Mục lục
I.LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ TRANG TRẠI: 2
1.Khái niệm, vị trí, vai trò của kinh tế trang trại: 2
a.Khái niệm kinh tế trang trại và các đặc trưng: 2
b.Vai trò, vị trí của kinh tế trang trại: 3
2.Chủ trương của Đảng và nhà nước về phát triển kinh tế trang trại: 4
3.Xu hướng hình thành và phát triển kinh tế trang trại: 4
a.Xu hướng hình thành: 4
b.Xu hướng phát triển: 5
4.Một số nhân tố hình thành và phát triển kinh tế trang trại: 5
a.Các tiềm năng về điều kiện tự nhiên: 5
b.Các tiềm năng về kinh tế- xã hội: 7
II.THỰC TRẠNG CÁC TIỀM NĂNG HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI Ở HÀ NỘI: 14
1.Quá trình hình thành kinh tế trang trại ở Hà Nội: 14
2.Thực trạng các tiềm năng của kinh tế trang trại ở Hà Nội: 15
a.Thực trạng tiềm năng đất đai của trang trại: 15
b.Thực trang tiềm năng vốn của trang trại ở Hà Nội: 16
c.Thực trang tiềm năng lao động của trang trại ở Hà nội: 17
d. Thực trang ảnh hưởng của cơ chế chính sách đến phát triển kinh tế trang trại ở Hà nội: 18
e.Thực trang tiềm năng khoa học công nghệ của trang trại ở Hà nội: 20
f.Thực trang tiềm năng công nghiệp hóa-hiện đại hóa của trang trại ở Hà nội: 22
g.Thực trạng ảnh hưởng của yếu tố đô thị hóa đến kinh tế trang trại ở Hà Nội: 23
III.ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ PHÁT HUY CÁC TIỀM NĂNG HÌNH THÀNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI: 24
1.Các định hướng phát triển kinh tế trang trại 24
2.Giải pháp về đất đai: 25
3.Giải pháp về lao động: 28
4.Giải pháp về chính sách đầu tư tín dụng: 30
5.Giải pháp khuyến khích chuyển giao công nghệ và áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất: 30
6.Giải pháp hỗ trợ và phát triển thị trường nông sản: 32
7.Tiếp tục khuyến khích phát triển kinh tế trang trại. 33
Kết luận và kiến nghị 35
a.Kết luận: 35
b.Kiến nghị: 35
Danh mục tài liệu tham khảo 36
38 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2009 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Một số tiềm năng hình thành và phát triển kinh tế trang trại ở Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
là tiền đề cho đô thị hóa. Công nghiệp hóa và hiện đại hóa trong khu vực nông nghiệp của nền kinh tế sẽ tạo ra quá trình đô thị hóa nông thôn.
-Văn hóa dân tộc: Mỗi dân tộc có một nền văn hóa riêng của mình và nền văn hóa đó có ảnh hưởng đến tất cả các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội… nói chung và hình thái đô thị nói riêng.
Một số tiêu chí cơ bản đánh giá trình độ đô thị hóa:
-Các chỉ tiêu định lượng: Các chỉ tiêu đô thị/1 người: Diện tích cây xanh, diện tích đất đường giao thông, diện tích các công trình công công, diện tích nhà, nước, điện… GDP (hoặc giá trị sản xuất)/1 người. Trình độ dân trí. Số giường bệnh / 1.000 dân. Các công trình văn hóa /1.000 dân. Tổng số máy điện thoại /1000 dân.
-Các chỉ tiêu định tính: Chất lượng hạ tầng kỹ thuật; chất lượng hạ tầng xã hội; trình độ văn minh đô thị, kiến trúc đô thị, môi trường…
II.THỰC TRẠNG CÁC TIỀM NĂNG HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI Ở HÀ NỘI:
1.Quá trình hình thành kinh tế trang trại ở Hà Nội:
Cùng với cả nước, Hà Nội đã tích cực triển khai các nghị quyết của Đảng và Chính phủ như Nghị quyết 10/NQ-TW ngày 5/4/1988, Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ VI của Ban chấp hành trung ương khóa VI tháng 3/1989 và nghị quyết số 03/2000/NQ-CP của Chính phủ ngày 2/2/2000.
Thành ủy Hà Nội đã ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành như chỉ thị 12/CT-TW, đối với từng đơn vị sản xuất nông nghiệp. Các chính sách này đã đáp ứng nhu cầu trực tiếp, tạo ra động lực mới thúc đẩy mạnh mẽ nông nghiệp, nông thôn phát triển trong đó có kinh tế trang trại.
