Đề án Một số vấn đề cải cách nền hành chính của Nhà nước ta

Thực tiễn đang cho thấy còn nhiều vấn đề quan trọng cần làm rõ trong các mối quan hệ giữa quản lý ngành và quản lý lãnh thổ, giữa quản lý Nhà nước và quản lý sản xuất kinh doanh theo tinh thần xoá bỏ cơ chế "chủ quản". Trên thực tế còn nhiều thủ tục hành chính rườm rà, chồng chéo, gây nhiều phiền hà và tốn kém, tạo môi trường thuận lợi cho "tiêu cực", nhiều thủ tục đã được sửa đổi chưa được chấp hành nghiêm chỉnh. Việc xử lý những kiện tụng, tranh chấp, khiếu tố còn rất chậm hoặc để tồn đọng nhiều việc. cải cách hành chính là một nhiệm vụ rất khó khăn, phức tạp, song không có bất kỳ một lý do gì có thể trì hoãn. Cải cách hành chính với tinh thần khắc phục những yếu kém là một trong những biện pháp quan trọng nhất đấu tranh chống tham nhũng, góp phần giải phóng các tiềm năng phát triển đất nước "Trích phát biểu của Thủ tướng Võ Văn Kiệt tại phiên họp ngày 12/03/1996, kỳ họp Quốc hội thứ 9, khoá IX" trang 2 trong tạp chí qlnn .

 

doc29 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1792 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Một số vấn đề cải cách nền hành chính của Nhà nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ưỡng đầy đủ, cho nên từ lâu Đảng và Nhà nước ta luôn luôn coi trọng việc xây dựng đội ngũ cán bộ có đức, có tài, coi công tác cán bộ là một khâu có ý nghĩa quyết định đối với sự nghiệp cách mạng. Thực tiễn công việc cho thấy sự cần thiết phải có một đội ngũ những người làm hành chính chuyên nghiệp, được tuyển chọn và đào tạo theo những tiêu chuẩn nhất định, cần gấp rút xây dựng quy chế công chức và chế độ công vụ, bảo đảm cho mọi công chức đều yên tâm công tác và học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ suốt đời Trích tạp chí QLNN của Nguyễn Hữu Trị. Trang 39-40 . II- Những vấn đề trước mắt về cải cách hành chính. 1. Những kết quả bước đầu. a. Về thể chế của nền hành chính, đã có một loạt văn bản pháp luật (luật, pháp lệnh, nghị định...) của Quốc hội và của Chính phủ mang nội dung cải cách hành chính và đi vào cuộc sống. - Trên lĩnh vực kinh tế, thể chế của nền hành chính đã được cải cách một bước qua sự ban hành những văn bản và thực hiện văn bản đổi mới về quản lý kinh tế thích ứng với nền kinh tế thị trường (các văn bản luật pháp về sở hữu và quản lý đất đai, đầu tư của nước ngoài, đầu tư trong nước, xuất nhập khẩu, Công ty cổ phần, Công ty tư nhân...) - Trên lĩnh vực thể chế, vấn đề nổi bật là đã cải cách một bước các thủ tục hành chính, trước hết tập trung vào 7 lĩnh vực quan trọng trong việc giải quyết các quan hệ của cơ quan hành chính Nhà nước với các tổ chức và công dân. b. Về tổ chức bộ máy hành chính Nhà nước. Đã ban hành Luật tổ chức Chính phủ, các luật Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp, tinh giảm bộ máy chính phủ (giảm bớt bộ, từ 37 bộ, 40 cơ quan thuộc Chính phủ, còn 22 bộ , 26 cơ quan thuộc Chính phủ; tách một số đơn vị tỉnh ; bước đầu tinh giảm biên chế bộ máy ở trung ương và địa phương (khoảng 20%); đã từng bước xoá bỏ chế độ "chủ quản hành chính"; đổi mới cơ cấu và phương thức làm việc của các bộ quản lý Nhà nước đối với toàn ngành, toàn lĩnh vực trong phạm vi cả nước. Cơ cấu bộ máy và chương trình làm việc cũng như quy chế, phương thức làm việc của Chính phủ, có được cải