mô. 5

2. Vai trò của thị trường chứng khoán. 5

2.1. Tạo vốn cho nền kinh tế quốc dân. 5

2.2. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sử dụng vốn linh hoạt và có hiệu quả hơn. 5

2.3. TTCK là công cụ đánh gía DN, dự đoán tương lai. 6

IV. Một số hạn chế của thị trường chứng khoán 6

1. Thị trường chứng khoán là nơi cung cấp sự đầu cơ. 6

2. Thị trường chứng khoán làm cho mâu thuẫn xã hội trở nên

gay gắt hơn. 6

3. Thị trường chứng khoán làm cho nền kinh tế dễ mất ổn định. 6

V. Cơ cấu tổ chức thị trường chứng khoán 7

1. Uỷ ban chứng khoán quốc gia (UBCKQG) 7

2. Sở giao dịch chứng khoán (SGDCK). 7

3. Các nhà đầu tư. 7

4. Các đơn vị phát hành chứng khoán . 7

5. Các trung gian tài chính (TGTC). 7

6. Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán . 8

VI. Hoạt động của thị trường chứng khoán . 8

1. Các nghiệp vụ trực tiếp của thị trường chứng khoán. 8

1.1. Phát hành chứng khoán: 8

1.2. Nghiệp vụ trợ giúp phát hành. 8

1.3. Nghiệp vụ môi giới chứng khoán. 9

1.4. Nghiệp vu kinh doanh chứng khoán. 9

2. Các nghiệp vụ khác liên quan. 9

2.1. Nghiệp vụ tín thác đầu tư chứng khoán. 9

2.2. Tư vấn đầu tư. 9

2.3. Nghiệp vụ tín dụng chứng khoán. 10

3. Các yếu tố kỹ thuật nghiệp vụ. 10

3.1. Phân tích chỉ số chứng khoán. 10

3.2. Xác định giá chứng khoán. 11

Chương II: Thực trạng của thị trường chứng khoán việt nam 12

I. sự cần thiết của thị trường chứng khoán Việt Nam 12

1. Nền kinh tế Việt Nam hơn 10 năm đổi mới. 12

2. Nhu cầu về vốn trung hạn và dài hạn cho các doanh nghiệp

Việt Nam là rất lớn. 12

3. Thị trường chứng khoán là sự đòi hỏi khách quan của nền

kinh tế nước ta. 13

II. Những thuận lợi và khó khăn trong việc hình thành và phát triển thị trường chứng khoán 14

1. Thuận lợi. 14

2. Những khó khăn và thách thức. 15

III. Những điều kiện cần thiết để hình thành thị trường chứng khoán

Việt Nam 16

1. Điều kiện kinh tế. 16

2. Điều kiện pháp lý. 17

3. Điều kiện kỹ thuật tổ chức. 17

IV. Quá trình chuẩn bị cho sự phát triển thị trường chứng khoán

Việt Nam 17

1. Khuôn khổ pháp lý. 17

2. Về hàng hoá cho thị trường chứng khoán Việt Nam. 21

3. Vấn đề tạo nguồn nhân lực cho thị trường chứng khoán. 22

Chương III: Một số giải pháp, kiến nghị thúc đẩy sự hoạt động thị trường chứng khoán Việt Nam 23

I. Hoàn thiện cơ cấu tổ chức thị trường chứng khoán Việt Nam 23

1. Hoàn thiện trung tâm giao dịch chứng khoán Tp Hồ Chí Minh. 23

2. Hoàn thiện cơ cấu các tổ chức liên quan. 24

II. Hoàn thiện cơ chế tổ chức vận hành thị trường chứng khoán hiện nay ở nước ta. 25

1. Về các giao dịch chứng khoán phi tập trung. 25

2. Các Ngân hàng thương mại Việt Nam (NHTM) với thị trường chứng khoán. 25

III. Vấn đề tạo hàng hoá cho thị trường chứng khoán. 26

1. Những nguyên nhân làm cho cung ít hơn cầu. 26

2. Các giải pháp tạo hàng hoá cho thị trường chứng khoán. 26

3. Giải pháp về chứng khoán. 27

IV. Giải pháp tạo nguồn nhân lực, nâng cao sự hiểu biết của công chúng. 28

2. Các hình thức đào tạo phổ biến. 29

V. Xây dựng cơ sở hạ tầng cho thị trường chứng khoán. 29

VI. Giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô. 30

Kết luận 32

Tài liệu tham khảo 33

 

