Nhiều công ty đã tin rằng cần thiết phải đánh giá các khả năng bán của các thành viên kênh một cachs trực tiếp hơn bằng cách đánh giá những người bán hàng của họ. Những đánh giá xếp hạng cá nhân này cho phép công ty nhận thức rõ hoạt động của các bộ phận bán hàng và phát triển sự xếp hạng toàn bộ khả năng bán cho mỗi thành viên kênh, đánh giá này cũng có thể được sử dụng để so sánh giữa các thành viên kênh. Có một số các công ty phát triển sự phân loại chất lượng người bán thông qua sử dụng số lượng thoừi gian bán tăng thêm, theo nhu cầu của một thành viên kênh. Nếu lực lượng bán hán hàng tỏ ra yếu kém về chuyên môn kỹ thuật tất yếu sẽ ảnh hưởng xấu đến kết quả bán hàng của họ trong tương lai.
30 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1510 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả phân phối sản phẩm bánh kẹo Kinh Đô, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rực tiếp, các sản phẩm có giá trị đơn vị cao thường do lực lượng bán của công ty bán chủ không qua các trung gian. Ngoài ra khi thiết kế và lựa chọn kênh phân phối công ty cần phải chú ý đến các trung gian như: khả năng, mặt mạnh, yếu của các trung gia trọng việc thực hiện nhiệm vụ của họ, các trung gian có khả năng khác nhau trong việc thực hiện xúc tiến bán, lưu kho,khai thác thị trường và công ty cũng cần chú ý đến ảnh hưởng của các kênh của người cạnh tranh, công ty có thể lựa chọn kênh phân phối giống như kênh phân phối của đối thủ cạnh tranh hoặc có thể khác hoàn toàn. Với sự cạnh tranh càng mạnh công ty cần phải thiết kế kênh có sự liên kết chặt trẽ.
Đặc điểm của công ty cũng là yếu tố quan trọng đến việc thiết kế kênh phân phối. Quy mô của công ty sẽ quyết định quy mô của thị trường và khả năng của công ty tìm được các trung gian thích hợp. Nguồn lực của công ty sẽ quyết định nó có thể thực hiện các chức năng phân phối nào và nhường cho các trung gian các chức năng nào.Đặc điểm của môi trường đòi hỏi công ty phải lựa chọn kênh phân phối phù hợp nhất, phải đúng với quy định và ràng buộc của pháp luật đó là không được thiết kế các kênh có xu hướng triệt tiêu cạnh tranh và tạo độc quyền, khi nền kinh tế suy thoái công ty thường sử dụng kênh ngắn và bỏ bớt các dịch vụ không cần thiết để giảm chi phí trong kênh điều đó sẽ không làm cho giá tăng lên.
Ngoài những tiêu chuẩn chung để lựa chọn kênh phân phối nêu trên doanh nghiệp cần phải dựa vào các tiêu chuẩn chi tiết và hiệu quả đó là yêu cầu của việc bao quát thị trường của phân phối do các đặc tính của sản phẩm, môi trường bán hàng, nhu cầu và kỳ vọng của khách hàng tiềm năng. Dựa vào tổng chi phí phân phối, khi lựa chon kênh phân phối công ty phải tính đến tổng chi phí phân phối của cả hệ thống kênh, một kênh phân phối có tổng chi phí phân phối vật chất nhỏ nhất sẽ được chọn. Cuối cùng là mức độ linh hoạt của kênh, mức độ linh hoạt của kênh mà tôt sẽ làm cho công ty dễ dàng thích ứng với những thay đổi của thị trường, nhu cầu của khách hàng.
b.Những hình thức phân phối của công ty.
