MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu 1
I. Đầu tư phát triển trong doanh nghiệp 2
1. Đầu tư phát triển trong doanh nghiệp 2
1. Nội dung của đầu tư phát triển trong doanh nghiệp 2
II/ Cơ sở lí luận của việc nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển 4
trong doanh nghiệp
1. Hiệu quả đầu tư phát triển trong doanh nghiệp 4
2. Nâng cao hiệu quả đầu tư trong doanh nghiệp là tất yếu
Cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp 6
3. Cở sở để đánh gía và nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển
trong doanh nghiệp 8
III/ Cơ sở thực tiễn 12
1. Thực trạng và những vấn đề bức xúc trong hoạt động đầu
của doanh nghiệp 12
2. Bài học kinh nghiem rút ra từ những thành công trong hoạt
động đầu tư phát triển ở công ty Cao Su Sao Vàng 14
Lời kết 16
Tài liệu tham khảo 17
19 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1632 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề án Một số luận cứ khoa học cho việc nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển trong doanh nghiệp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ạn đề tài này cũng như những hiểu biết còn hạn chế không cho phép chúng tôi đi hết vấn đề hiệu quả và nâng cao hiệu quả đầu tư trong doanh nghiệp. Tuy nhiên, với sự hướng dẫn của thầy giáo Từ Quang Phương, chúng tôi xin mạnh dạn đóng góp một phần nhỏ. Rất mong được sự ủng hộ và góp ý kiến của các bạn để đề tài của chúng tôi được hoàn thiện.
I/ Tổng quan về đầu tư phát triển trong doanh nghiệp
1. Khái niêm về đầu tư phát triển trong doanh nghiệp
Theo điều 3.1 Luật doanh nghiệp do Quốc Hội thông qua ngày 12/6/1999 : “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”. Mục đích của doanh nghiệp là thực hiện các hoạt động kinh doanh , có nghĩa là: “Thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời”.
Đầu tư hiểu theo nghĩa trung nhất là việc bỏ vốn hoặc chi dùng vốn cùng với các nguồn lực khác trong hiện tại để tiến hành hoạt động nào đó (tạo ra hoặc khai thác sử dụng một tài sản) nhằm thu về các kết quả có lợi trong tương lai.
Đầu tư phát triển trong doanh nghiệp là việc chi dùng vốn (sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất , nguồn lực trí tuệ ) nhằm tạo ra những yếu tố cơ bản của sản xuất kinh doanh dịch vụ, tạo ra những tiềm lực sẵn có của doanh nghiệp và nâng cao đời sống cho mọi thành viên trong doanh nghiệp.
2. Nội dung của đầu tư phát triển trong doanh nghiệp
Đầu tư phát triển trong doanh nghiệp có thể quy về những nội dung chủ yếu sau đây:
a. Đầu tư cho lao động
Bất cứ một doanh nghiệp nào cũng phải quan tâm đến lao động trong quá trình đầu tư của mình, bao gồm cả số lượng và chất lượng của lao động.
Về số lượng: Doanh nghiệp có thể thuê thêm lao động để tiến hành mở rộng quy mô sản xuất
Về chất lượng: Doanh nghiệp có thể tăng đầu tư cho y tế, giáo dục, đào tạo, dạy nghề ... nhằm nâng cao thể lực, trình độ, tay nghề của người lao đông. Qua đó mà cường độ lao động, năng suất lao động sẽ tăng lên cả về số lượng và chất lượng.
Đã có rất nhiều công ty thành công trong việc cạnh tranh với đối thủ khác nhờ vào việc đào tạo tốt đội ngũ lao động. Ví dụ: McDonald được biết đến với những nhân viên luôn lịch sự, IBM có đội ngũ kỹ sư chuyên nghiệp, thành thạo, nhân viên của Disney rất thân thiện và nhiệt tình.
b. Đầu tư vào tài sản cố định
Đó là hoạt động đầu tư vào nhà xưởng , máy móc thiết bị và các hàng hoá lâu bền khác, bao gồm cả đầu tư mới mở rộng sản xuất và sửa chữa , mua sắm các tài sản cố định mới thay thế các tài sản cố định đã bị hư hỏng do hao mòn hữu hình (do quá trình sử dụng và do tác động của thời tiết, khí hậu) và vô hình (so sự tiến bộ của khoa học – kỹ thuật làm cho tài sản cố định nhanh chóng trở nên lạc hậu, không còn thích hợp với điều kiện mới, tiếp tục sử dụng sẽ không có hiệu quả).