 

doc38 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 1547 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Một số giải pháp thúc đẩy sự hoạt động thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giá rủi ro chứng khoán, các loại chỉ số khác… giúp cho mọi đối tượng có thể tham gia thị trường chứng khoán một cách dễ dàng nhất. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM I. SỰ CẦN THIẾT CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM 1. Nền kinh tế Việt Nam hơn 10 năm đổi mới. Chủ trương của Đảng và Nhà Nước ta đã đề ra trong Đại hội VI là phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ những thành tựu đã đạt được của công cuộc đổi mới nền kinh tế hơn 10 năm qua đã chứng tỏ chủ trương trên là hoàn toàn đúng đắn. Trong thời kỳ 1986 -1990 nền kinh tế nước ta có nhịp độ tăng trưởng bình quân thấp (thấp hơn cả thời kỳ 5 năm trước đó). Cụ thể thời kỳ này chỉ tăng trưởng 3,9 % còn thời kỳ 1981-1985 là 6,4 %. Chỉ số lạm phát năm 1986 lên tới 774,4 %, năm 1990 lạm phát tuy đã được kiềm chế nhưng vẫn ở mức cao (67%). Từ năm 1991 đến nay nền kinh tế nước ta đã có những bước phát triển vượt bậc, tốc độ tăng trưởng trong nhiều năm liền khá cao (hơn 8%/năm), lạm phát được kiềm chế ở mức độ cho phép, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Bảng: Tốc độ tăng trưởng GDP và lạm phát. Đơn vị: % Năm 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Tốc độ tăng GDP 5,96 8,65 8,07 8,84 9,54 9,34 8,15 5,83 4.99 6,7 Tốc độ lạm phát 67,5 17,5 5,2 14,4 12,7 4,5 3,6 9,2 0,1 - Để đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước đòi hỏi phải có một nguồn vốn lớn. Nghị quyết Đại hội VIII đã đề ra cho giai đoạn 1996-2000 đòi hỏi một nguồn vốn 40-45 tỷ USD, bình quân mỗi năm phải đạt 8 tỷ USD để thúc đẩy CNH-HĐH nhằm từng bước tạo ra cơ cấu kinh tế hợp lý, góp phần chống nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. 2. Nhu cầu về vốn trung hạn và dài hạn cho các doanh nghiệp Việt Nam là rất lớn. Về quy mô vốn: Qua điều tra gần đây với 273 DN thì có khoảng 50 % có số vốn chủ sở hữu trên 10 tỷ đồng và hầu hết là các DN Nhà nước. Về cơ cấu vốn: Đối với khối DNNN thì tỷ lệ vốn vay trên tổng vốn kinh doanh thường chiếm trên 70 %. Tỷ lệ vốn Nhà nước chiếm trên 30 % trong tổng số vốn. Còn các công ty cổ phần có tỷ trọng phần vốn tự có trong tổng số vốn kinh doanh cao hơn (60%). Tuy nhiên, họ cũng gặp khó khăn trong vấn đề vay Ngân hàng. Về tình hình huy động vốn của các DN: Mục đích huy động vốn chủ yếu vào bổ sung vốn lưu động và đổi mới công nghệ. Mà nguồn vay vốn chủ yếu lại từ vay vốn ngắn hạn Ngân hàng, và lượng vay lại không được đáp ứng đầy đủ. Do vậy, hiệu quả của đồng vốn vay phục vụ sản xuất kinh doanh của các DN bị hạn chế nhiều. Một xu hướng khá phổ biến là huy động vốn trong nội bộ DN thông qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Theo thống kê, trong năm 2000, nhu cầu vốn hoạt động kinh doanh của các DN cần khoảng 20 nghìn tỷ đồng Việt Nam, tính bình quân mỗi DN cần khoảng 84 tỷ đồng. Nếu tính đến 2005 con số này vào khoảng 30 nghìn tỷ đồng, trung bình mỗi DN cần khoảng 100 tỷ đồng. Tóm lại, nhu cầu về vốn trung hạn, dài hạn của các DN là rất lớn. Với những khó khăn về lãi suất cao, khó khăn về thủ tục và điều kiện vay vốn, nếu DN chỉ huy động vốn từ các NHTM như hiện nay thì chắc chắn không thể đáp ứng được nhu cầu về vốn hiện nay của các DN. Vậy cần thiết phải có một thị trường chứng khoán có tổ chức và được quản lý chặt chẽ để tạo kênh huy động vốn trung hạn, dài hạn rất lớn cho các DN, đặc biệt là những DN có nhu cầu về vốn lớn. Mặt khác, theo các tài liệu cho biết thì các nguồn vốn trong dân là không nhỏ, (trên 