tiến một bước, tập trung vào việc chuẩn bị những dự án lập pháp (luật - pháp lệnh), xem trọng công tác lập quy và điều hành công việc nhanh nhạy hơn, có quy chế hơn. c. Về nền công vụ và đội ngũ công chức. Đã cải tiến một bước sự sắp xếp ngạch, bậc của cán bộ, công chức Nhà nước và bước đầu cải cách hệ thống thang lương; thực hiện chế độ thi tuyển vào một số ngạch công chức hành chính của một số cơ quan. Đã đẩy mạnh hơn công tác bồi dưỡng và đào tạo cán bộ, công chức từ cấp thứ trưởng, vụ trưởng, chủ tịch và phó chủ tịch uỷ ban nhân dân tỉnh - thành phố, huyện, quận. Các tỉnh đã chú ý nhiều hơn vào công tác đào tạo và bỗi dưỡng cán bộ trong huyện và cán bộ xã phường Trích tạp chí QLNN số 2/1997 của GS. Đoàn Trọng Truyến. Trang 18-19 . 2. Hạn chế và khó khăn. Cuộc cải cách còn chậm, nhiều vấn đề (khuyết điểm, nhược điểm) của nền hành chính Nhà nước chưa được nghiên cứu và cải cách đúng mức cần thiết. Thể chế còn nhiều lỗ hổng, thiếu hoàn chỉnh, đồng bộ, nhất quán; cái cũ còn đan xen cái mới và cản trở cái mới. Bộ máy cũng có cải tiến nhưng có nhiều vấn đề vướng mắc, kể cả trên những mặt cơ bản của bộ máy Nhà nước nói chung và bộ máy hành chính Nhà nước nói riêng, như sự phân công, phối hợp giữa tổ chức hành chính Nhà nước với tổ chức lập pháp và tư pháp; cũng như sự phân công, phân cấp, phân quyền giữa Chính phủ và các bộ với các cấp chính quyền địa phương chưa thật hợp lý; sự phân định chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của các bộ, các cơ quan trung ương chưa thật rành mạch, khoa học; bộ máy hành chính chưa thật thông suốt từ trung ương xuống cơ sở; chế độ trách nhiệm và kỷ cương, kỷ luật trong bộ máy chưa đủ mạnh. Chế độ công vụ và quy chế công chức chưa được cải cách, còn mang nhiều dấu vết của cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp; quan niệm các loại cán bộ, công chức còn đại cương, không được phân biệt minh bạch vì tiêu chuẩn còn chung chung, thiếu cụ thể; tính tập trung quan liêu cũng như tính phân tán, tản mạn trong quản lý nền công vụ vẫn còn, có khi cùng tồn tại và đan xen nhau. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hành chính có được đẩy mạnh, nhưng đến nay đội ngũ nói chung còn yếu kém so với yêu cầu mới về chính trị, kinh tế, hành chính..., cả về năng lực quản lý, kỹ năng hành chính về phẩm chất chính trị - tư tưởng; bệnh quan liêu, tham nhũng, thiếu kỹ cương, thiếu khoa học còn nặng nề Trích tạp chí QLNN số 2/1997 của GS. Đoàn Trọng Truyến. Trang 19 . 3. Cải cách bộ máy hành chính Nhà nước ở nước ta hiện nay. Về nội dung cải cách bộ máy hành chính Nhà nước phải quán triệt những tư tưởng chỉ đạo sau đây: a. Cần giải quyết tốt mối quan hệ cải cách kinh tế và cải cách hành chính trên cơ sở đưa nền kinh tế nước ta chuyển sang phát triển nền kinh tế hàng hoá, nhiều thành phần, có kế hoạch, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của Nhà nước và xác định đúng vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Cải cách hành chính Nhà nước nhằm thúc đẩy công cuộc đổi mới và phát triển đất nước theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá. b. Cải cách hệ thống hành chính Nhà nước thực chất là điều chỉnh và cải cách hoạt động của Chính phủ và hệ thống hành pháp nhằm quản lý Nhà nước có hiệu quả hơn, tạo điều kiện phát triển kinh tế xã