c. Đầu tư vào công nghệ, máy móc thiết bị
Cùng với sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, mỗi doanh nghiệp đều nhận thấy vai trò to lớn của đầu tư cho công nghệ cũng như hiện đại hoá máy móc thiết bị trong quá trình sản xuất để nâng cao khả năng cạnh tranh, tồn tại và phát triển của chính mình. Các doanh nghiệp có hai con đường để lựa chọn chuyển giao công nghệ, đó là:
+ Mua công nghệ , máy móc thiết bị mới từ bên ngoài
+ Đầu tư vào việc tự nghiên cứu, tìm ra và ứng dụng những giải pháp công nghệ mới, các sáng kiến kỹ thuật, hiện đại hoá quá trình sản xuất.
Có thể nói trong những năm qua , đầu tư vào công nghệ và máy móc thiết bị còn chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng vốn đầu tư của nền kinh tế, sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam chưa có tính cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế. Vì vậy, đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải đầu tư thích đáng vào công nghệ trong hoạt động đầu tư của mình , nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm đó cũng chính là nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam.
d. Đầu tư vào dự trữ
Là những khoản đầu tư và nguyên liệu thô, bán thành phẩm và sản phẩm hoàn thành. Dự trữ hàng hoá hình thành trong nền kinh tế nói chung cũng như của doanh nghiệp nói riêng là đòi hỏi tất yếu khách quan , do quá trình sản xuất và quá trình tiêu dùng có sự cách biệt về thời gian và không gian.
Dự trữ hình thành ở hai khâu. Trong khâu sản xuất hình thành dự trữ sản xuất, trong khâu lưu thông hình thành dự trữ lưu thông.
Quy mô đầu tư vào dự trữ của một doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào: Dự đoán nhu cầu trong tương lai, kế hoạch sản xuất sản phẩm, mức độ chậm trễ của khâu phân phối lưu thông...
Như vậy, do phải đảm bảo cho sự liên tục của quá trình sản xuất và phân phối sản phẩm mà đầu tư vào dự trữ luôn được coi là một hình thức đầu tư quan trọng trong doanh nghiệp, không thể bỏ qua.
Tóm lại, đầu tư phát triển trong doanh nghiệp đòi hỏi vốn đầu tư lớn, thời gian thực hiện kéo dài , chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố bất định không thể lường trước được, cho nên, đây là hoạt động mang tính rủi ro cao. Vì vậy, vấn đề hiệu quả của hoạt động đầu tư phát triển luôn được đặt lên hàng đầu và xem xét kỹ lưỡng.
II/ Cơ sở lí luận của việc nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển trong doanh nghiệp
Hiệu quả đầu tư trong doanh nghiệp
Khái niệm hiệu quả
ở đâu và lúc nào con người cũng mong muốn hoạt động một cách có hiệu quả nhất. Quan niệm về hiệu quả có rất nhiều, tuy nhiên, hiểu theo cách chung nhất thì hiệu quả biểu hiện mức độ tiết kiệm chi phí trong một đơn vị kết quả hữu ích so với mức tăng khối lượng hữu ích của hoạt động sản xuất vật chất trong một thời kỳ, góp phần làm tăng thêm lợi ích của xã hội, của nền kinh tế. Chúng ta có thể biểu diễn khái niệm này thông qua công thức:
Nếu H > 1 thì có hiệu quả, H<1 thì không có hiệu quả
Trong nền kinh tế, hiệu quả không phải là mục tiêu mà là phương tiện để đi đến mục tiêu cuối cùng (lợi nhuận). Trong kế hoạch ( quản lí kinh tế) hiệu quả là quan hệ so sánh tối ưu giữa đầu ta và đầu vào , là lợi ích lớn nhất thu được với một chi phí nhất định hoặc một kết quả nhất định với chi phí nhỏ nhất.