20 000 tỷ Đồng-TBKT 40/97). Số vốn này chủ yếu là để gửi tiết kiệm hoặc tích trữ còn để đầu tư là rất thấp. Vậy nếu có thị trường chứng khoán sẽ kích thích dân chúng có ý thức tiết kiệm, đầu tư sinh lợi từ những khoản này. 3. Thị trường chứng khoán là sự đòi hỏi khách quan của nền kinh tế nước ta. Thứ nhất, thị trường chứng khoán góp phần giải quyết bài toán về sự thiếu vốn trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Như trên, thị trường chứng khoán có thể đáp ứng được những nguồn vốn trung hạn, dài hạn rất lớn cho các DN. Việc hình thành và phát triển thị trường chứng khoán sẽ giúp Nhà nước ta có được một công cụ để phát huy nội lực đồng thời giúp nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế. Thứ hai, sự phát triển thị trường chứng khoán là tất yếu khách quan khi nước ta chuyển sang cơ chế thị trường, vì cho phép các chủ thể kinh tế mở rộng quyền tự chủ tài chính với các hình thức huy động vốn da dạng. Như vậy, việc thiết lập thị trường chứng khoán ở Việt Nam là hết sức cần thiết, nó có ý nghĩa thực tiễn to lớn trong việc huy động vốn đầu tư phát triển kinh tế xã hội và đặc biệt là tạo điều kiện thuận lợi cho các luồng vốn ở trong và ngoài nước lưu chuyển thông suốt, góp phần tích cực vào việc đáp ứng nhu cầu về vốn nền kinh tế. II. NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN TRONG VIỆC HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 1. Thuận lợi. Thứ nhất, nước ta có một hệ thống chính trị ổn định. Thu nhập của dân cư gần đây được cải thiện rõ rệt. Uy tín của Đảng, Nhà nước đối với nhân dân ngày càng cao. Đây là tiền đề vững chắc mà mọi nền kinh tế đều cần đến thể hiện thông qua mối liên hệ biên chứng giữa chính trị và kinh tế. Thứ hai, nền kinh tế nước ta đã thoát ra khỏi khủng hoảng, tăng trưởng cao và liên tục trong những năm gần đây. Đây là tiền đề quan trọng cho các DN làm ăn có hiệu quả và có đủ điều kiện tham gia niêm yết chứng khoán. Mức tăng trưởng cao sẽ góp phần tăng mức tiết kiệm, đầu tư trên cơ sở đó tăng mức cầu về chứng khoán trên thị trường. Thứ ba, Đảng và Chính phủ ta đã có tầm nhìn đúng đắn và quan tâm thoả đáng về thị trường chứng khoán. Như đưa ra chính sách đa dạng hoá các hình thức sở hữu, cải cách hệ thống tài chính, cải cách Ngân hàng, cải cách hệ thống các DNNN. Cụ thể ngày 28/11/1996 Uỷ ban chứng khoán Nhà nước được ra đời và đến ngày 20/7/2000 thị trường chứng khoán Việt Nam chính thức đi vào hoạt động. Thứ tư, đối với lĩnh vực tài chính Ngân hàng, trong những năm cải cách và đổi mới đã cho ra đời khá nhiều NHTM, các tổ chức Bảo hiểm và các định chế tài chính khác. Đây là các nhân tố và điều kiện quan trọng đối với sự phát triển của thị trường tài chính nói chung và đối với sự phát triển của thị trường chứng khoán nói riêng. Thứ năm, hệ thống pháp luật của nước ta không ngừng được bổ sung và ngày càng hoàn thiện. Điều này đã tạo ra môi trường pháp lý ngày càng thuận lợi cho thị trường chứng khoán Việt Nam. Các văn bản pháp luật quan trọng là: Nghị quyết số 75/CP ngày 28/11/1996 về việc thành lập Uỷ ban chứng khoán Nhà nước và Nghị định số: 48/1998 NĐ-CP ngày 11/7/1998 về chứng khoán và thị trường chứng khoán… Đây là những cơ sở pháp lý quan trọng và căn bản đối với quá trình xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán ở nước ta. Thứ sáu, chế độ kế toán DN mới được sửa đổi và ban hành, áp dụng gần gũi hơn đối với các chuẩn mực quốc tế. Bên cạnh đó hệ thống kiểm toán, kể cả kiểm toán Nhà nước, phi Nhà nước, kiểm toán nước ngoài đã được hình thành và phát triển. Đây cũng là những mắt xích, đầu mối quan trọngkhông thể thiếu được trong quá trình hình thành và phát triển chứng khoán và thị trường