Trong một hệ thống kênh phân phối của công ty sẽ bao gồm nhiều kênh phân phối có cơ cấu khác nhau. Mỗi kênh phân phối có thể không qua trung gian hoặc nhiều trung gian. Trong thị trường hàng tiêu dùng thông thường mô hình kênh phân phối được trình bày theo sơ đồ sau:
Nhà sản xuất
Bán lẻ
Người tiêu dùng cuối cùng
Bán buôn
Bán lẻ
Đại lý
Bán buôn
Bán lẻ
+ Loại kênh 1: kênh phân phối trực tiếp từ công ty đến người tiêu dùng. Loại kênh này thường được sử dụng cho các loại hàng hoá có tính thương phẩm đặc biệt ( hàng dễ hỏng, dễ vỡ ) hoặc được sử dụng ở thị trường nhỏ mà nơi đó nhà sản xuất độc quyền bán cho người tiêu dùng. Loại kênh này có ưu thế đẩy nhanh tốc dộ lưu thông hàng hoá, bảo đảm sự giao tiếp chặt chẽ của nhà sản xuất trong lĩnh vực phân phối đảm bảo tính chủ đạo của nhà sản xuất trong kênh phân phối. Những loại kênh này có những hạn chế: trình độ chuyên môn hoá thấp, tổ chức và quản lý kênh phức tạp, vốn và nhân lực phân tán, tốc độ chu chuyển vốn chậm...
+ Loại kênh: 2,3,4: là những loại kênh phân phối có sử dụng trung gian. Trong mô hình trên số cấp trung gian mới chỉ đến cấp3 nhưng trong thực tế số cấp trung gian có thể đến cấp5 hoặc cao hơn. Thông thường ở địa bàn càng hẹp thì số cấp trung gian càng ít. Ơ địa bản rộng số cấp trung gian có thể lớn hơn số cấp trung gian phụ thuộc lớn vào chính sách phân phối của công ty, tiềm lực của công ty cũng như sự phát triển thị trường của nơi mà công ty phân phối. Kênh thường được sử dụng với những hàng hoá sản xuất tập trung nhưng phân phối phân tán, do quan hệ mua bán trong kênh nên quan hệ rất chặt trẽ, vòng quay vốn nhanh, luồng vận động sở hữu có nhiều vòng hơn. Tuy nhiên, do kênh dài nên khả năng rủi ro lớn, việc thích hợp và điều hành kênh khó khăn hơn, thời gian lưu thông hàng hoá dài hơn, chi phí phân phối cả kênh lớn.
Do vậy để đạt được sự bao phủ thị trường tốt nhất và những điều kiện mục tiêu đề ra như chi phí cho phân phối thời gian lưu thông hàng hoá.....Công ty phải quyết định về số lượng các trung gian ở mỗi mức độ phân phối sao cho hợp lý nhất. Có ba mức độ phân phối.
+ Phân phối rộng rãi nghĩa là công ty cố gắng đưa sản phẩm và dịch vụ của mình tới càng nhiều người bán lẻ càng tốt, thường được sử dụng với những hàng hoá và dịch vụ thông dụng như bánh kẹo, thuốc lá...
+ Phân phối duy nhất : công ty chỉ phân phối sản phẩm của mình duy nhất cho một người bán lẻ, người bán lẻ này bán sản phẩm của công ty ở một khu vực địa bàn cụ thể. Công ty yêu cầu các nhà bán buôn chỉ bán sản phẩm của mình không được bán sản phẩm của đối thủ cạnh tranh, kiểu kênh phân phối này công ty mong muốn người bán lẻ sẽ tích cực hơn đồng thời kiểm soát chính sách của người trung gian về việc định giá bán, tín dụng, quảng cáo và các dịch vụ khác.
+ Phân phối chọn lọc nằm giữa kênh phân phối rộng rãi và kênh phân phối duy nhất, ở loại kênh này công ty tìm kiếm một số người bán lẻ bán sản phẩm của công ty ở một số khu vực cụ thể. Đây là hình thức phân phối phổ biến nhất và thường dùng cho các loại hàng hoá mua có suy nghĩ và cho các công ty đang tìm cách thu hút trung gian. Nhà sản xuất có thể tập trung nỗ lực, mở quan hệ làm ăn tốt đẹp với các trung gian chọn lọc nên đạt được quy mô thị trường thích hợp và tiết kiệm được chi phí phân phối, do phân phối có chọn lọc công ty có thể tìm cho mình một số các trung gian thích hợp nhất.
4.Quản lý và đánh giá hoạt động của kênh phân phối.
Sau khi công ty đã chọn được một phương án kênh phải tuyển chọn, động viên và đánh giá từng người trung gian. Các công ty nhận thấy rằng việc sử dụng các trung gian bán hàng hiệu quả hơn nhờ tối thiểu hoá số lần tiếp súc bán cần thiết để thoả mãn thị trường mục tiêu. Nhờ quan hệ tiếp xúc, việc chuyên môn hoá và quy mô hoạt động, những người trung gian sẽ đem lai cho công ty lợi ích nhiều hơn so với công ty tự làm lấy.
a.Lựa chon trung gian tham gia kênh.