Hiệu quả đầu tư phát triển trong doanh nghiệp
Nhìn chung, hiệu quả được chia thành hai loại là hiệu quả kinh tế (hiệu quả tài chính) và hiệu quả xã hội. Trên góc độ nhà đầu tư là các doanh nghiệp thì người ta thường chỉ quan tâm đến hiệu quả kinh tế.
Hiệu quả kinh tế của hoạt động đầu tư phát triển trong doanh nghiệp là mức độ đáp ứng nhu cầu phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và nâng cao đời sống của người lao động trong doanh nghiệp, kinh doanh dịch vụ trên cơ sở số vốn đầu tư mà doanh nghiệp đã sử dụng so với các kỳ khác, các doanh nghiệp hoặc so với định mức chung phải lớn hơn.
Các kết quả do hoạt động đầu tư phát triển trong doanh nghiệp đem lại là rất đa dạng. Các kết quả đó có thể là TSCĐ mới (máy móc thiết bị, phân xưởng, nhà máy mới...), là lợi nhuận thuần, là mức tăng năng suất lao động, là số lao động có việc làm do hoạt động đầu tư phát triển tạo ra, là mức tăng thu nhập cho người lao động của doanh nghiệp... Phần kết quả này phải lớn hơn các chi phí đã bỏ ra để có được chúng thì coi là có hiệu quả.
Hiệu quả đầu tư phát triển trong doanh nghiệp trong doanh nghiệp đem lại lợi ích cho bản thân doanh nghiệp đó nhưng đồng thời không làm tổn hại đến lợi ích của xã hội, mà còn phải góp phần làm tăng lợi xã hội, lợi ích quốc gia. Chẳng hạn, việc tiến hành hoạt động đầu tư phát triển trong doanh nghiệp đáp ứng việc thực hiện các mục tiêu trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, các nhiệm vụ của kế hoạch phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ.
Nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển trong doanh nghiệp là tất yếu cho sự tồn tại và phát triển trong doanh nghiệp
Xã hội liên tục phát triển, nền kinh tế toàn cầu nói chung, nền kinh tế của mỗi quốc gia nói riêng cũng vì thế mà không ngừng vận động và phát triển. Sự phát triển đó được thể hiện rất rõ trong đời sống dân cư. Nhu cầu tiêu dùng toàn xã hội tăng lên cả về mặt lượng và mặt chất. Nếu như trước đây người ta mong muốn được “ăn no, mặc ấm” thì ngày nay nhu cầu ấy không còn phù hợp nữa mà trở thành nhu cầu mới “ăn ngon, mặc đẹp”.
Thị trường ngày càng trở nên sôi động, nhu cầu của con người phát triển đòi hỏi tiêu dùng nhiều hơn, hàng hoá phải có chất lượng cao, mẫu mã đẹp, đa dạng và phong phú. Vì thế mà các nhà cung cấp sản phẩm, dịch vụ cho thị trường muốn tồn tại được nhu cầu đó của dân cư. Cuộc chạy đua này là một cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các nhà sản xuất để giành giật thị trường cho mình. Người quyết định số phận của doanh nghiệp là các khách hàng, họ chọn nhà cung cấp nào thì nhà cung cấp đó tồn tại, tiêu chuẩn lựa chọn của họ ngày càng khắt khe. Người tiêu dùng mong muốn có một túi hàng với giá thành rẻ nhất nhưng độ thoả dụng cao nhất, đó là hàng hoá có chất lượng tốt có mẫu mã đẹp, có dịch vụ hoàn hảo.
Vì tất cả lẽ đó đòi hỏi nhà sản xuất phải tiến hành đầu tư phát triển. Hoạt động đầu tư phát triển của doanh nghiệp có thể được tiến hành theo những chiến lược khác nhau để giành được những ưu thế canh tranh khác nhau trên thị trường. Doanh nghiệp hoặc có thể đầu tư vào công nghệ sản xuất, hoặc đầu tư vào đội ngũ lao động, máy móc thiết bị hoặc đầu tư vào các hoạt động Marketing nghiên cứu thị trường... Hoạt động đó trước hết đảm bảo cho sự thích nghi của doanh nghiệp với thị trường sôi động, tức là đảm bảo cho sự tồn tại của doanh nghiệp.