hội. c. Cải cách hệ thốnh hành chính Nhà nước trước hết phải gắn với việc xác định vai trò quan trọng của Chính phủ, vừa đảm bảo sự tập trung thống nhất, thông suốt của hệ thống hành chính, vừa đảm bảo tính chủ động sáng tạo của các cấp chính quyền địa phương; xác định trách nhiệm cụ thể của các cấp trong vấn đề lập quy, ngân sách và quản lý trên địa bàn, lãnh thổ. d. Cải cách hệ thống hành chính Nhà nước được tiến hành trên các nội dung quan trọng như: cơ cấu thiết kế bộ máy hành chính Nhà nước; quyền lực và phân bố quyền lực; khung pháp luật hành chính; quản lý và phát triển nguồn nhân lực; quản lý tài chính và ngân sách; tài phán hành chính và toà án hành chính. e. Tiếp tục điều chỉnh và hoàn thiện các chính sách công cụ quản lý vĩ mô và thông qua chính sách tài chính, thu nhập, phân phối ngân sách tiền tệ nhằm sử dụng tốt hơn các nguồn lực để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. f. Cải cách hệ thống hành chính Nhà nước vừa mang tính chiến lược, vừa mang tính hiện thực cấp bách. Nó phải được gắn liền với cải cách kinh tế, cải cách tư pháp, cải cách hệ thống các cơ quan trong bộ máy hành chính Nhà nước Trích tạp chí QLNN của GS.TS. Nguyễn Duy Gia. Trang 5 . Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã chỉ rõ "sắp xếplại bộ máy hành chính ở trung ương và địa phương, hợp nhất một số cơ quan quản lý chuyên ngành về kinh tế trên cơ sở xác định rõ và thực hiện đúng chức năng quản lý Nhà nước của các bộ, ngành. Cụ thể hoá sự phân cấp quản lý Nhà nước giữa các cơ quan của Chính phủ và các cấp chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của từng cấp hành chính; cụ thể hoá nguyên tắc tập trung dân chủ phù hợp với yêu cầu nâng cao hiệu lực chỉ đạo, điều hành thống nhất và thông suốt của hệ thống hành chính Nhà nước và của thủ trưởng cơ quan hành chính Trích Văn kiện Đại hội VIII. Tr.241-242 . III- Cải cách nền hành chính Nhà nước - những vấn đề đặt ra. 1. Cải cách hành chính và mối quan hệ giữa cải cách hành chính với cải cách pháp luật và cải cách kinh tế. Mối quan hệ giữa cải cách hành chính với cải cách pháp luật và cải cách tư pháp: Thực chất của cải cách hành chính ở nước ta là đặt quyền hành pháp, đặt hệ thống hành chính vào khuôn khổ của pháp luật, trước hết phải giải quyết những vấn đề bức xúc như cải tiến quy trình lập pháp và lập quy, mối quan hệ giữa Quốc hội, Chính phủ và Hội đồng nhân dân, giữa hoạt động hành chính và tài phán hành chính Trích tạp chí QLNN của GS.TS. Nguyễn Duy Gia - Giám đốc Học viện hành chính quốc gia. Tr.54 . 2. Cải cách bộ máy chính quyền địa phương. Công cuộc cải cách nền hành chính gắn liền với tiến trình dân chủ hoá và biểu hiện qua các hình thức: phân cấp quyền quyết định ngày càng nhiều cho các cấp chính quyền địa phương, giảm nhẹ sự can thiệp của Nhà nước trong hoạt động sản xuất kinh doanh và xã hội hoá một bộ phận hoạt động dịch vụ công. - Kiến nghị các giải pháp xây dựng mô hình tổ chức bộ máy hành chính địa phương Trích tạp chí QLNN của GS.TS. Nguyễn Duy Gia - Giám đốc Học viện hành chính quốc gia. Tr.55 . 