Việc lựa chọn trung gian của kênh phân phối cũng là một khâu hết sức quan trọng trong việc thành hay bại của kênh phân phối của công ty, việc tím kiếm các thành viên của kênh là giai đoạn cuối của thiết kế kênh và cúng là một nhân tố chiến lược của công ty. Cụ thể là các trung gian được chọn là thành viên kênh cần phản ánh chiến lược kênh mà công ty đã phát triển để đạt mục tiêu phân phối của công ty.
Trong một kênh marketing, qua nhiệm vụ và trách nhiệm của các thành viên kênh từ khâu sản xuất đến khâu tiêu dùng, người ta chia các thành viên kênh thành hai loại: loại chính và bổ trợ.
Thành viên chính của kênh: là tập hợp các tổ chức hình thành nên cấu trúc chính thức của một kênh phân phối. Nó tham gia váo quá trình đàm phán để phân chia những công việc phân phối.
Thành viên chính thức của kênh bao gồm:
+ Người sản xuất, nhà cung cấp, nhà nhập khẩu.Được xác định như là những phần tử đầu kênh quyết định việc cung cấp cho thị trường những sản phẩm hoặc dịch vụ được sản xuất từ nhiều ngành hoặc từ nhiều lĩnh vực khác nhau.
+ Các nhà trung gian:
+ Người bán buôn : là tập hợp những tổ chức, cá nhân mua hàng hoá với khối lượng lớn để bán lại cho người khác với khối lượng nhỏ, cho người bán lẻ, các doanh nghiệp sản xuất ....Mức độ tập trung của người bán buôn rất lớn, có khả năng chi phối thi trường. Thường có các dạng bán buôn sau:
Người bán buôn hàng hoá: là những người thực hiện đầy đủ chức năng của người bán buôn nói chung có quyền sở hữu hàng hoá và có khả năng ảnh hưởng tới marketing. Họ có ưu thế trong kênh phân phối nhờ có quy mô kinh doanh lớn, quan hệ rộng. Do đó có thể đạt được sự tín nhiệm của nhà sản xuất lẫn các trung gian khác thông qua các hoạt động trợ giúp như cung cấp vốn, tư vấn kỹ thuật, cung cấp thông tin.
Đại lý bán buôn: Họ không có quyền sở hữu sản phẩm về những sản phẩm được bán ra chỉ được hưởng hoa hồng từ nhà sản xuất hoặc người bán buôn. Họ thực hiện một số công việc hạn chế theo sự phân công như là dự trữ tối thiểu sản phẩm, cung cấp dịch vụ cho khách hàng, thu thập thông tin.....Họ có thể đồng thời tham gia vào việc tiếp xúc với khách hàng để phát triển thị trường và đưa ra các ý kiến chiến lược cho nhà sản xuất.
Môi giới : Có chức năng thiết lập tiếp xúc giữa người sản xuất với những người bán buôn và cả khoa học công nghệ. Họ không có quyền sở hữu hàng hoá nhưng giúp cho sản phẩm đúng hướng, tiết kiệm thời gian và chi phí, giảm bớt những tổn thất liên quan đến bảo quản dự trữ. Họ còn có thể tư vấn, tập hợp các đơn đặt hàng vì thế trên thị trường thế giới vai trò của môi giới là rất quan trọng.
Chi nhánh và đơn điệu của ngơừi sản xuất: Thường được thiết lập để thực hiện những công việc của lực lượng bán ở cáca thị trường xa. Đồng thời thực hiện các hoạt động tiếp xúc khoa học, đơn đặt hàng và thu nhập thông tin thị trường . Những đại diện của người sản xuất thực hiện những công việc hạn chế trong một vùng lãnh thổ nhất định .
Người bán lẻ : Là những cá nhân hay tổ chức mua sản phẩm của người bán buôn hoặc người sản xuất để bán lại cho người tiêu dùng .Người bán lẻ thường xuyên tiếp xúc với khách hàng cuối cùng nên hiểu kỹ về nhu cầu thị trường,họ có hệ thống cửa hàng phong phú tiện lợi cho việc bán hàng .