Ngoài ra, không có doanh nghiệp nào tiến hành sản xuất kinh doanh lại không đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu. Không chỉ là mong muốn có lợi nhuận, mà họ không mong muốn tiền của họ không ngừng tăng lên tức là quy mô lợi nhuận phải ngày càng được mở rộng. Xét về lợi nhuận, lợi nhuận là kết quả của quá trình sản xuất kinh doanh, lợi nhuận càng tăng thì đến lượt nó lại làm cho tiêu dùng xã hội tăng lên nhưng tiêu dùng ở đây không chỉ là tiêu dùng cho sinh hoạt mà bao gồm cả tiêu dùng cho sản xuất. Muốn cho khoản lợi nhuận của mình không ngừng phát triển thì nhà sản xuất phải dùng một bộ phận lợi nhuận để đầu tư thêm, và việc đầu tư thêm phải thực sự có hiệu quả thì mong muốn của họ mới được thoả mãn.
Như trên đã xem xét chúng ta có thể hiểu thế nào là hiệu quả của hoạt động đầu tư phát triển trong doanh nghiệp, từ đó cho thấy mục đích cuối cùng của doanh nghiệp, mục đích đó đạt được nhờ không ngừng nâng cao hiệu quả đầu tư. Tức là người ta mong muốn thu được nhiều lợi nhuận với lượng chi phí bỏ ra thật nhỏ.
Như vậy, sự phát triển nói chung của xã hội buộc các doanh nghiệp phải tiến hành hoạt động đầu tư, đồng thời vì lợi ích của bản thân, vì mong muốn được tồn tại, và tiếp tục phát triển, các nhà sản xuất kinh doanh phải cạnh tranh nhau bằng việc không ngừng nâng cao hiệu quả của hoạt động đầu tư phát triển
Cơ sở để đánh giá và nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển trong doanh nghiệp
Qua những phân tích ở trên, chúng ta có thể thấy rằng hiệu quả kinh tế ngày càng cao là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển nhanh chóng của doanh nghiệp. Bởi vậy, đánh giá chính xác và làm như thế nào để nâng cao hoạt động đầu tư phát triển luôn là nhiệm vụ hàng đầu của mỗi doanh nghieep
Về mặt chất, việc đạt hiệu quả cao phản ánh năng lực và trình độ quản lí của doanh nghiệp
Về mặt lượng, hiệu quả biểu hiện mối tương quan giữa kết quả thu được với chi phí bỏ ra. Kết quả thu được càng cao, chi phí bỏ ra càng nhỏ thì hiệu quẩ thu được càng lớn
Đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, các chủ đầu tư bỏ vốn nhằm mục đích thu lợi nhuận, công thức trên có thể cụ thể hoá thành:
Tuy nhiên để phản ánh toàn diện hiệu quả kinh tế, chúng ta có thể dùng một hệ thống các chỉ tiêu , tiêu chuẩn để đánh giá, so sánh, phân tích. Sau đầy là một số chỉ tiêu chủ yếu phân tích hiệu quả của việc sử dụng các yếu tố sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp:
Chỉ tiêu Tiêu chuẩn hiệu quả
Năng suất lao động bình quân(NSLĐ) NSLĐ đ max
Hiệu suất TSCĐ (HTSCĐ) HTSCĐ đ max
Hiệu quả sử dụng vốn lưu động(HVLĐ) HVLĐ đ max
Để phân tích cũng như nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển trong doanh nghiệp, chúng ta hãy lần lượt đi vào đánh giá hiệu quả sử dụng từng nhân tố
Hiệu quả sử dụng lao động
Số lượng và chất lượng lao động là yếu tố cơ bản của sản xuất, góp phần quan trọng vào năng lực sản xuất của doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng lao động được biểu hiện ở năng suất lao động bình quân trong kỳ
Kết quả: có thể phản ánh bằng 3 chỉ tiêu: Tổng giá trị kinh doanh, giá trị gia tăng, lợi nhuận
LĐ: Là số lượng lao động bình quân năm
Như vậy, để nâng cao hiệu quả đầu tư vào lao động, doanh nghiệp phải nâng cao năng suất lao động hay làm tăng sản lượng trên một đơn vị lao động
Đầu tư nâng cao thể lực, tay nghề, trình độ chuyên môn cho lao động là tất yếu nhưng doanh nghiệp phải tiến hành thường xuyên, có chiến lược cụ thể để người lao động có thể thích nghi kịp thời với sự thay đổi không ngừng của điều kiện sản xuất
Mặt khác, doanh nghiệp cũng nên tạo môi trường thuận lợi cho người lao động, động viên, khuyến khích họ bằng những hình thức như khen thưởng, thăm hỏi, giáo dục ý thức tự hào về doanh nghiệp. Khi đó người lao động sẽ có ý thức và trách nhiệm hơn trong công việc, năng suất lao động của họ sẽ tăng lên, chất lượng sản phẩm cũng được đảm bảo hơn.