Năm 1992 Thành ủy đã xây dựng chương trình 06 về phát triển kinh tế ngoại thành và xây dựng nông thôn mới, trong đó tập trung chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp hướng xây dựng vùng chuyên canh gắn với cơ sở chế biến, khuyến khích mọi thành phần kinh tế phát triển, phát triển ngành nghề nông thôn. Tiếp sau đó là Chương trình 12 về phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn ngoại thành Hà Nội với nhiều nội dung quan trọng, trong đó có phát triển kinh tế trang trại và kinh tế hợp tác xã.
Đến năm 2001, Hà Nội vẫn tiếp tục thực hiện nghị quyết 03/2000/NQ-CP của chính phủ về phát triển trang trại. Nhờ đó đã tạo ra xung lực mới cho kinh tế trang trại ra đời và phát triển góp vào thắng lợi của nền nông nghiệp ở ngoại thành Hà Nội nói chung trong những năm đổi mới.
Theo số liệu tổng hợp của Sở Nông nghiệp và PTNT Hà Nội, đến năm 2005, Hà Nội có 401 trang trại (kể cả một số xã nay đã trở thành phường của 2 quận mới Long Biên, Hoàng Mai). Trong số đó có 104 trang trại trồng trọt (chiếm 25,93%), 127 trang trại thuỷ sản (chiếm 34,67%), 158 trang trại chăn nuôi (chiếm 39,40%), 12 trang trại sản xuất dịch vụ khác (chiếm 2,99%).
2.Thực trạng các tiềm năng của kinh tế trang trại ở Hà Nội:
a.Thực trạng tiềm năng đất đai của trang trại:
Ngoại thành Hà Nội có quy đất nông nghiệp hạn hẹp và ngày càng bị thu hẹp do tác động của đô thị hoá. Vì vậy, đất đai không được coi là thế mạnh của phát triển kinh tế trang trại ở Hà Nội. Qua điều tra khảo sát, thực trạng đất đai được xem xét trên các khía cạnh sau :
-Quy mô đất đai của trang trại: Bình quân chung các trang trại điều tra, mỗi trang trại có 35.792,9 m2 đất tự nhiên, trong đó, đất thổ cư 14,78%, đất canh tác 40,38%, đất chăn nuôi 1,93%, diện tích mặt nước 41,34% và đất kinh doanh tổng hợp 11,64%. Tuy nhiên, quy mô diện tích bình quân của trang trại ở các huyện và theo phương hướng kinh doanh khác nhau cũng chênh lệch nhau, tuy không lớn.
-Xét theo huyện: Sóc Sơn là huyện có diện tích bình quân 1 trang trại lớn nhất. Bình quân diện tích của trang trại Sóc Sơn là 41.551,6 m2, trong khi ở các huyện khác bình quân diện tích đất của trang trại đạt khoảng 35.000m2.
-Xét theo phương hướng kinh doanh: Nhóm trang trại có hướng sản xuất, kinh doanh chính là trồng trọt có tỉ trọng đất nông nghiệp là chủ yếu. Ngược lại, nhóm trang trại lâm nghiệp thì tỉ trọng đất lâm nghiệp cao, được thể hiện qua bảng 1.
-Nguồn gốc đất đai của trang trại: Nguồn gốc các loại đất để phát triển trang trại rất đa dạng: đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp do Nhà nước giao, cho thuê theo quy định hiện hành; đất công nhân viên, hộ nông dân nhận khoán, thầu của lâm trường hay thuê của tư nhân, đất chuyển đổi, chuyển nhượng.
Bảng 1: Bình quân diện tích đất của trang trại năm 2005
ĐVT: m2
Chỉ tiêu
Đất tự nhiên
Trong đó
Đất thổ cư
Đất canh tác
Đất chăn nuôi
D. tích mặt nước NTTS
Đất KVDV tổng hợp
1. Tổng số
35.792,9
5291,3
14451,6
689,3
14796,5
4165,7
2. Theo hướng kinh doanh chính
35.792,9
5.291,3
14.451,6
689,3
14.796,5
41.165,7
- Trồng trọt
35.918,2
12821,5
12994,4
346,4
7515,6
18.359,7
- Chăn nuôi
30.562
3518,5
18217,1
760,1
7951,7
114,6
- NTTS
4.2928
2.799,6
11.782,4
854,7
2.7442
54,2
- Sản xuất, DV tổng hợp khác
5516,8
750,8
1264
1200
3.490
-
b.Thực trang tiềm năng vốn của trang trại ở Hà Nội:
Vốn cho phát triển kinh tế trang trại của Hà Nội có nhiều thuận lợi hơn các địa phương khác, do các trang trại có điều kiện tiếp cận với nhiều nguồn. Nguồn vốn của bản thân các chủ trang trại cũng có nhiều tiềm năng hơn các chủ trang trại ở nơi khác.