Việc nghiên cứu các nhiệm vụ và chức năng của các trung gian giúp công ty dễ dàng lựa chọn cho mình một hay một số các trung gian thích hợp và cần thiết cho kênh phân phối của công ty .
Các công ty dùng cấu trúc kênh trực tiếp ( người sản xuất đến người tiêu dùng cuối cùng ) thì không phải lo lắng gì về quyết định tuyển dụng ,tuy nhiên việc thay đổi cấu trúc kênh lúc này công ty mới tính đến việc tuyển chọn trung gian.Đối với các công ty trú trọng đến phân phối trọn lọc cần thiết phải tuyển chọn thành viên kênh cẩn thận. Việc tuyển chọn các nhà phân phối là quyết định quan trọng để đảm bảo thực hiện và kiểm tra các hoạt động marketing cho sản phẩm của công ty cho các nhà bán lại thành công.
Qúa trình lựa chọn thành viên kênh bao gồm 3 bước cơ bản sau:
+Tìm kiếm các thành viên kênh có khả năng
+Dùng các tiêu chuẩn tuyển chọn để đánh giá khả năng phù hợp với thành viên kênh
+Bảo đảm các thành viên kênh tương lai này chắc chắn tham gia kênh
b) Khuyến khích các thành viên.
Ngay cả khi công ty đã triển khai một hệ thống tốt nhất để tìm hiểu về những yêu cầu và khó khăn của các thành viên trong kênh, sử dụng các phương thức để giúp đỡ các thành viên kênh của mình, giúp họ khắc phục phần nào khó khăn, nhưng đi đôi với nó vẫn là sự kiểm soát thường xuyên và hiệu quả nhằm có được một đội ngũ các thành viên trong kênh năng động.
Khi cố gắng kích thích các thành viên trong kênh các công ty đều muốn có càng nhiều quyền lực càng tốt nhằm giúp cho việc chỉ đạo của mình. Trrong ngắn hạn công ty phải làm việc với quyền lực đã có của mình để lãnh đạo các thành viên trong kênh nhằm đạt tới một sự khuyến khích cao hơn.
Các trung gian phải được thường xuyên khuyến khích để làm việc tốt hơn. Trước hết nhà sản xuất phải tìm hiểu nhu cầu và mong muốn của các thành viên trong kênh, bởi vì các trung gian là những doanh nghiệp kinh doanh độc lập, họ là một thị trường độc lập, họ có sức mạnh riêng. Các trung gian hoạt động như một người mua cho khách hàng, họ nỗ lực bán cả nhóm hàng chứ không phải một mặt hàng riêng lẻ.
Có nhiều phương pháp các công ty thường sử dụng để khuyến khích các thành viên kênh hoạt động, trong đó ba phương pháp phổ biến là hợp tác, thiết lập quan hệ thành viên và xây dựng chương trình phân phối. Các phương pháp này đều tập chung vào việc tạo ra quan hệ liên kết chặt chẽ trong kênh.ở chương trình phân phối, nhà sản xuất lập ra bộ phận nằm trong bộ phận marketing để hoạch định quan hệ với các trung gian phân phối, nó xác định nhu cầu của các trung gian và xây dựng các chương trình phân phối đẻ giúp đỡ các thành viên kênh hoạt động đạt mức tối ưu.
c) Đánh giá hoạt các thành viên kênh phân phối
Công ty phải định kỳ đánh giá hoạt động của các thành viên kênh theo những tiêu chuẩn như: Mức doanh số đạt được, mức độ lưu kho trung bình, thời gian giao hàng, cách xử lý hàng hoá thất thoát hoặc hư hỏng, mức độ hợp tác trong các chương trình quản cáo và huấn luyện công ty và những dịch vụ mà họ cung cấp.
Việc đạt định mức cho các doanh số trung gian để sau từng thời kỳ đánh giá mức độ đạt được của từng trung gian có tác dụng khuyến khích hoạt động của họ, con số này cũng giúp công ty thấy được của toàn kênh và bổ sung các biện pháp marketing kịp thời trong phân phối. Tuy nhiên đánh giá thành viên kênh phải theo các tiêu chuẩn và được các thành viên kênh ủng hộ.