Với những nỗ lực trên, doanh nghiệp có thể đạt được những kết quả cao hơn khi đầu tư vào lao động với chi phí thấp hơn và năng suất lao động cao hơn.
Hiệu quả sử dụng TSCĐ, công nghệ, trang thiết bị
TSCĐ là bộ phận lớn nhất, chủ yếu nhất trong tư liệu lao động và quyết định năng lực sản xuất của doanh nghiệp. Nếu gọi tổng giá trị tài sản cố định bình quân trong kỳ là TSCĐ, ta có chỉ tiêu hiệu suất TSCĐ là:
HTSCĐ biểu hiện một đồng TSCĐ trong kỳ sản xuất ra bình quân bao nhiêu đồng của chỉ tiêu kết quả sản xuất kinh doanh tương ứng (lợi nhuận, GTGT, tổng giá trị sản xuất).
Khi xét hiệu quả TSCĐ, doanh nghiệp phải đặc biệt quan tâm đến việc nâng cao trình độ sử dụng TSCĐ về thời gian và công suất, hiện đại hoá thiết bị, ứng dụng công nghệ mới vào dây truyền sản xuất...
Muốn vậy, doanh nghiệp trước hết phải thực hiện triệt để tiết kiêm, qui mô nhà xưởng máy móc thiết bị mở rộng phải phù hợp với khả năng hiện có và phải có tính linh hoạt, dễ dàng chuyển đổi, mở rộng khi cần thiết, đồng thời bảo vệ máy móc khỏi những hao mòn hữu hình : rỉ , ẩm , mốc...
Thứ hai, khi tiếp nhận chuyển giao công nghệ, mua sắm máy móc thiết bị mới, doanh nghiệp phải lựa chọn công nghệ, máy móc có giá thành và trình độ phù hợp. Nếu doanh nghiệp mua những công nghệ, máy móc quá hiện đại, quy trình sản xuất quá phức tạp thì người lao đồng có thể sẽ không có khả năng vận hành được. Khi đó, doanh nghiệp sẽ phải thuê chuyên gia với chi phí đắt đỏ làm nâng cao giá thành của sản phẩm lên. Ngược lại, nếu doanh nghiệp mua công nghệ lạc hậu, giá rẻ thì dù sản phẩm làm ra giá rẻ nhưng chất lượng không đảm bảo thì vẫn không tiêu thụ được.
Thứ ba, doanh nghiệp cần quan tâm tới công suất của máy móc. Doanh nghiệp không nên thiết kế hay mua các hệ thống thiết bị có công suất lớn hơn khả năng sản xuất và tiêu thụ mà mua máy có công suất nhỏ hơn hoặc bằng khả năng sản xuất và tiêu thụ. Như vậy, sản phẩm làm ra mới không bị dư thừa, ứ đọng.
Thư tư, khi chuyển giao công nghệ, máy móc thiết bị, doanh nghiệp phải tranh thủ tiếp thu học hỏi công nghệ mới, tự nghiên cứu, phát huy những lợi thế của riêng mình đối với máy móc thiết bị mới. Chẳng hạn, bộ phận nào của MMTB mà trong nước hay doanh nghiệp có thể sản xuất được thì không nhập từ bên ngoài, rồi nghiên cứu thêm ngoài những công dụng mà họ chuyển giao cho mình, còn có những công dụng nào khác mà mình có thể phát huy.