Bình quân 1 trang trại có số vốn là 272 triệu đồng vốn. Trong đó, vốn tự có chiếm sấp xỉ 80%, khoảng 20% là vốn vay. Vốn vay dựa vào nhiều nguồn rất đa dạng, trong đó vay từ ngân hàng chiếm tỷ trọng khá lớn khoảng 39%, từ các nguồn như: dự án (15%), khác (43%).
Bảng 2: Tổng hợp vốn của trang trại ở Hà Nội năm 2005
Đơn vị: triệu đồng
Loại hình
Số trang trại điều tra
Tổng cộng
Bình quân 1 trang trại
Trồng trọt
49
9459.2
193.04
Chăn nuôi
97
25842.9
266.42
NTTS
161
40254
250.02
Tổng hợp
62
21879.9
352.90
Lâm nghiệp
32
11623.9
363.25
Tổng cộng
401
109060
272.65
(Nguồn: Báo cáo thực trạng phát triển kinh tế trang trại Hà nội.)
Trung bình vốn vay của mỗi trang trại là 54,4 triệu đồng. Vốn vay được chia thành những loại sau:
- Phân loại vốn vay theo nguồn gốc:
Vay từ ngân hàng: Tổng số tiền vay là 3.350,5 triệu đồng chiếm 33% số vốn vay bình quân mỗi trang trại vay từ ngân hàng 7,65 triệu đồng/năm.
Vay từ các HTX tín dụng: Tổng số tiền vay là 248 triệu đồng chiếm 2,46%.
Vay dự án: Tổng số tiền vay là 743,5 triệu đồng chiếm 7,39%.
Vay khác: Tổng số tiền là 5.722,7 triệu đồng chiếm 56,86%.
Vốn vay chiếm tỷ trọng không lớn trong cơ cấu nguồn vốn, đứng thứ 2 sau vốn tự có nhưng qua khảo sát cho thấy sự phân bố không đồng đều, gây mất cân bằng trong việc phát triển trang trại sản xuất nông sản hàng hoá giữa các vùng. Huyện Sóc Sơn là một huyện nghèo nhưng vốn huy động rất thấp, chỉ chiếm 8,5%.
- Phân loại vốn vay theo thời gian: Chủ yếu là vốn vay ngắn hạn (54%), tỷ lệ vốn trung hạn và dài hạn chiếm ít (19% và 27%).
c.Thực trang tiềm năng lao động của trang trại ở Hà nội:
*Chủ trang trại: Trong tổng số các trang trại được khảo sát thì có 82,14% số chủ trang trại là nam giới. Độ tuổi bình quân của chủ trang trại tương đối trẻ. Số chủ trang trại từ 50 tuổi trở lên chỉ chiếm 28,57%. Các chủ trang trại ở Hà Nội xuất thân từ nhiều nguồn gốc khác nhau. Trong đó chủ yếu là nông dân thuần tuý (chiếm 78,57%). Số chủ trang trại hiện đang là cán bộ cấp xã là 7,14%. Các loại khác (bộ đội, công an xuất ngũ, cán bộ, công nhân hưu trí công chức và công nhân đang làm việc…) chỉ chiếm từ 5% trở xuống. Về chuyên môn, nghiệp vụ, đa số chủ trang trại chưa qua đào tạo (chiếm 71,43%). Phần còn lại chủ yếu có trình độ công nhân kỹ thuật.
*Lao động của trang trại: Tính bình quân, mỗi trang trại có 5,2 khẩu, trong đó có 2 lao động. Riêng ở huyện Từ Liêm là 5 khẩu, 3 lao động còn lại các huyện khác đạt xấp xỉ mức bình quân chung. Mức sử dụng thời gian lao động ở trang trại hiện nay đạt thấp, tính chung chỉ sử dụng 68,24% thời gian làm việc bình quân. Xem xét ở từng huyện, mức sử dụng thời gian lao động của trang trại cao nhất là huyện Gia Lâm và Thanh Trì đạt khoảng 76%, thấp nhất là ở huyện Sóc Sơn đạt 60%.