Một chỉ tiêu quan trọng khác để đánh giá hoạt động của thành viên kênh làm mức độ lưu kho hợp lý. các công ty muốn thành viên kênh thực hiện những yêu cầu dự trữ tồn kho đều đặn được thể hiện cụ thể trong thoả thuận ban đầu giữa các thành viên kênh, thành viên kênh phải tuân theo và được đánh giá theo thoả thuận đó.
Nhiều công ty đã tin rằng cần thiết phải đánh giá các khả năng bán của các thành viên kênh một cachs trực tiếp hơn bằng cách đánh giá những người bán hàng của họ. Những đánh giá xếp hạng cá nhân này cho phép công ty nhận thức rõ hoạt động của các bộ phận bán hàng và phát triển sự xếp hạng toàn bộ khả năng bán cho mỗi thành viên kênh, đánh giá này cũng có thể được sử dụng để so sánh giữa các thành viên kênh. Có một số các công ty phát triển sự phân loại chất lượng người bán thông qua sử dụng số lượng thoừi gian bán tăng thêm, theo nhu cầu của một thành viên kênh. Nếu lực lượng bán hán hàng tỏ ra yếu kém về chuyên môn kỹ thuật tất yếu sẽ ảnh hưởng xấu đến kết quả bán hàng của họ trong tương lai.
Phần II
THựC TRạNG Và NHữNG NHÂN Tố ảNH HƯởNG ĐếN
QUá TRìNH PHÂN PHốI SảN PHẩM BáNH KẹO KINH ĐÔ
CủA CÔNG TY CửU LONG
I.Giới thiệu về công ty và lỉnh vực hoạt động kinh doanh của công ty Cửu Long
1. Giới thiệu về công ty
Trước những năm 1983 công ty mới chỉ là một tiệm phục vụ và kinh doanh nước giải khát tại Hàng Đào.Sau những năm 1983 nhận thấy thị trường kinh doanh bánh kẹo ở miền bắc có tiềm năng phát triển,từ một tiệm giải khát đă chuyển sang thành lập công ty cửu long chuyên kinh doanh phân phối bánh kẹo Kinh Đô và thuốc lá vĩnh hội, hiện công ty đóng tại 253 - Phố Vọng Hà nội
Hiện nay ,tổng số công nhân viên và cán bộ theo lương biên chế của công ty là 135 người ,ngoài ra còn có 40 nhân viên bán hàng thương lượng theo hợp đồng.Tuy cán bộ công nhân viên ít ỏi như thế nhưng họ là những người có trình độ, năng lực, nhiệt tình trong công việc.
Qua 18 năm tồn tại và phát triển công ty luôn làm ăn có lãi, trả lương công nhân và nộp ngân sách đầy đủ. Sự tồn tại và phát triển công ty còn thể hiện ở chỗ: đến năm 2000 công ty thiết lập được một hệ thống kênh phân phối tương đối hoàn chỉnh và rộng rãi, với 6 tuyến chính: Lạng Sơn, Vĩnh Yên, Phú Thọ- Đông anh, Phúc Yên, Xuân Mai- Hoà Bình, Phủ Lý- Ninh Bình, Sơn La- Lai Châu và nội thành, ngoài ra công ty còn có của hàng bán trực tiếp tại công ty.
Hệ thống phân phối cấp 2 do công ty sử dụng các đại lý tại các tỉnh để phân phối hàng hoá của mình gồm có 36 đại lý chính và số lượng của hàng bán lẻ bánh kẹo của công ty rất nhiều.
Qua thời gan hình thành và phát triển cho đến nay công ty đã là một nhà phân phối lớn và vững mạnh tại miền bắc so với 2 nhà phân phối ở thanh xuân và hàng buồm. Mặc dù có nhiều thuận lợi và phát triển tốt, nhưng để tiếp tục phát triển kinh doanh nữa thì công ty cần phải không ngừng cải tiến cung cách quản lý hoạt động kinh doanh cũng như cần chú ý tới việc đầu tư phát triển nguồn nhân lực.
2. Lĩnh vực hoạt động kinh doanh của công ty cửu long
Ngoài hoạt động kinh doanh phân phối bánh kẹo kinh đô, thuốc lá vĩnh hội, công ty còn kinh doanh các mặt hàng thực phẩm công nghệ, khách sạn, cho thê nhà, kho, sân bãi.