Thứ năm: Tuyệt đối không nhập những máy móc thiết bị không có khả năng thay thế chuyển đổi với giá rẻ vì khi hỏng hóc, doanh nghiệp buộc lòng phải mời đối tác sang sửa chữa thường là với chi phí rất cao.
Hiệu quả sử dụng vốn lưu động ( dự trữ sản xuất)
ở đây chúng ta chỉ quan tâm đến vốn dự trữ sản xuất, bao gồm: nguyên vật liệu, bán thành phẩm, nhiên liệu ... Hiệu quả sử dụng vốn lưu động (HVLĐ) cũng được xác định bằng cách lấy kết quả kinh doanh (KQ) chia cho vốn lưu động bình quân trong năm (VLĐ)
HVLĐ cho biết một đồng vốn lưu động là ra bao nhiêu đồng lợi nhuận trong kỳ.
Để sử dụng hiệu quả vốn đầu tư phát triển cho dự trữ sản xuất, doanh nghiệp phải nắm rõ qui trình sản xuất cũng như phân phối sản phẩm để có kế hoạch dự trữ cho phù hợp, tránh dự trữ quá nhiều (làm vốn bị ứ đọng, không quay vòng được) hay dự trữ quá ít (không đáp ứng được yêu cầu của sản xuất và phân phối, do đó là chậm quá trình sản xuất, mất khách hàng ...)
Mặt khác, doanh nghiệp phải sử dụng hợp lí và tiết kiệm nguyên vật liệu.Ví dụ: sử dụng tổng hợp nguyên liệu, sử dụng lại vật liệu, định mức sử dụng nguyên liệu ...
Qua những phân tích ở trên, ta nhận thấy bên cạnh những biện pháp áp dụng với từng nhân tố sản xuất trong việc nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển, doanh nghiệp phải biết kết hợp chặt chẽ việc sử dụng các yếu tố với nhau, khai thác triệt để từng nhân tố. Qua đó phát huy hiệu quả cao nhất cho hoạt động đầu tư phát triển của doanh nghiệp trong sự kết hợp hài hoà các yếu tố sản xuất.
II Cơ sở thực tiễn
Thực trạng và những vấn đề bức xúc trong hoạt động đầu tư phát triển của doanh nghiệp.
Nhìn chung toàn bộ nền kinh tế, số lượng các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả thực sự không nhiều kể cả những doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực được coi là lợi thế so sánh của chúng ta so với các quốc gia khác. Hầu hết vấn đề bức xúc của các doanh nghiệp này đều liên quan đến và cần được giải quyết bằng việc nâng cao hiệu quả trong đầu tư phát triển ở doanh nghiệp. Dưới đây, chúng tôi xin đưa ra một vài ví dụ để chứng tỏ điều này.
Đối với ngành dệt may
Thực hiện đường lối đổi mới và mở cửa nền kinh tế của Đảng và nhà nước, ngành dệt may đã có nhứng khởi sắc. Từ chỗ làm gia công cho thị trường Liên Xô cũ và các nước Đông Âu, bằng uy tín, chất lượng sản phẩm của mình, ngành đã mở rộng thị trường sang các nước như EU, Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Bắc Âu, Canada ...
Tuy nhiên, những thách thức còn rất nhiều trước mắt. Ngành công nghiệp Dệt- May Việt Nam còn ở mức thấp so với các nước trong khu vực về máy móc thiết bị, về trình độ công nghệ, khối lượng chủng loại, chất lượng sản phẩm, về kim ngạch xuất khẩu. Đặc biệt, khâu yếu nhất của dệt là vải dệt thoi, cả về chất lượng, giá cả và việc tạo mode cho sản phẩm may mặc...
Một trong những nguyên nhân chính là do thiết bị lạc hậu vẫn chiếm tỷ trọng lớn, thiếu công nghệ tiên tiến trong khi vốn đầu tư còn là bài toán khó. Đồng thời ngành công nghiệp Dệt – May lại chịu sự cạnh tranh gay gắt của hàng nhập lậu và sản phẩm của các liên doanh, của xí nghiệp 100% vốn nước ngoài tràn ra thị trường nội địa bằng nhiều cách mà chưa kiểm soát nổi.