chứng khoán. Thứ bảy, hệ thống thông tin liên lạc, truyền thông ở nước ta đang trên đà phát triển mạnh. Chiến lược tăng tốc độ Bưu điện là điều kiện hỗ trợ quan trọng để hình thành và phát triển thị trường chứng khoán. Có thể nói, trình độ và năng lực của ngành tin học Việt Nam đã đủ khả năng tham gia vào tham gia vào việc xây dựng các chương trình của hệ thống giao dịch điện tử thị trường chứng khoán. Cuối cùng, một yếu tố thuận lợi khác quan trọng đó là Việt Nam là nước phát triển sau nên có thể tranh thủ học hỏi kinh nghiệm các nước đi trước. Nhờ chính sách kinh tế mở cửa, hội nhập với bên ngoài, làm cho quan hệ kinh tế trong nước cũng như quan hệ kinh tế đối ngoại ngày càng thu được những kết quả rất đáng khích lệ. Bên cạnh đó, cũng có sự giúp đỡ nhiệt tình và hiệu quả của các quốc gia, các tổ chức quốc tế. Những yếu tố này đã có những tác động tích cực đến việc hình thành và phát triển thị trường chứng khoán ở nước ta. 2. Những khó khăn và thách thức. Đã nói đến thị trường thì phải nói đến hàng hoá cho thị trường đó. Song, trên thực tế hàng hoá thị trường chứng khoán Việt Nam còn nghèo nàn về số lượng và chủng loại, những công ty cổ phần đủ điều kiện tham gia niêm yết tại trung tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK) còn hạn chế. Hiện nay, có khoảng 43 công ty cổ phần có đủ điều kiện niêm yết chứng khoán trên trung tâm giao dịch chứng khoán. Nếu so sánh với tổng số công ty cổ phần hiện có (tính đến thời điểm 19/7/2000 là khoảng 630 công ty) thì con số này khá khiêm tốn (chiếm khoảng 6 %). Trên thực tế rất ít các công ty đã niêm yết chứng khoán tại trung tâm giao dịch chứng khoán Tp.Hồ Chí Minh tính đến cuối tháng 9/2000, mới chỉ có 4 công ty tham gia niêm yết. Hệ thống kiểm toán của nước ta tuy đã được hình thành và phát triển từng bước, nhưng vẫn chưa thể đáp ứng được nhu cầu của thị trường chứng khoán kể cả về số lượng và chất lượng, đặc biệt là khi qui mô của thị trường chứng khoán được mở rộng. Hiện nay, trên phạm vi cả nước có hơn 20 000 DN nếu chỉ cần 1/10 số DN này đăng ký phát hành và cần đến kiểm toán, thì khả năng hiện tại của ngành kiểm toán trong nước (trong cả nước có 19 công ty kiểm toán độc lập nước nước ngoài) thì sẽ cần bao nhiêu thời gian để hình thành công việc này? Cho đến nay, Việt Nam vẫn là nước có thu nhập bình quân thấp so với thế giới, do vậy khi thực hiện cổ phần hoá (CPH) các DNNN theo đúng kế hoạch và tiến độ đặt ra là vấn đề không dễ dàng. Hay do tập quán thanh toán bằng tiền mặt vẫn còn phổ biến trong công chúng và ngay cả đối với DN. Hệ thống thanh toán qua Ngân hàng hiệu quả chưa cao. Sự đỗ vỡ của một số NHTM, quỹ tiết kiệm đã làm giảm lòng tin của công chúng. Với những vấn đề như vậy đã gây sự cản trở cho việc phát triển thị trường chứng khoán ở nước ta. Đội ngũ cán bộ điều hành, quản lý thị trường chứng khoán còn non trẻ, thiếu cả số lượng, kinh nghiệm và kiến thức nghiệp vụ. Để có đủ tri thức, kinh nghiệm và một đội ngũ cán bộ quản lý điều hành vững vàng, dày dạn là cả một thách thức lớn đối với ngành chứng khoán nước ta. Mặc dù còn quá ít thời gian để thị trường chứng khoán Việt Nam có thể khẳng định được vai trò trong đời sống kinh tế, nhưng dù sao cần phải thấy rằng, những diễn biến của trung tâm giao dịch chứng khoán Tp Hồ Chí Minh thời gian qua đã bộc lộ nhiều mâu thuẫn không thể giải quyết. Thứ nhất, hệ thống trung gian tài chính với tư cách là “hoạt chất” bôi trơn hoạt động của thị trường chứng khoán đang được dư luận cho là vừa thiếu vừa yếu. Những mâu thuẫn phát sinh ở đây là, bối cảnh hàng hoá của thị trường chứng khoán còn quá nghèo nàn. Thứ hai, thực tế hoạt động của thị trường chứng khoán cho thấy, quy mô của