Làm nhiệm vụ kinh doanh một số mặt hàng thông thường được nhà nước giao. Tổng doanh thu năm 2000 vừa qua của công ty là 23.013 tỷ đồng, so với năm 1999 đạt 85% và nộp ngân sách nhà nước tổng số là 351.677 triệu đồng.
Bước vào cơ chế thị trường, trong lĩnh vực kinh doanh bánh kẹo các quy luật kinh tế dần dần được thừa nhận và tôn trọng. Giống như các ngành kinh doanh khác, khi hoạt đọng phù hợp với quy luật kinh tế khách quan, kinh doanh bánh kẹo đã có sự khởi sắc trên nhiều mặt.
Tuy nhiên do chạy theo lợi nhuận ngay cả các doanh nghiệp nhà nước cũng chỉ chú ý vào các địa bàn thu nhiều lợi nhuận như các thành phố, thị xã, khu vực đông dân cư mà chưa chú ý, thậm chí bỏ rơi các vùng sâu, vùng xa hẻo lánh do kinh doanh ở đây ít lợi nhuân bán hàng chậm. Vì vậy đã biến nơi đây thành khu vực hoạt động của những hàng bánh kẹo giả là chủ yếu.
Qua những năm hoạt động công ty cửu long có nhiều thuận lợi và đã thu được lợi nhuận cao, nhưng như thế không phải là không có khó khăn, khó khăn do khách quan tạo nên, như năm 2000 mặt hàng bánh kẹo đã giảm 39,8% so với năm 1999. Dịch vụ cho thuê nhà đất doanh thu đã giảm 10% năm 200 so với năm 1999 về tình hình kinh doanh khách sạn tiếp tục không hiệu quả do khó khăn nguồn khách ít, giá cho thuê phòng không cao và chi phí khác lại cao.
Đứng trước những khuyết điểm trên công ty phải có những chính sách, biện pháp tích cực như mạnh dạn chuyển đỏi hình thức kinh doanh cho thuê toàn bộ khách sạn điều hoà lại lao động cho phù hợp kinh doanh của các bộ phận.
II.Thực trạng của quá trình phân phối.
1. Quy mô và địa điểm công ty đang phân phối.
Công ty cửu long có quy mô địa điểm hoạt động quá rộng ở miền bắc đã đạt được sự bao phủ thị trường khắp miền bắc công ty đã phân phối sản phẩm của mình theo phương thức phân phói rộng rãi, với phương thức này công ty đưa sản phẩm của mình tới nhiều nhà bán lẻ, công ty đưa đi môi tuyến một ô tô hàng và thành viên bán hàng của công ty đi theo phân phối tới tận các đại lý, các nhà bán lẻ. Do vậy nguyên trong nội thành hà nội công ty đã có 6 đại lý lớn bán sản phẩm của công ty, lấy hàng trực tiếp qua đội ngũ nhân viên giao hàng, 1400 các nhà bán lẻ thuộc các tỉnh lấy hàng của công ty thông qua hệ thống đại lí
Trên địa bàn lân cận của công ty , tại đây công ty đã sử dụng chương trình phân phối trực tiếp cho các nhà hàng bán lẻ , bằng đội ngũ nhân viên giao hàng đến tận nơi .