Như vậy, một trong những nhóm giải pháp cần thiết đối với ngành Dệt-May là: Cần nắm bắt nhu cầu thị trường, xây dựng các phương án kinh doanh, điều chỉnh cơ cấu sản phẩm, lựa chọn dự án khả thi, chọn công nghệ thích hợp để nâng cấp chất lượng vải; chăm lo đội ngũ cán bộ quản lí, cán bộ kỹ thuật, đào tạo công nhân lành nghề, đầu tư cho tạo mode ... Vì thế không đẩy nhanh tiến độ đầu tư mới thì ngành Dệt- May khó lòng mà trụ nổi ở thị trường trong nước chưa nói tới việc mở rộng thị trường xuất khẩu.
Ngành mía đường
Theo “Thông tin tài chính” số 5/1998, việc sản xuất đường ở nước ta trong những năm qua chỉ đáp ứng được 60 – 70% nhu cầu tiêu dùng với hơn 50% lượng đường được sản xuất ra bằng phương pháp thủ công (chế biến với phương pháp này có tỷ lệ tiêu hao lớn sơ với chế biến công nghiệp: 17 –22 mía/ 1 đường còn chế biến công nghiệp: 10 –12 mía/ 1 đường, gây lãng phí hàng triệu tấn mía cây mỗi vụ) . Mặt khác, bộ giống mía trồng ở nước ta hầu hết là từ bộ giống cũ đã thoái hoá, năng suất thấp, bình quân trên dưới 40 tấn/ha, chất lượng mía với độ đường chỉ đạt 9 –10%. Trong khi đó, các nước trong khu vực đã sử dụng những bộ giống mía có năng suất bình quân 60 –80 tấn/ha, tỷ lệ đường: 12-15%.
Nguyên nhân của tình trạng trên chủ yếu là do máy móc thiết bị đã quá cũ, lạc hậu, thiết bị thay thế thiếu đồng bộ, lại không có vùng nguyên liệu ổn định phải thu gom nguyên liệu ở xa, nhiều nhà máy đường thường xuyên thiếu nguyên liệu dẫn đến giá thành đường rất cao.
Vấn đề cần được giải quyết băng việc đầu tư hiện đại hoá. Mặc dù việc đầu tư vào ngành này nói chung và các doanh nghiệp nói riêng đã được tiến hành song kết quả đem lại không khả quan do hiệu quả của hoạt động đầu tư đó chưa được như mong muốn. Vì thế cần có sự tăng cường công tác quản lý đầu tư, quá trình thẩm định và phê duyệt. Các dự án phải được chú ý đúng mức đến hiệu quả kinh tế, nhất là trong điều kiện đầu tư băng vốn vay, tránh đầu tư dàn trải, thiếu cân nhắc như thời gian vừa qua.
2. Bài học kinh nghiệm rút ra từ những thành công và hoạt động đầu tư phát triển ở công ty Cao Su Sao Vàng
Trong cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt, để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp đã phải đầu tư rất nhiều song không phải cứ đầu tư là đem lại kết quả như mong muốn mà quá trình đầu tư còn cần được xem xét trên góc độ hiệu quả và phải nâng cao hiệu quả của hoạt động đầu tư đó. Nếu như trên đây chúng ta đã thấy những thất bại ban đầu trong hoạt động đầu tư phát triển thì dưới đây chúng tôi đưa ra ví dụ về một doanh nghiệp đã đứng vững và đi lên nhờ hoạt động đầu tư phát triển, đó là công ty Cao Su Sao Vàng.
Vào những năm đầu thập kỷ 90, khi nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần bắt đầu vận hành với phương châm “cạnh tranh là động lực, thị trường là mệnh lệnh”, nhiều doanh nghiệp tỏ ra lúng túng trước cơ chế mới: Công ty Cao Su Sao Vàng cũng không tránh khỏi cơn lốc của kinh tế thị trường.