*Thuê mướn lao động: Hầu hết các trang trại có thuê thêm lao động thường xuyên và thời vụ. Tính bình quân mỗi trang trại thuê thêm 5 lao động (1,7 lao động thường xuyên và 3,3 lao động thời vụ/mỗi năm). Tiền công thuê lao động thường xuyên bình quân 455 ngàn đồng/tháng, thuê lao động thời vụ bình quân khoảng 22,7 ngàn đồng /ngày. có một số điểm đáng lưu ý sau đây:
Các chủ trang trại của mọi loại hình trang trại đều thuê thêm lao động thời vụ, lao động kỹ thuật đã qua đào tạo và chưa qua đào tạo.
Chỉ có trang trại của các chủ trang trại là công chức đương chức là không thuê thêm lao động đã qua đào tạo.
Các trang trại của nông dân có thuê thêm lao động thời vụ đã qua đào tạo chiếm 51% số lao động thuê thời vụ.
Theo ngành nghề kinh doanh chủ yếu thì việc thuê lao động đã qua đào tạo của các chủ trang trại cũng khác nhau. Đối với lao động thuê thường xuyên, có 25% số người được thuê có chuyên môn về trồng trọt, 15% số người có chuyên môn về chăn nuôi, 60% số người có chuyên môn về nuôi trồng thuỷ sản. Đối với lao động thuê thời vụ, chủ yếu là những người có chuyên môn về chăn nuôi và trồng trọt, nuôi trồng thuỷ sản.
d. Thực trang ảnh hưởng của cơ chế chính sách đến phát triển kinh tế trang trại ở Hà nội:
*Trong những năm đổi mới, cùng với cả nước Hà Nội đã có nhiều chuyển biến trong cơ chế chính sách phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn nói chung, kinh tế trang trại và kinh tế hợp tác xã nói riêng.
-Chương trình 06/CTr-TU của Thành uỷ Hà Nội nhiệm kỳ XI, đã nhấn mạnh: “Đổi mới tổ chức, cải tiến quản lý hợp tác xã, giảm cán bộ quản lý hợp tác xã, đồng thời nâng cao chất lượng cán bộ và cải tiến cơ bản phương pháp quản lý và điều hành… Khuyến khích thành lập các hợp tác xã, các tổ sản xuất, các hình thức hợp tác theo ngành hoặc chuyên khâu theo nguyên tắc liên kết tự nguyện. Sắp xếp lại các đơn vị quốc doanh, tách chức năng quản lý nhà nước về bảo vệ thực vật và thú y ra khỏi các công ty dịch vụ cây trồng và vật nuôi huyện; củng cố các cơ sở sản xuất giống cây trồng và gia súc; giải thể những đơn vị sản xuất kinh doanh không có hiệu quả; cổ phần hoá một số đơn vị quốc doanh hoặc thành lập công ty theo luật công ty. Khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp tư nhân mượn đất, thuê đất và cơ sở vật chất để phát triển sản xuất, chế biến nông sản, thực phẩm, dịch vụ. Khôi phục và phát triển sản xuất tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp ở nông thôn, duy trì các làng nghề thủ công truyền thống”.
-Kế hoạch thực hiện Nghị quyết TW 5 của UBND thành phố đã đề ra “Đổi mới quản lý các tổ chức hiện có, phát triển mạnh mẽ kinh tế nhiều thành phần, trong đó đổi mới kinh tế, phát huy vai trò tự chủ của kinh tế hộ xã viên. Kiên trì nguyên tắc đa dạng hoá sản xuất: từng hộ xã viên có thể tham gia thêm các hình thức hợp tác khác theo công đoạn, theo khâu hoặc theo ngành nghề sản xuất khác. Phát triển mạnh mẽ các hình thức tổ chức sản xuất khác, như doanh nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn, các tổ hợp liên kết sản xuất theo hình thức tự nguyện. Khuyến khích những hộ có vốn kể cả ở nội thành đầu tư thuê đất mở mang lập nghiệp ở nông thôn. Khuyến khích tổ chức khuyến nông tự nguyện…”.
-Chương trình 12/CTr-TU của Thành uỷ khoá XIII đã xác định tiếp tục “Củng cố quan hệ sản xuất định hướng XHCN phù hợp với quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, khuyến khích các thành phần kinh tế, tập trung phát triển kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại nông hộ, tiến hành giao đất, giao rừng, chuyển đổi thửa đất để tạo điều kiện cho nông dân yên tâm đầu tư và phát triển sản xuất hàng hoá. Tăng cường phát triển kinh tế hợp tác với loại hình phong phú. Sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là các doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ công ích”.
*Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành bằng cơ chế thị trường theo định hướng XHCN, có sự quản lý của Nhà nước đã khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn:
-Để tạo điều kiện cho các hộ gia đình nông dân chủ động sản xuất, thành phố đã cơ bản giao xong đất ổn định, lâu dài và cấp giấy chứng nhận ở những vùng ổn định sản xuất nông nghiệp, được 171.371 giấy. Trong nông thôn, đã có 9.962 hộ cá thể chuyên hoặc hộ nông nghiệp kiêm hoạt động tiểu thủ công nghiệp.
-Ngoài ra, thành phố cũng đã khuyến khích các thành phần kinh tế khác phát triển, đã có 17 doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, 14 tổ hợp tác đứng ra sản xuất-kinh doanh tiểu thủ công nghiệp trong nông thôn.
-Mặc dù đất đai chật hẹp, đã có 483 trang trại nông nghiệp với đa dạng loại hình chăn nuôi, trồng trọt, thuỷ sản…phát triển, tạo ra khối lượng hàng hoá lớn về thực phẩm cho Hà Nội.
*Tác động của chính sách đến việc hình thành của trang trại:
- Ở Hà Nội, cơ chế chính sách đã tác động rất mạnh mẽ đến sự hình thành của các trang trại. Sự tác động của Nhà nước có vai trò to lớn đối với sự hình thành và phát triển của kinh tế trang trại ở Hà Nội thông qua các chương trình phát triển kinh tế, đặc biệt là các chính sách có liên quan đến giao đất, giao rừng (đối với sự hình thành các trang trại lâm nghiệp và trồng cây ăn quả ở Sóc Sơn) ; các chính sách triển khai các văn bản pháp luật về đất đai (đối với sự hình thành các trang trại nuôi trồng thuỷ sản, trồng cây ăn quả ở 4 huyện còn lại và một số trang trại ở các xã đồng bằng của Sóc Sơn; các chính sách về vốn, về giống tạo, các chương trình Sind hoá đàn bó, nạc hoá đàn lợn, chăn nuôi bò sữa, chăn nuôi gia cầm tập trung đã hình thành nên các trang trại chăn nuôi ở vùng ngoại thành.
*Tác động tới việc phát triển của trang trại: Môi trường pháp lý tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế trang trại ở Hà Nội phát triển. Được thể hiện qua các điểm sau:
-Thừa nhận địa vị pháp lý của kinh tế trang trại theo đúng bản chất vốn có của nó là một hình thức tổ chức sản xuất cơ sở, một bộ phận hợp thành của hệ thống nông nghiệp. Tiếp theo, điều có ý nghĩa quan trọng là bằng các văn bản pháp quy, quy định rõ khung khổ pháp lý phù hợp cho các trang trại hoạt động, tạo điều kiện cho kinh tế trang trại ra đời và phát triển.
-Định hướng cho sự phát triển kinh tế trang trại thông qua quy hoạch phát triển và ban hành các chính sách kinh tế- xã hội.
-Khuyến khích kinh tế trang trại thông qua sử dụng các đòn bẩy kinh tế và phát triển các hình thức liên kết kinh tế phục vụ cho kinh tế trang trại phát triển.
-Hỗ trợ nguồn lực cho sự hình thành và phát triển của kinh tế trang trại như hỗ trợ vốn, phát triển kết cấu hạ tầng, hỗ trợ kinh phí đào tạo chủ trang trại, hỗ trợ chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật…
*Tuy nhiên không chỉ có các ảnh hưởng tích cực, bản thân cơ chế chính sách vẫn còn những tiêu cực tới kinh tế trang trại:
-Các chính sách chậm được ban hành. Nhiều chính sách của Nhà nước chưa được, hoặc không đủ điều kiện để đưa vào cuộc sống trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn.
-Việc triển khai thực hiện các chính sách còn nhiều hạn chế.Có chính sách đã ban hành nhưng không thể triển khai được đã làm ảnh hưởng tới sự phát triển của kinh tế trang trại.
e.Thực trang tiềm năng khoa học công nghệ của trang trại ở Hà nội:
*Do xác định được tiềm năng lớn về khoa học và công nghệ nông nghiệp có thể khai thác, chuyển giao và ứng dụng các thành tựu của khoa học công nghệ vào sản xuất, Hà Nội đã ban hành nhiều chính sách tạo điều kiện cho các hoạt động ngiên cứu chuyển giao và ứng dụng khoa học và công nghệ.