3. Cải cách thủ tục hành chính và tăng cường quản lý Nhà nước ở một số lĩnh vực. Công cuộc cải cách thủ tục hành chính trước hết phải tuân thủ các tiêu chuẩn đơn giản, rõ ràng, có tính thống nhất và tính thích nghi; đồng thời phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy tắc trong kỹ thuật lập quy. + Nâng cao hiệu lực của văn bản quản lý Nhà nước - một loại công cụ quản lý đặc thù trên cơ sở hoàn thiện các khái niệm về văn bản, thể chế hoá quy trình, thẩm quyền ban hành văn bản và áp dụng kỹ thuật hiện đại vào việc xây dựng, sử dụng và quản lý văn bản. + Hoàn thiện thể chế kinh tế xã hội để tạo môi trường phát triển sản xuất kinh doanh, đặc biệt là ở Hà Nội. Sự phát triển khá sôi động của thị trường Hà Nội với nhiều loại chủ thể sản xuất kinh doanh đòi hỏi Nhà nước phải khắc phục những tồn tại của thể chế hiện đang tạo ra sự bất bình đẳng trong cạnh tranh về tổ chức lao động, về động lực đối với con người và sự hỗ trợ và kiểm soát của Nhà nước. + Tăng cường vai trò của Nhà nước trong việc phát triển hạ tầng kinh tế xã hội ở nông thôn. Phương châm cơ bản là "Nhà nước và nhân dân cùng làm" Trích trong tạp chí QLNN của GS.TS. Nguyễn Duy Gia trang 55-56 . 4. Xây dựng đội ngũ công chức hành chính Nhà nước. Đây là nội dung then chốt của công việc cải cách hành chính hiện nay và cũng là yếu tố quyết định đối với thành công hay thất bại của cải cách. Trước hết, vấn đề xây dựng đội ngũ công chức phải gắn với việc cải cách bộ máy Nhà nước trong đó việc tăng cường năng lực cho đội ngũ công chức là điều kiện cần, là tiền đề thực hiện thắng lợi sự nghiệp cải cách bộ máy Nhà nước. Đội ngũ công chức ở nước ta đã có nihều đóng góp và trưởng thành qua các thời kỳ. Đội ngũ công chức với những phẩm chất tốt đẹp song lại có nhiều khuyết tật mang nặng dấu ấn của nền sản xuất nhỏ. Khắc phục những khuyết tật tâm lý, xây dựng một phong cách làm việc phù hợp với yêu cầu mới, kết hợp giữa dân tộc và hiện đại Trích trong tạp chí QLNN của GS.TS. Nguyễn Duy Gia - trang 56 . IV. Một số vấn đề về cải cách thủ tục hành chính. 1. Vai trò của thủ tục hành chính. a. Là nhân tố bảo đảm sự hoạt động chặt chẽ thuận lợi, đúng chức năng quản lý hành chính của bộ máy Nhà nước, vì nó là những chuẩn mực hành vi cho các công dân và các viên chức Nhà nước để họ tuân theo và thực hiện nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước. Dựa vào đó, các công việc hành chính sẽ được xử lý và đạt được những hiệu quả luật pháp đúng như dự định. b. Bảo đảm sự đầy đủ, tính toàn diện và tính khách quan của việc phân tích vấn đề và nghiên cứu tình huống của những sự việc cụ thể, xác định sự thật trong đó sử dụng đúng đắn và vô tư các quy phạm vật chất của luật hành chính và các ngành luật khác. c. Tạo điều kiện để thực hiện luật pháp, lợi ích hợp pháp và nghĩa vụ của công dân cũng như của các doanh nghiệp, tổ chức và các đối tượng quản lý khác. d. Giúp cho việc phát triển nguyên tắc dân chủ trong quản lý, tính công khai và sự kiểm tra của dư luận xã hội vì chúng tạo điều kiện cho nhân dân tham gia vào công việc quản lý Nhà nước. e. Tiết kiệm sức lực, phương tiện và thời gian của viên chức trong bộ máy Nhà nước. g. Giúp cho việc đưa vào cuộc sống nguyên tắc trách nhiệm của từng cơ quan, nhà đương sự đối với công việc được giao Trích trong chương I của Mai Hữu Khuê, Bùi Văn Nhơn - năm 1995 trang 15-17 . 