Sản phẩm săm lốp xe các loại của công ty không những phải cạnh tranh với các sản phẩm nhập từ Nhật Bản, Đài Loan, Trung Quốc, Hàn Quốc... Trong khi đó, sản phẩm của công ty chất lượng chưa cao, mẫu mã và chủng loại nghèo nàn, không phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng khiến cho việc tiêu thụ rất khó khăn. Chấp nhận cuộc cạnh tranh gay gắt để tồn tại và phát triển thì sản phẩm mới chiếm lĩnh được thị trường.
Chỉ tính từ năm 91 đến năm 98, công ty đã đầu tư gần 70 tỷ đồng cho đổi mới dây chuyền công nghệ. Đến công ty Cao Su Sao Vàng hiện nay, không còn thấy những cỗ máy già nua, cổ lỗ. Thay vào đó là những cỗ máy hiện đại nhập từ Nhật, Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc, cộng hoà liên bang Nga.
Nhờ đầu tư chiều sâu đúng hướng, công ty đã tạo ra những thay đổi về mọi mặt: Chủng loại, mẫu mã và chất lượng sản phẩm, có thể nói công ty CSSV hôm nay đã lấy lại được niềm tin và sự mến mộ của người tiêu dùng. So với năm 1988, tổng doanh thu chỉ đạt 10660 triệu đồng thì năm 1998 công ty phấn đấu đạt tổng doanh thu là 280 tỷ đồng tăng gần 30 lần. Từ chỗ sản xuất một mặt hàng truyền thống là săm lốp xe đạp, bây giờ sản phẩm của công ty đã đa dạng về chủng loại, chất lượng tốt, đủ sức cạnh tranh với hàng ngoại nhập.
Song song với quá trình đầu tư đổi mới kỹ thuật, công ty còn đầu tư cho đội ngũ lao động, hàng năm tổ chức đào tạo lại, đào tạo mới lực lượng lao động. Tuyển chọn công nhân kỹ thuật, tuyển dụng kỹ sư cho các lĩnh vực kinh tế, kỹ thuật, tin học... để bổ sung cho đội ngũ cán bộ quản lí. Đồng thời công ty trong những năm qua đã có chính sách và cơ chế bán hàng hợp lí, đầu tư cho các đại lí, tham gia các hội trợ triển lãm, thông tin quảng cáo nhằm thúc đẩy quá trình tiêu thụ sản phẩm, mở rộng mạng lưới tiêu thụ...
Qua 10 năm đổi mới của công ty đã lớn mạnh từng ngay, sản xuất kinh doanh phát triển và công ty được đánh giá là doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả nhờ hoạt động đầu tư phát triển
Lời kết
Bước sang thế kỷ 21, Việt Nam đang phải đối mặt với những cơ hội và thách thức của quá trình khu vực hoá, toàn cầu hoá nền kinh tế. Hơn lúc nào hết, các doanh nghiệp nhận thức được vai trò và vị thế to lớn của mình trong thời khắc quan trọng này. Cạnh tranh sẽ ngày càng gay gắt và quyết liệt hơn. Và ai giành được thị trường, người đó sẽ thắng. Bởi vậy, các doanh nghiệp để có thể tồn tại và phát triển vững chắc phải không ngừng mở rộng sản xuất, nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển để từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm không chỉ ở thị trường trong nước mà trên toàn thế giới
Mặt khác, nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển trong doanh nghiệp còn đem lại lợi ích to lớn hơn cho doanh nghiệp, cho người lao động và cho toàn bộ nền kinh tế
Trong bài viết này, qua việc phân tích và xác định rõ vai trò của việc nâng cao hiệu quả đầu tư của doanh nghiêp, chúng tôi đã đưa ra một số chỉ tieu cơ bản để đánh giá và tìm ra những giải pháp để doanh nghiệp có thể thực hiện tốt mục tiêu này. Qua đó, doanh nghiệp có thể có những định hướng cụ thể cho hoạt động đầu tư phát triển để đi đến cái đích cuối cùng, đó là: thu được nhiều lợi nhuận hơn cho chính mình, đem lại cho người lao động nhiều lợi ích hơn và đóng góp nhiều hơn cho nền kinh tế
Tài liệu tham khảo
Trần Đại Bằng: Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước trong tình hình hiện nay – Tạp chí Ngân Hàng 10/1997
Nguyễn ái Đoàn: Hiệu quả và đo lường hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35076.doc