hệ thống lưu ký còn quá nhỏ, đòi hỏi phải được mở rộng ra ở nhiều địa phương để đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư. Điều này không hề đơn giản, vì đi kèm với nó cần phải phát triển hạ tầng kỹ thuật thông tin hiện đại, đòi hỏi chi phí không nhỏ, khó có thể đáp ứng trong điều kiện hoàn cảnh hiện nay. Thứ ba, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách ưu đãi, như các công ty chứng khoán , các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ được miễn thuế thu nhập DN thêm một năm và được giảm 50 % trong 2 năm tiếp theo. Tuy nhiên những ưu đãi này vẫn không thể hạn chế được những thua lỗ của họ. Thứ tư, khi thành lập thị trường chứng khoán, mong muốn của các nhà quản lý là mở rộng kênh huy động vốn dài hạn cho phát triển kinh tế. Tuy nhiên, qua 3 tháng hoạt động mới chỉ có 4 công ty niêm yết. Một số công ty chưa niêm yết khi được hỏi lý do đều trả lời rằng, nếu có nhu cầu vốn thì vay vốn của Ngân hàng rẻ hơn. Qua phân tích những mâu thuẫn trên để thấy rằng con đường ổn định và phát triển thị trường chứng khoán theo đúng nghĩa của nó là không hề bằng phẳng. III. NHỮNG ĐIỀU KIỆN CẦN THIẾT ĐỂ HÌNH THÀNH THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM 1. Điều kiện kinh tế. Đây là nền tảng đảm bảo cho thị trường chứng khoán hoạt động và được quyết định lớn bởi các chính sách kinh tế của Nhà nước. Hiến pháp 1992 xác định “Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với các hình thức đa dạng dựa trên chế độ sở hưũ toàn dân, sở hữu tập thể và tư nhân.” Hiện nay Việt Nam có khoảng hàng nghìn DN các loại, cá khoảng 700 DN đã được cổ phần hoá. Trong những DN đã cổ phần hoá có rất nhiều DN có khả năng phát hành và niêm yết trên thị trường chứng khoán. Với một nền kinh tế tăng trưởng nhanh, phát triển ổn định và với hệ thống tiền tệ tỷ giá ổn định, hệ thống thị trường vốn ngắn hạn đã được thiết lập và hoạt động trôi chảy sẽ góp phần lớn cho thị trường chứng khoán với tư cách là thị trường vốn trung và dài hạn hoạt động có hiệu quả. Mấy năm qua, tăng trưởng kinh tế Việt Nam khoảng 8%/ năm. Đây là kết quả điều hành kinh tế vĩ mô của Nhà nước, là sự cố gắng của tất cả các cấp, ngành, của toàn thể nhân dân lao động Việt Nam. Tuy nhiên, do xuất phát điểm còn thấp nên chúng ta còn gặp nhiều khó khăn. Nếu cứ duy trì tốc độ từ 8-10%/ năm, thì trong vòng 15 năm, thì thu nhập bình quân sẽ tăng gấp đôi và sẽ cho phép thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển mạnh. Chính thị trường chứng khoán đáp ứng một nhu cầu rất lớn về vốn dài hạn cho các DN. Đây cũng chính là yếu tố tác động trở lại tới nền kinh tế, giúp nền kinh tế phát triển cao hơn, nhanh hơn. 2. Điều kiện pháp lý. Tất cả các loại chứng khoán đư ra bán hay mua trên thị trường đều phải tuân theo một khung pháp lý tiêu chuẩn theo luật định. Các vấn đề sở hữu chứng khoán, đều phải được chứng nhận của các cơ quan môi giới. Vì vậy hệ thống thị trường chứng khoán đòi hỏi một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh. Mặc dù có nhiều luật lệ ràng buộc trên thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, còn phát sinh nhiều biểu hiện tiêu cực như: gian lận, đầu cơ gây rối thị trường, trục lợi cá nhân…làm giảm niềm tin của nhà đầu tư. Nếu kéo dài có thể gây khủng hoảng thên thị trường chứng khoán. Do vậy, việc xây dựng hệ thống pháp lý là điều kiện quan trọng tạo hành lang pháp lý cho thị trường chứng khoán phát triển và là tiền đề cho việc duy trì lòng tin và bảo vệ công chúng đầu tư. 3. Điều kiện kỹ thuật tổ chức. Thứ nhất là, xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho sự phát triển thị trường chứng khoán. Tức phải xây dựng hệ thống giao dịch, hệ thống