2. Tiêu chuẩn của thủ tục hành chính. +Tiêu chuẩn thứ nhất là tính đơn giản và rõ ràng. Bất cứ ở đâu, người quản lý đều phải năng động, nhạy cảm, mới làm cho luật lệ, phương pháp thủ tục giữ được hình thức đơn giản. + Tiêu chuẩn thứ hai là tính linh động. Công việc không những chỉ cần phải đơn giản, rõ ràng mà đồng thời còn cần phải ứng biến tuỳ theo những sự thay đổi cần thiết. + Tiêu chuẩn thứ ba là tính thống nhất. Những nghiệp vụ tương tự trong các cơ quan khác nhau cần được hướng dẫn và kiểm soát như nhau. Thực hiện tốt tiêu chuẩn này sẽ đạt mục tiêu tiết kiệm và cải tiến công vụ rất lớn. 3. Nguyên tắc của thủ tục hành chính. a. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Tất cả các cơ quan Nhà nước.... nhân viên Nhà nước đều phải chấp hành nghiêm chỉnh hiến pháp, pháp luật, kiên quyết đấu tranh để phòng ngừa và chống các tội phạm, Các việc làm vi phạm hiến pháp và pháp luật. Như vậy, chỉ có cơ quan Nhà nước có thẩm quyền do luật định mới được thực hiện các thủ tục hành chính nhất định và phải thực hiện đúng trình tự được pháp luật quy định với những hình thức được pháp luật cho phép. b. Nguyên tắc chân thực khách quan. Văn bản nào cũng phải đảm bảo hoạt động theo thẩm quyền hay theo yêu cầu của công dân, thể hiện được trách nhiệm của Nhà nước về tổ chức và quản lý đời sống nhân dân theo luật định. Vì thế nguyên tắc chân thực khách quan là rất cần thiết. c. Nguyên tắc công khai. Các quy định về thủ tục hành chính phải được công bố công khai để mọi cơ quan, đơn vị và nhân dân biết. Công khai hoá các thủ tục rộng rãi sẽ khắc phục được tình trạng lợi dụng sự thiếu hiểu biết của công dân để gây phiền hà, quấy nhiễu và đề cao được trách nhiệm của các cơ quan quản lý Nhà nước, tiết kiệm thời giờ và tiền của. d. Nguyên tắc kịp thời, nhanh chóng. Tính thời gian đã trở thành một yếu tố quan trọng để đánh giá chất lượng của quyết định trong thời đại ngày nay, khi mà nhiều sự thay đổi diễn ra rất nhanh. e. Nguyên tắc trách nhiệm của người có thẩm quyền. Các quyết định ban hành không đúng thủ tục có thể bị đình chỉ, sửa đổi hoặc bãi bỏ và người ban hành các quyết định đó có thể bị truy cứu trách nhiệm. Có thực hiện đúng những tiêu chuẩn và nguyên tắc nói trên thì mới có thể có những thủ tục hành chính hữu hiệu 2và 3 trích trong chương I của Bùi Văn Nhơn và Mai Hữu Khuê - 21.07.1995, trang 55-59, trang 60-63 V. Thể chế hành chính Nhà nước và tiếp tục cải cách thể chế hành chính. 1. Khái niệm thể chế hành chính Nhà nước. Thể chế hành chính Nhà nước là hệ thống các quy phạm và chuẩn mực được ghi nhận trong các văn bản pháp luật mà phần nhiều là văn bản lập quy; nó quy định về tổ chức nền hành chính, về quản lý hành chính trên các lĩnh vực, về sự kiểm soát đối với hoạt động hành chính, tạo ra một cơ sở, khuôn khổ pháp lý đặc trưng trong lĩnh vực quản lý hành chính và là phương tiện chủ yếu cho các cơ quan, công sở cũng những các thiết chế hành chính khác thực hiện chức năng cai quản, phục vụ Nhà nước và nhân dân, hỗ trợ cho xã hội, nhằm bảo đảm trật tự pháp luật, kỷ luật Nhà nước, bảo vệ tự do, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và thúc đẩy sự hình thành đồng bộ và vận hành có hiệu quả các yếu tố thị trường, tạo ra sự thích ứng của thể chế của nước ta với pháp luật tập quán quốc tế. 2. Cơ cấu của thể chế hành chính Nhà nước và định hướng cải cách thể chế hành chính. Nếu căn cứ vào sự tác động quản lý của Nhà nước tạo ra các quan hệ quản lý hành chính có tính chất quyền lực, phục tùng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và