-Nhờ có chính sách trợ giá để duy trì các loại giống gốc, hay các loại giống mới, cũng như đầu tư cho hoạt động khuyến nông nên hàng năm các đơn vị sản xuất giống Hà Nội đã cung ứng trên 5.000 con lợn giống; 20.000 - 25.000 liều tinh dịch lợn ngoại; 150 - 200 bò sữa giống; 250 tấn lúa lai; 350 tấn lúa nguyên chủng và hàng ngàn tấn lúa cấp 1; Từ 4 - 5 triệu giống gia cầm; 20 tấn hạt giống rau và 5 - 10 vạn hoa các loại; 28.000 tấn phân hoá học. Đặc biệt đã làm tốt công tác khuyến nông, tập huấn được hơn 28.000 nông dân, dùng Quỹ khuyến nông cho vay 80 hộ nông dân trong thâm canh thuỷ sản, chăn nuôi, trồng hoa cây cảnh, rau an toàn và chế biến nông sản... Vì vậy, đã tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, giá trị thu được trên diện tích đất nông nghiệp đều tăng. Những chính sách trên đã tạo điều kiện để khoa học và công nghệ thực sự là nhân tố mới tác động mạnh mẽ đến sản xuất nông nghiệp của các huyện ngoại thành Hà Nội.
-Dưới tác động của chính sách, nông dân đã áp dụng mạnh mẽ các giống mới, như lúa lai; ngô lai; các loại rau cao cấp: súp lơ, dưa chuột bao tử, ớt ngọt, cải bao, cải bó xôi trồng quanh năm; các giống hoa mới; cây ăn quả đặc sản bưởi Diễn, cam Canh... Đồng thời đã áp dụng công nghệ mới trong trồng hoa, rau, như trồng trong nhà lưới, che phủ nilon, dùng phân bón và thuốc trừ sâu vi sinh...trồng được nhiều loại rau trái vụ chất lượng cao nên cho giá trị cao hơn. Đặc biệt là rau an toàn được phát triển mạnh đảm bảo rau có chất lượng cao, không gây độc cho người tiêu dùng và làm sạch môi trường. Đã hình thành vùng sản xuất hàng hoá tập trung về hoa, rau, và các trang trại phát triển.
-Hà Nội đã đưa mạnh các giống lợn lai ngoại 3 máu, 4 máu có tỷ lệ nạc cao nên đến nay đã có 60% tổng đàn đạt tỷ lệ nạc cao (48 - 55% nạc). Tích cực Sind hoá đàn bò vừa lấy thịt và làm bò cái nền tạo bò sữa, thay thế đàn bò sữa kém chất lượng bằng các giống F1, F2, F3 cho năng suất sữa cao hơn, đạt bình quân 12 lít/ ngày. Các giống gà siêu thịt, siêu trứng; ngan Pháp... được chuyển giao mạnh vào sản xuất. Đặc biệt, trong thuỷ sản đã đưa các loại chất lượng và năng suất cao tôm càng xanh, cá chim trắng và cá rô phi đơn tính... nuôi trồng nên đã nâng cao hiệu quả rõ nét. Đã hình thành các vùng sản xuất tập trung bò sữa, lợn nạc, thuỷ sản ở tất cả các huyện ngoại thành.
-Hiện nay, Hà Nội đã đầu tư xây dựng khu sản xuất nông nghiệp kỹ thuật cao: (Công ty giống cây trồng Hà Nội); đang triển khai xây dựng Xí nghiệp lợn giống ông bà (thuộc công ty Giống Gia súc Hà Nội); đang chỉ đạo xây dựng để phê duyệt các dự án kỹ thuật cao tại công ty Tam Thiên Mẫu….
*Tuy nhiên, chính sách khuyến khích chuyển giao và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất ở Hà Nội còn tản mạn, chưa tập trung vào những cây - con mũi nhọn có lợi thế, như: hoa - cây cảnh, rau an toàn, bò sữa, lợn nạc, thuỷ sản. Trong đó, chưa đầu tư thích đáng vào xây dựng hệ thống giống chất lượng cao về hoa, rau, bò sữa, thuỷ sản để nâng cao giá trị và hàm lượng chất xám trong sản phẩm, phát huy lợi thế nông nghiệp Thủ đô. Mặt khác, chính sách chưa quan tâm đến khuyến khích chuyển giao và áp dụng các công nghệ mới, công nghệ chế biến để nâng cao chất lượng sản phẩm và năng suất lao động, hiệu quả sản xuất... Đặc biệt, Hà Nội chưa có trung tâm nông nghiệp công nghệ cao một cách đồng bộ, đủ tiềm lực sản xuất để cung cấp cho thị trường khối lượng lớn sản phẩm chất lượng cao về hoa, cây cảnh, các giống thuỷ sản, gia súc... đáp ứng nhu cầu trong thành phố, các tỉnh bạn và có xuất khẩu.