Công ty nỗ lực giúp đỡ các thành viên trong kênh đáp ứng các nhu cầu và giải quyết các khó khăn của họ , khi các thành viên kênh thiếu động cơ thúc đẩy họ được khuyên khích bằng mức giá phụ thêm , bằng trợ cấp cho quảng cáo , điều chỉnh giá hàng tồn kho , cho thanh toán chậm , khuyến khích các thành viên trong việc tiêu thụ như thưởng 0,5% đến 1,2% doanh thu đạt kế hoạch cho các đại lý chính thức , thưởng 0,2% doanh thu đạt được cho cá nhân tham gia phụ trách khách hàng 0,5% doanh thu cho cá nhân tìm ra khách hàng xuất sắc , Công ty đã định mức rõ mức khuyến khích với từng đại lý cụ thể :
Căn cứ các khả năng công ty cửu long bố trí chỉ tiêu tháng năm 2001 như sau:
Tên khách hàng
Địa bàn
Mức 1
Mức 2
Doanh thu
Thưởng%
Doanh thu
Thưởng%
Anh trịnh
Thịnh hoà
120
1
150
1.2
Ông kỳ
Định
50
1
70
1.2
Cô Hường
Xã Đàn
70
0.5
100
1.2
Anh Tuyên
Cầu Giấy
50
0.5
70
1
Chị Hiến Hạnh
Vĩnh Yên
60
0.5
80
0.7
Anh Bình
Phủ Lý
40
0.5
60
0.7
Chị Hoàn
Lạng Sơn
50
0.5
80
0.7
Chị Hồng Đại
Hoà Bình
40
0.5
60
0.7
Chị Tuấn Hiền
Việt Trì
40
0.5
60
0.7
Chị Hương Toàn
Tuyên Quang
50
0.5
70
0.7
Anh Hùng
Phú Thọ
50
0.0
10
0.0
Anh Đôi
Phú Xuyên
40
0.0
60
0.0
Anh Vương
Ninh Bình
60
0.0
80
0.0
Chị Bắc Bộ
Tuyên Quang
50
0.0
70
0.0
Chị Lý
Quầy Vọng
200
0.2
250
0.3
Chị Thuỷ
Quầy Nict
100
0.2
150
0.3
Tổng cộng
1 070
5 .65 (trđ )
1.480
10 57 (trđ)
Nguồn: số liệu Công ty Cửu Long
Công ty sử dụng chiến lược phân phối theo chiều rộng,phủ các thị trường miền bắc như ở Hà Nội công ty đặt 6 đại lý chính ,như đại lý của anh Bình ở Phủ Lý ,Chị Lệ thị Hoàn ở Lạng Sơn... Nói chung công ty đã dặt đại lý ở rất nhiều tỉnh có tỉnh công ty đặt 5, 6 đại lý. Với việc áp dụng tất cả bốn loại cấp độ kênh như bán hàng trực tiếp , cấp một bán háng qua nhà bán lẻ , cấp hai bán hàng qua nhà bán buôn , bán lẻ , cấp ba bán qua đại lý , bán buôn bán lẻ nhưng chủ yếu công ty sử dụng chiến lược kênh phân phôi dài là chủ yếu
2.Kên phân bánh kẹo của công ty Cửu Long
Dựa trên những cơ sở nêu trên công ty đã đưa vào sử dụng một hệ thống bánh kẹo kinh đô tương đối hoành chỉnh . Hoạt động của kênh phân phối thời gian qua đã dạt được hiệu quả nhất định hệ thống kênh phân phôí được thể hiện qua sơ đồ sau .
Công
ty
Cửu
Long
Người
tiêu
dùng
cuối
cùng
Đại Lý
Người
bán
buôn
Người
bán
lẻ
1
2
3
4
Sơ đồ 2: Hệ thống kênh phân phối bánh kẹo Kinh Đô của công ty Cửu Long
Loại hình kênh 1: Có thể coi đây là loại hình kênh phân phối trực tiếp từ công ty đến khách hàng , loại hình kênh này công ty thường áp dụng tại nội thành Hà Nội .
Loại hình kênh 2 : Loại hình kênh này hàng hoá được phân phối qua người bán lẻ rồi mới đến người tiêu dùng , loại hình kênh này công ty thường áp dụng cả ở nội thành và các vùng lân cận công ty như anh Tuyên ở cầu giấy , chú Hưng ở Đông Anh , Chị Thư ở Hà Đông ... tại các địa bàn đông dân cư mật độ các nhà bán lẻ tương đối lớn . Vì vậy việc sử dung hệ thống kênh phân phối là một loại hình kênh phân phối đạt hiệu quả rất cao . theo mô hình này mỗi nhân viên giao hàng, bán hàng sẽ phụ trách một khu vực , nhận đơn đặt hàng cũng như giao hàng tới các nhà bán lẻ .
Loại hình kênh phân phối ba : Với loại hình này hàng hoá sẽ được phân phối bằng cách đi từ công ty tới người bsán buôn rồi tơí người bán lẻ , cuối cùng là người tiêu dùng . Mô hình kênh phân phối này công ty thường áp dụng tại các dịa bàn lớn . Những nhà bán buôn là những nhà có qui mô lớn lượng hàng tiêu thụ nhiều , người bán buôn thường được công ty áp dụng tỷ lệ triết khấu cao hơn các nhà bán lẻ , công ty có tới 40 nhà bán buôn .