xử lý dữ liệu, hệ thống thông tin và hệ thống thanh toán bù trừ, lưu trữ chứng khoán với mô hình và mức độ tự động hoá ban đầu thích hợp. Thứ hai là, các tổ chức hoạt động trên thị trường chứng khoán. Đây là yếu tố có ý nghĩa rất quan trọng. Các tổ chức như các công ty bảo lãnh phát hành chứng khoán, các công ty môi giới, các công ty tư vấn, các quỹ đầu tư. Ngoài cần phát triển các nhà đầu tư cá tổ chức. Đây là các chủ thể chiếm tỷ trọng lớn trong việc phát triển cầu thị trường. IV. QUÁ TRÌNH CHUẨN BỊ CHO SỰ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM 1. Khuôn khổ pháp lý. Đầu năm 1990, việc nghiên cứu xây dựng cơ sở lý luận và phân tích các điều kiện ra đời cho thị trường chứng khoán Việt Nam đã được thực hiện. Trên cơ sở đó một số bản đề án hình thành thị trường chứng khoán Việt Nam đã được xây dựng và trình Chính phủ xem xét. Năm 1994 ban chỉ đạo soạn thảo pháp lệnh về thị trường chứng khoán bao gồm đại diện của Bộ tài chính, Ngân hàng Nhà nước, Bộ tư pháp…đã được thành lập để thống nhất đầu mối, triển khai xây dựng đề án về thị trường chứng khoán và soạn thảo một số văn bản pháp qui liên quan. 1.1. Thành lập Uỷ ban chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) UBCKNN được thành lập từ ngày 28/11/1996, là cơ quan thuộc Chính phủ, có chức năng tổ chức và quản lý Nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Nhiệm vụ của UBCKNN: Xây dựng hệ thống pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Tổ chức xây dựng, phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam. Cấp, đình chỉ hay thu hồi giấy phếp hoạt động của các định chế tài chính hoạt động trên thị trường chứng khoán. Tổ chức giáo dục, đào tạo và cấp chứng chỉ cho mọi đối tượng tham gia thị trường chứng khoán. UBCKNN có trụ sở đặt tại Hà Nội và một cơ quan đại diện tại Tp Hồ Chí Minh . Sơ đồ: Tổ chức bộ máy UBCKNN Việt Nam Các uỷ viên kiểm nhiệm - Một thứ trưởng Bộ khế hoạch - Một thứ trưởng Bộ tài chính - Một thứ trưởng Bộ tư pháp - Một Phó thống đốc NHNN Cơ quan đại diện Tp -HCM Sở GDCK Tp - HCM Văn phòng Vụ phát triển TTCK Vụ quản lý kinh doanh chứng khoán Vụ quản lý phát hành chứng khoán Vụ quan hệ quốc tế Vụ tổ chức cán bộ và đào tạo Thanh tra Chủ tịch Phó chủ tịch Sơ đồ: TTCK Việt Nam và các tổ chức liên hệ. Uỷ ban chứng khoán Nhà nước Cơ quan tư vấn Công ty CK1 Công ty CK2 Công ty CK3 Dân chúng Người tiết kiệm Nhà đầu tư Doanh nghiệp Quỹ đầu tư Quỹ bảo hiểm Quỹ tương hỗ Kho bạc Nhà nước Chính quyền địa phương Trung tâm thông tin - Thông tin - Thanh toán - Quản lý chứng khoán Trung tâm giao dịch chứng khoán Tp Hồ Chí Minh Công ty kiểm toán ******* Nghị định 48/1998 NĐ-CP là khung pháp lý cơ bản đầu tiên về thị trường chứng khoán Việt Nam, thể hiện quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta trong việc xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán. Nghị định này đã nêu lên một số nguyên tắc cơ bản về quản lý và phát hành chứng khoán ra công chúng, về thị trường giao dịch tập trung, phạm vi kinh doanh của các công ty chứng khoán, quỹ đầu tư, sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài, những hành vi hạn chế, cấm trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Những văn bản trên đã tạo ra khuôn khổ pháp lý cho sự hình thành và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam. 1.2. Qui chế phát hành. Phát hành cổ phiếu, tức là công ty bán cổ phần thu tiền hoặc các tài sản khác phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Ở đây có hai vấn đề cần xem xét: Loại lượng hàng hoá đem bán và phương thức bán. Trong đó chú ý đến phương thức bán (phát hành) gồm các phát hành rộng (ra công chúng) và phát hành hẹp (có địa chỉ). Phát