Công nghệ sản xuất cơ bản vẫn còn lạc hậu, chưa đáp ứng với yêu cầu phát triển, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ sinh học để tạo giống cây trồng, vật nuôi, bảo quản và chế biến sau thu hoạch…Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội trong nông nghiệp, nông thôn còn có mặt hạn chế nên năng suất lao động và chất lượng của nhiều loại nông sản còn thấp, chưa đủ sức mạnh cạnh tranh với các nước trong khu vực và thế giới.
Việc ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới trong nông nghiệp còn chưa có tính hệ thống, đồng bộ trong quá trình sản xuất. Các cơ sở sản xuất giống cây trồng, lợn nạc, gà, bò sữa, thuỷ sản tuy đã được nâng cấp nhưng quy mô còn bé, thiếu tính đồng bộ thành hệ thống giống và hiện đại. Với điều kiện canh tác manh mún hiện nay ở các nông hộ, việc áp dụng các công nghệ cao, như công nghệ tưới phun, tưới nhỏ giọt, mô hình trồng cây trong nhà lưới quanh năm, chủ động điều tiết tiểu môi trường… để tạo ra sản phẩm chất lượng cao là rất khó khăn. Do vậy, nhiều sản phẩm như hoa, cây ăn quả chất lượng còn hạn chế, diện tích rau canh tác theo quy trình kỹ thuật an toàn còn chưa đáp ứng so nhu cầu thị trường đề ra.
*Nhìn chung, việc áp dụng khoa học công nghệ mới trong sản xuất kinh doanh vẫn còn nhiều bất cập. Việc áp dụng, cập nhập giống mới được tiến hành nhiều nhất trong thuỷ sản. Trong trồng trọt, chăn nuôi mức độ áp dụng thấp hơn. Đó là do các giống mới trong trồng trọt, chăn nuôi hiện nay có hiệu quả tương đương nhau, chưa xuất hiện những giống mới thực sự nổi bật. Có thể ví dụ đối với hoa các loại. Trong vài năm gần đây, các trang trại trồng hoa ở Tây Tựu vẫn tập trung ở một số loại hoa nhất định, chưa xuất hiện những giống mới có tính chất đột phá.
-Các khâu khác còn thấp hơn. Trong đó thấp nhất là phân bón hoá học, thuốc trừ sâu và thuốc thú y. Đây là những khâu cần phải có tỷ lệ khoa học công nghệ mới cao hơn.
f.Thực trang tiềm năng công nghiệp hóa-hiện đại hóa của trang trại ở Hà nội:
Mặc dù sản xuất nông nghiệp Hà Nội đã đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng, nhưng trình độ về công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH-HĐH) mới chỉ bắt đầu ở một số lĩnh vực như về giống cây trồng, vật nuôi. Hệ thống công trình thuỷ lợi phục vụ tưới, tiêu, đã thu được hiệu quả rất rõ rệt, bước đầu cho thấy xu hướng vận động đúng đắn, phù hợp với quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, theo hướng sản xuất hàng hoá có chất lượng cao.
*Thực hiện tập trung hoá, và chuyên môn hoá cho các loại sản phẩm nông nghiệp chủ yếu của Hà Nội đó là: thâm canh rau xanh, hoa, quả, lúa, ngô chăn nuôi: lợn, gà, bò, bò sữa, và cá.
-Đã hình thành ngày càng nhiều các khu vực tập trung sản xuất chuyên cây, chuyên con như vùng trồng rau ở Văn Đức - Gia Lâm, Nam Hồng - Bắc Hồng - Đông Anh; Vùng trồng hoa Tây Tựu - Từ Liêm, Uy Nỗ, Xuân Nội - Đông Anh; Vùng cây ăn quả tập trung ở 12 xã của Đông Anh, 3 xã của Từ Liêm và 9 xã vùng gò đồi của Sóc Sơn…. Vùng chăn nuôi lợn nái ở: Việt Hùng, Cổ Loa, Dục Tú, Nam Hồng (Đông Anh), vùng Trung Màu, Phù Đồng, Yên Thường (Gia Lâm). Vùng chăn nuôi bò sữa ở Phù Đổng - Gia Lâm, nuôi thả cá ở các xã vùng trũng Đông Mỹ, Đại áng của Thanh Trì....