Loại hình kênh phân phối bốn : Hàng hoá của công ty qua đại lý , người bán buôn bán lẻ rồi mới tới người tiêu dùng cuối cùng . Đây là loại hình kênh phân phối chủ yếu mà công ty sử dụng , hàng hoá sẽ được công ty vận chuyển bằng ô tô tới đại lý các tỉnh , công ty có 36 đại lý lớn và nhỏ tại các tỉnh ở miền bắc .
Với một hệ thống kênh phân phối như trên công ty đã sử dụng phương thức phân phối rộng rãi tới nhiều nhà bán lẻ tự công ty phân phối cho nhà bán lẻ , qua đại lý , người bán buôn .
Mô hình và phương thức kênh phân phối của công ty tương đối hợp lý . Hiện nay công ty đang cố gắng từng bước phát triển qui mô của hệ thống kênh phân phối cả về chiêù rộng và chiều sâu . Công ty cố gắng xây dựng với các trung gian quan hệ hợp tác làm ăn có tính chất lâu dài . Công ty cũng đang cố gắng đang dạng hoá loại hình phân phối nhằm đáp ứng với mức tốt nhất những nhu cầu của khách hàng , luôn phấn đấu có một hệ thống kênh phân phối hoàn thiện .
II. Nhận xét hoạt động phân phối của công ty
1.Điểm mạnh
Thời gian qua công ty đã thiết lập được hệ thống kênh phân phối tương đối hoàn chỉnh. Công ty đã có những biện pháp tốt để quản lí các thành viên kênh của mình nhằm mục đích hoàn thiện hệ thống phân phối, sàng lọc, lựa chọn, chăm sóc các thành viên. Vì vậy sự hoạt động, phục vụ tốt khách hàng của các thành viên kênh sẽ tạo được một hình ảnh tốt đẹp về công ty trong tâm trí khách hàng, điều này sẽ tạo được lợi thế cho công ty so với đối thủ cạnh tranh.
Công ty sẽ rất chý ý đến các nhu cầu, khó khăn của đại lý, nhà bán buôn, bán lẻ và khách hàng, công ty đã có các khuyến khích từng bước đối với các thành viên.
2. Điểm yếu
Trong quá trình phân phối hàng hoá thì một vấn đề thường xuyên mà công ty phải gặp đó là mâu thuẫn giữa các thành viên của kênh phân phối, điều này đã làm giảm hiệu quả của việc phân phối, làm ảnh hưởng môi trường của công ty. Chủ yếu là mâu thuẫn theo chiều ngang như mâu thuẫn giữa các đại lí với nhau, các nhà bán buôn với nhau... ngoài ra còn có mâu thuẫn giữa công ty với các thành viên kênh.
Công ty chưa có các chính sách thật tốt cho các thành viên kênh, chưa có biện pháp thưởng phạt rõ ràng.
Mặc dù trong thời gian qua hệ thống kênh phân phối phát triển khá mạnh nhưng chủ yếu theo chiều rộng, chưa phát triển theo chiều sâu có nghĩa là giữa các thành viên chưa có sự phối hợp chặt chẽ trong quá trình hoạt động như bao phủ thị trường, cạnh tranh với sản phẩm thay thế, sản phẩm cạnh tranh. Điều này thể hiện sự phối hợp của công ty với các thành viên kênh chưa được cao, có thông tin phản hồi từ các trung gian còn ít mà hiệu quả chưa cao, độ tin cậy thấp, các thành viên trong kênh vẫn chưa phát huy năng lực đảm nhiệm thị trường khai thác nhu cầu theo vậy vẫn còn những lỗ trống trên thị trường mà công ty vẫn chưa kiểm soát được.
3.Nguyên nhân
Mâu thuẫn giữa các đại lý về địa bàn và giá cả, là do đại lí được đặt gần vùng thuộc địa phận tỉnh khác mà ở tỉnh đó công ty đã đặt đại lí nhất thiết không thể tránh khỏi, chi phí trriết khấu với tỷ lệ cao 1 dến 1,2%. Để cạnh tranh một số đại lí đã tự thay đổi giá bán phá giá bằng giá bán buôn để thu hút khách hàng điều này cũng gây ra mâu thuẫn giữa các đại lí với nhau trong việc tranh rành địa bàn.
Ngoài ra còn có mâu thuẫn giữa công ty với đại lí: Trong năm 2000 công ty thực hiện triết khấu cao cho các
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35080.doc