các quan hệ ấy là đối tượng quy định của hệ thống thể chế hành chính, thì có thể phân loại hành chính Nhà nước theo các lĩnh vực cơ bản: thể chế hành chính - chính trị, thể chế hành chính - kinh tế, thể chế hành chính - văn hoá, xã hội. Trong cải cách thể chế hành chính hiện nay đang tập trung vào những vấn đề lớn sau: + Cải cách thể chế liên quan đến thủ tục hành chính. + Cải cách thể chế về quyền khiếu nại, tố cáo của dân và thiết lập tài phán hành chính để giải quyết các khiếu kiện của dân theo thủ tục tố tụng hành chính. + Đổi mới quy trình lập pháp và quy trình lập quy, chú trọng quy trình hình thành thể chế kinh tế mới. + Thiết lập các thể chế nhằm nâng cao hiệu lực thi hành pháp luật, lập lại trật tự, kỷ cương Nhà nước. Muốn thể chế hành chính có khả năng thực hiện phải tăng cường công tác lập quy của Chính phủ, tiếp tục đổi mới quy trình, nâng cao chất lượng các công việc của Chính phủ về nghiên cứu và ban hành các văn bản pháp quy. Kiên quyết khắc phục tình trạng văn bản pháp quy ban hành không kịp thời, không cụ thể, không rành mạch, thậm chí chống chéo gây khó khăn cho việc tổ chức thực hiện Trích trong tạp chí QLNN của PTS. Đinh Văn Mậu - Phó giám đốc Học viện hành chính quốc gia. Tr. 24-26 . VI- Tiếp tục cải cách bộ máy Nhà nước, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. - Xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân; lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng cộng sản lãnh đạo thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của tổ quốc và của nhân dân. - Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. - Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước. - Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức xã hội chủ nghĩa. - Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Để xây dựng kiện toàn bộ máy Nhà nước vững mạnh trong sạch, có hiệu lực và hiệu quả, trong 5 năm tới phải thực hiện tốt các nhiệm vụ sau: Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác lập pháp và giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. - Về hoạt động lập pháp. Phấn đấu ban hành các đạo luật cần thiết để điều chỉnh các lĩnh vực của đời sống xã hội. Ưu tiên xây dựng các luật về kinh tế, về thực hiện các quyền công dân và các luật điều chỉnh công cuộc cải cách bộ máy Nhà nước. Coi trọng tổng kết thực tiễn Việt Nam, nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật, ban hành các văn bản luật với những quy định cụ thể, dễ hiểu, dễ thực hiện. Giảm dần các luật chỉ dừng lại ở những nguyên tắc chung, thiếu tính xác định cao, muốn thực hiện được phải có nhiều văn bản hướng dẫn thi hành. - Về hoạt động giám sát. Nâng cao chất lượng, hiệu lực và hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội. Xác định rõ phạm vi, nội dung, cơ chế giám sát của Quốc hội và các uỷ ban của Quốc hội, phân định rõ tính chất, chức năng nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau giữa hoạt động giám sát của Quốc hội với hoạt động kiểm tra, thanh tra, kiểm soát của các cơquan và tổ chức khác. Cùng với việc bảo đảm thực hiện các quyền khiếu nại, tố cáo của công dân, cần nghiên cứu hướng dẫn để mọi công dân có điều kiện phát hiện, đề xuất, kiến nghị, giúp co hoạt động giám sát có hiệu quả. 1. Cải cách tổ chức và hoạt động tư pháp. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật làm cơ sở cho tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan tư pháp, bảo đảm mọi vi phạm pháp luật đều phải xử lý, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. - Củng cố và hoàn thiện bộ máy các cơ quan tư pháp. Phân định lại thẩm quyền xét xử của toà án nhân dân, từng bước mở rộng thẩm quyền xét xử sơ thẩm cho toà án nhân dân huyện. Đổi mới tổ chức hoạt động của việc kiểm soát nhân dân, các cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án và các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp. - Xây dựng đội ngũ thẩm phán, thư ký toà án, điều tra viên, kiểm sát viên, chấp hành viên, công chứng viên, giám định viên, luật sư.... có phẩm chất chính trị và đạo đức chí công vô tư, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, bảo đảm cho bộ máy trong sạch, vững mạnh "Trích báo cáo chính trị Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng trong tạp chí QLNN trang 2." . 2. Phải đẩy mạnh hơn nữa cải cách hành chính, tạo thêm những thuận lợi cho công cuộc đổi mới. Thực tiễn đang cho thấy còn nhiều vấn đề quan trọng cần làm rõ trong các mối quan hệ giữa quản lý ngành và quản lý lãnh thổ, giữa quản lý Nhà nước và quản lý sản xuất kinh doanh theo tinh thần xoá bỏ cơ chế "chủ quản". Trên thực tế còn nhiều thủ tục hành chính rườm rà, chồng chéo, gây nhiều phiền hà và tốn kém, tạo môi trường thuận lợi cho "tiêu cực", nhiều thủ tục đã được sửa đổi chưa được chấp hành nghiêm chỉnh. Việc xử lý những kiện tụng, tranh chấp, khiếu tố còn rất chậm hoặc để tồn đọng nhiều việc.... cải cách hành chính là một nhiệm vụ rất khó khăn, phức tạp, song không có bất kỳ một lý do gì có thể trì hoãn. Cải cách hành chính với tinh thần khắc phục những yếu kém là một trong những biện pháp quan trọng nhất đấu tranh chống tham nhũng, góp phần giải phóng các tiềm năng phát triển đất nước "Trích phát biểu của Thủ tướng Võ Văn Kiệt tại phiên họp ngày 12/03/1996, kỳ họp Quốc hội thứ 9, khoá IX" trang 2 trong tạp chí qlnn . Phần III Những phương hướng, mục tiêu, giải pháp nhằm cải cách nền hành chính ở nước ta. I- Những giải pháp cơ bản, khả thi về cải cách hành chính trong cơ quan Nhà nước. 1. Cần đặc biệt quan tâm đến vấn đề cốt lõi nhất của thể chế hành chính là sự phân công, phân cấp quản lý rõ ràng và có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan hành chính các cấp, các ngành trong bộ máy hành chính Nhà nước. Điều đó phải được biểu hiện cụ thể trong cơ quan Nhà nước là: Căn cứ vào luật pháp, vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao, nhất thiết phải xây dựng, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện quy chế làm việc của cơ quan. Quy chế đó gồm các nội dung chính dưới đây. Nguyên tắc chung, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức bộ máy và cán bộ, mối quan hệ công tác (trên, dưới, dọc, ngang) quan hệ công tác giữa cấp uỷ và bí thư cùng cấp với thủ trưởng cơ quan, giữa thủ trưởng với đoàn thể quần chúng; chế độ làm việc; sinh hoạt; hội họp; tiếp dân; chế độ bảo vệ tài sản của cơ quan; chế độ khen thưởng và kỷ luật. Quy chế trên phải được bàn bạc thật sự dân chủ và cấp trên có thẩm quyền thông qua. Thí dụ: Các sở, ban, ngành và tương đương thì uỷ ban nhân dân tỉnh thông qua; các phòng, ban chuyên môn cấp