hành hẹp: số lượng người mua không lớn và chỉ phát hành cho các công ty đầu tư. Phát hành rộng: có đặc điểm ngược với phương thức phát hành hẹp. Ta có sơ đồ của quy trình phát hành rộng: Công ty phát hành chứng khoán (CP,TP Chứng chỉ đầu tư, chứng khoán khác , Hồ sơ xin cấp giấy phép PHCK UBCKNN Phát hành CP Lần đầu tiên Các điều kiện phát hànhCP Lần PH Thêm tổng giá trị CP đang lưu hành Giá trị CPPH £ tổng giá trị CP đang lưu hành Các điều kiện để tổ chức sử dụng vốn PHTP Phát hành thêm CP Phát hành TP Công bố việc PH (£5 ngày) Chào bán (£90 ngày) Đình chỉ PH Thu hồi Giấy phép PH Nộp lệ phí cấp giấy phép (0,02 %) Chế độ báo cáo (£10 ngày sau khi kết thúc PH) Không cấp phép (hồ sơ không hợp lệ) Cấp phép(£45 ngày) Trừ TP Chính phủ (1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (8) (8) Trên đây là quy chế phát hành chứng khoán ra công chúng. Để cho các công ty cổ phần tận dụng hết khả năng và cơ hội huy động vốn thì ngoài luật DN hiện hành cần hoàn thiện luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán để thị trường chứng khoán hoạt động có hiệu quả. 1.3. Phương thức và quy mô hoạt động của thị trường giao dịch chứng khoán Việt Nam. Về quy mô thị trường giao dịch chứng khoán Tp Hồ Chí Minh được tổ chức khá khiêm tốn, phù hợp với chức năng , vai trò của nó trong giai đoạn đầu. Ban giám đốc điều hành Hành chính nhân sự Quản lý thành viên Quản lý niêm yết Quản lý giao dịch Giám sát thị trường Đăng ký lưu ký thanh toán bù trừ Công nghệ tin học Nghiên cứu thông tin thị trường Về cơ cấu tổ chức: Tất cả có hơn 80 các bộ công nhân viên làm việc tại trung tâm giao dịch chứng khoán. Về chức năng: đây là thị trường tập trung của các chứng khoán niêm yết được phát hành ra công chúng. Các chức năng là: quản lý, điều hành và giám sát các hoạt động giao dịch nhằm đảm bảo cho thị trường chứng khoán hoạt động giao dịch an toàn công khai, công bằng và hiệu quả bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư. Hệ thống giao dịch tại trung tâm giao dịch chứng khoán là hệ thống giao dịch tự động có khả năng xử lý 300 000 lệnh giao dịch/ ngày, với trang thiết bị và bảng điện tử tiêu chuẩn. Hệ thống này cho phép tiến hành theo hai phương thức: (1) Khớp lệnh định kỳ và (2) thoả thuận (áp dụng riêng cho các giao dịch với khối lượng lớn). Về tầm quan trọng trung tâm giao dịch chứng khoán là tiền đề cho việc thành lập sở giao dich chứng khoán Việt Nam và cũng là bước tất yếu trong giai đoạn đầu hình thành thị trường chứng khoán Việt Nam. Theo kinh nghiệm của các nước trên thế giới việc thành lập trung tâm giao dịch chứng khoán sẽ rút ngắn được thời gian chuẩn bị các điều kiện vật chất tiền đề, con người và khung pháp lý cho việc thử nghiệm thành lập thị trường chứng khoán ở Việt Nam. 2. Về hàng hoá cho thị trường chứng khoán Việt Nam. Chuẩn bị hàng phong phú và chất lượng là công tác then chốt trong việc tổ chức thị trường chứng khoán. Vì vậy cần phải thúc đẩy và nắm bắt cụ thể tình hình CPH, khối lượng chứng khoán hiện có, cũng như khả năng thực tế và nguyện vọng của các DN phát hành và niêm yết trái phiếu, cổ phiếu. a) Trái phiếu: Trái phiếu được niêm yết tại trung tâm giao dịch chứng khoán bao gồm trái phiếu Chính phủ và trái phiếu DN. - Trái phiếu Chính phủ: được phát hành để bù đắp thiếu hụt ngân sách Nhà nước và phục vụ đầu tư phát triển. Bao gồm các loại như: tín phiếu kho bạc ( 1 năm) hoặc trái phiếu công trình - và đều do Bộ tài chính phát hành. - Thị trường trái phiếu Chính phủ những năm gần đây có xu hướng tăng. Tuy nhiên, do tính chất của tín phiếu kho bạc là thời gian ngắn nên rất kém hiệu quả trong việc tạo cầu hàng hoá chứng khoán. Đối với trái phiếu công trình phải