-Các vùng sản xuất tập trung được đầu tư theo hướng hiện đại hóa từ hệ thống giao thông nội đồng, thuỷ lợi, hệ thống tưới tiêu, nhà lưới…
Tuy nhiên do đặc thù của sản xuất nông nghiệp ở Hà Nội là đất canh tác ít, dân số nông nghiệp đông, sản xuất phân tán, manh mún diễn ra từ nhiều năm, do đó quá trình tập trung hoá, và chuyên môn hoá trong sản xuất nông nghiệp Hà Nội có tính đặc thù riêng. Và xu hướng phát triển chủ yếu là tập trung đầu tư tăng giá trị sản phẩm trên đơn vị sản xuất.
*Thực hiện thuỷ lợi hoá, kiên cố hoá các hệ thống công trình thuỷ lợi:
-Hệ thống thủy lợi được đầu tư củng cố, phát triển, phục vụ ngày càng tốt hơn cho nền sản xuất nông nghiệp thâm canh. Hiện nay trên địa bàn 5 huyện ngoại thành và 2 quận mới đang quản lý 418 trạm gồm 664 máy bơm tưới các loại có công suất từ 1000 - 81000 m3/h.
-Hệ thống thuỷ lợi đảm bảo 74% diện tích được tưới và 40% diện tích được tiêu chủ động (có nhiều hồ chứa lớn nhỏ và 1.247 km kênh mương cấp I và cấp II thực hiện nhiệm vụ tưới cho 35.033 ha, tiêu 19050 ha phục vụ sản xuất nông nghiệp và dân sinh xã hội).
-Quá trình thuỷ lợi hoá được mở rộng trong những năm gần đây, khi Nhà nước có chủ trương bê tông hoá kênh mương. Tỷ lệ cứng hóa đạt 100% với kênh loại I, 47% đối với kênh loại II và 26% đối với kênh loại III.
*Quá trình cơ giới hoá trong nông nghiệp:
-Cơ khí hóa trong nông nghiệp Hà Nội nhìn chung diễn ra chậm. Hiện nay đã có 45% diện tích đất được sử dụng máy, tưới chủ động đạt 70%, khâu thu hoạch lúa gần 100% được cơ khí hóa. Khâu vận chuyển đạt 40%, trong đó máy kéo lớn trên 12 CV trung bình mới có 0,24 cái/100 ha đất, máy kéo nhỏ dưới 12 CV trung bình 2,28 cái/100 ha đất canh tác. Xe ô tô vận tải, công nông có 8,41 cái/100 ha đất canh tác. Máy bơm nước có 433,2 cái/100 ha đất canh tác. Những công việc còn lại như : gieo trồng, chăm sóc, thu hoạch chủ yếu làm thủ công.
-Nguyên nhân của tình trạng cơ giới hoá trong sản xuất nông nghiệp còn thấp là do:
Đa số có qui mô sản xuất nhỏ, phân tán, manh mún.
Nền sản xuất hàng hoá còn chưa phát triển và trình độ nhận thức về khoa học công nghệ còn thấp.
Mức sống của đa số hộ nông dân còn nghèo, dư thừa lao động và đa số chưa có khả năng đầu tư vào trang thiết bị cơ giới phục vụ cho sản xuất.
*Việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật công nghệ mới trong sản xuất nông nghiệp tương đối rộng rãi và bước đầu đem lại hiệu quả cụ thể
-Trong khâu giống cây trồng, vật nuôi : 100% giống được chọn lọc, bồi dục tốt, trong đó tỷ lệ giống ưu thế lai, với ngô đạt 60%, gà : 79%, lợn : 100%, trong đó lợn nạc tỷ lệ cao đạt 50%, bò sữa 80%...
-Các kỹ thuật tiên tiến trong thâm canh cây trồng vật nuôi được áp dụng rộng rãi, như kỹ thuật bón phân, thức ăn tổng hợp, phòng trừ dịch, bệnh, kỹ thuật tưới nước, ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất rau, hoa có chất lượng cao v.v... đã góp phần tăng năng suất, sản lượng, và giá trị sản phẩm.
*Hạn chế của lĩnh vực áp dụng các tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới trong sản xuất nông nghiệp ở Hà Nội ở chỗ :
-Chưa có tính hệ thống, và thiếu tính liên hoàn trong cả quá trình của sản xuất.
-Lĩnh vực bảo quản và chế biến sau thu hoạch chưa phát triển.
-Tập quán sản xuất truy
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36055.doc