huyện thì thông qua uỷ ban nhân dân huyện, thị xã. Sau khi quy chế được ban hành, thủ trưởng cơ quan Nhà nước phải kiên quyết chỉ đạo thực hiện một cách nghiêm túc, đồng thời cũng là người thực hiện mẫu mực, vì "đầu xuôi đuôi lọt", từ đó cơ quan sẽ hình thành kỷ cương, nề nếp. Trên cơ sở quy chế đã được xây dựng, cơ quan Nhà nước cần phải tiếp tục tiến hành, xây dựng các nội quy, các quy định cụ thể trên từng mặt công tác, từng bộ phận, từng nhóm như quy định người ra, vào để bảo vệ an toàn cơ quan, nghi thức giao tiếp, lễ tân, sử dụng máy điện thoại, máy vi tính, quy định mua sắm, sửa chữa, giữ gìn, bảo quản tài sản cơ quan, thành phần đối tượng tiếp khách trong và ngoài nước, quy định trực ngày lễ, tết, chủ nhật làm tốt những việc trên đây chính là đã rà soát loại bỏ những khâu bất hợp lý, gây phiền hà, sách nhiễu, vi phạm pháp luật... trong cơ quan Nhà nước và làm như vậy tức là đã thực hiện "khâu đột phá" cải cách một bước cơ bản về thủ tục hành chính. Bởi vì nội dung thủ tục hành chính có nghĩa là trình tự thực hiện một hoạt động của cơ quan quản lý Nhà nước, là phương thức và cách thức làm việc của cơ quan đó, cũng như cách thức và phương thức giải quyết các công việc của công dân, của các cơ quan Nhà nước và tổ chức khác, cùng các giấy tờ cần thiết. 2. Kiện toàn tổ chức bộ máy cơ quan Nhà nước tức là chấn chỉnh cơ cấu, tổ chức, biên chế, làm cho bộ máy tinh giản, gọn nhẹ và hiệu quả. Muốn vậy trước hết cần phải phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của tập thể, của từng bộ phận, từng cá nhân (từ thủ trưởng cơ quan đến các nhân viên) một cách rõ ràng không chồng chéo, trùng lặp kiên quyết cắt bỏ các tầng nấc trung gian không cần thiết. Các chức danh đều được tiêu chuẩn hoá, bố trí phù hợp, đối với các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh (sở, ban, ngành và tương đương) nói chung chỉ nên bố trí cấp trưởng và một cấp phó, trừ trường hợp thật cần thiết mới bố trí hai, còn các cơ quan chuyên môn cấp huyện cũng chỉ nên bố trí cấp trưởng và một cấp phó là phù hợp. Tất nhiên sắp xếp như vậy là phải căn cứ vào điểm mấu chốt là tiêu chuẩn ngang tầm nhiệm vụ được giao. Điều đáng lưu ý là: hiện tại nhiều cơ quan Nhà nước, nhất là cấp tỉnh và cấp huyện, bộ máy được tinh giản gọn nhẹ hơn; cho nên thường bố trí một người phải làm nhiều việc, nhưng không nên dùng từ "kiêm" trong khi phân công như: Văn thư kiêm đánh máy, kiêm lưu trữ, kiêm thủ kho, kiêm thủ quỹ. Như vậy, về nhận thức sẽ không đầy đủ trách nhiệm đối với việc "kiêm", thường coi nhẹ việc làm thêm, việc phụ, dẫn đến kết quả thấp. Mọi việc đều phải coi trọng ngang nhauvà đều phải làm tốt. Đặc biệt khi phân công nhiệm vụ cho từng công chức, phải xác định mức chuẩn xác công việc, tránh tình trạng người làm không hết việc, người "ngồi chơi xơi nước"; cần bố trí sắp xếp khoa học, hợp lý như lời dạy của Bác Hồ "dụng dân như dụng mộc". 3. Về đội ngũ cán bộ công chức hành chính. Đây là khâu then chốt và là giải pháp cơ bản, quyết định nhất. Vì hai giải pháp trên chủ yếu là do đội ngũ cán bộ,công chức cơ quan Nhà nước đề ra và tổ chức thực hiện. Chính vì thế, nghị quyết Đại hội VI của Đảng đã tổng kết bài học kinh nghiệm quý báu đó và khẳng định: Cán bộ là nguyên n

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34991.doc
Tài liệu liên quan