duy trì được liên tục nếu không cũng rất nhanh hết thời hạn. Bên cạnh đó, việc phát hành trái phiếu xây dựng tổ quốc cũng góp nguồn cung cấp hàng hoá quan trọng cho thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay. Dự kiến số lượng huy động khoảng 3000-4000 tỷ đồng trong năm 1999, với thời hạn 5 năm, in mệnh giá, không ghi tên có thể chuyển nhượng và dễ dàng thanh toán. - Về lãi suất phát hành có xu hướng giảm và phù hợp với lãi suất của các NHTM. Bảng: lãi suất tín phiếu, trái phiếu bán lể qua hệ thống kho bạc. Nguồn: kho bạc Nhà nước. Đơn vị: % 1991 1992 1993-1994 1995 1996 1997 1998 4-5 % 3 % 2% 1,75 % 1,4 % 1 % 0,97 % b) Cổ phiếu và cổ phần hoá doanh nghiêp Nhà nước. Theo luật công ty và luật DNNN Việt Nam thì chỉ có công ty cổ phần và DNNN có quyền phát hành cổ phiếu. Hiện nay, có khoảng 200 CTCP và 5800 DNNN trong đó chỉ có vài trăm DN có cổ phiếu. Và hiện nay, có khoảng hơn 50 NHCP và tổng số vốn điều lệ là 2200 tỷ đồng do các cổ đông đóng góp. Đa số các cổ đông là các NHTM, tổng công ty và một phần nhỏ là do cá nhân nắm giữ. Về tư tưởng CPH bắt đầu từ Đại hội VI. Tính đến cuối năm 1998 đã có 116 DNNN đã CPH với tổng số vốn điều lệ ttrên 700 tỷ đồng; đến giữa tháng 9 có khoảng trên 154 DN đã CPH. Hiện nay (cuối 9/2000) có khoảng 470 DNNN đã hoàn thành công việc CPH. Tuy còn chưa đạt chỉ tiêu mà Chính phủ đặt ra song kết quả trên cũng góp phần lớn để tạo “hàng hoá” cho thị trường chứng khoán nước ta hiện nay. 3. Vấn đề tạo nguồn nhân lực cho thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán đòi hỏi đổi ngũ nhân viên tinh thông nghiệp vụ, có bản lĩnh phẩm chất tốt. ở Việt Nam, nói chung các yêu cầu này chưa được đảm bảo. Về đào tạo cán bộ: Bộ tài chính, Ngân hàng Nhà nước, các trường đại học, các viện nghiên cứu đã tổ chức một số khoá đào tạo về thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, vẫn còn mang tính chất phôi thai, chưa có hệ thống. Ngày 5/12/1997, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 1038/1997/ QĐ-TTg về việc thành lập trung tâm nghiên cứu khoa học và bồi dưỡng nghiêp vụ chứng khoán và thị trường chứng khoán, Năm 1999, để đáp ứng nhu cầu đào tạo, trung tâm đã có chương trình đào tạo của mình, có nhiệm vụ trang bị kiến thức và kỹ năng cho tất cả những ai muốn nắm bắt về lĩnh vực này. CHƯƠNG III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ THÚC ĐẨY SỰ HOẠT ĐỘNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM I. HOÀN THIỆN CƠ CẤU TỔ CHỨC THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM Trên thế giới từ lâu đã tồn tại mô hình thị trường chứng khoán hai cấp: thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Thị trường sơ cấp còn gọi là thị trường giao dịch phi tập trung (OTC-over the counter). Thị trường này được hình thành và phát triển một cách tự phát từ nhiều năm nay, và giao dịch các loại chứng khoán chưa niêm yết. Mặc dù thị trường OTC là sân chơi khá phù hợp và hiệu quả đối với các DN Việt Nam, nhưng chính phủ ta vẫn chưa có khuôn khổ pháp lý cho loại hình thị trường này hoạt động. Thị trường thứ cấp hay thị trường giao dịch tập trung tại trung tâm giao dịch chứng khoán, giao dịch các loại chứng khoán dã niêm yết. Về cơ cấu tổ chức của thị trường chứng khoán tập trung thì tuỳ vào từng điều kiện cụ thể ở mỗi nước mà có những đăc điểm khác nhau. Đối với nước ta, trong giai đoạn đầu hoạt động, cơ cấu tổ chức bao gồm: Uỷ ban chứng khoán Nhà nước (UBCKNN). Trung tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK). Hệ thống các công ty chứng khoán (CtyCK) và hiệp hội những nhà kinh doanh chứng khoán. Các quỹ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docDATV1040.doc
Tài liệu liên quan