MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu 1
Chương I: Tổng quan về chính sách tiền tệ 2
1. Chính sách tiền tệ là gì? 2
2. Cơ cấu chính sách tiền tệ 2
3. Mục tiêu của chính sách tiền tệ. 3
3.1. Kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng bản tệ. 3
3.2. Tạo việc làm, giảm bớt thất nghiệp 4
3.3. Ổn định và tăng trưởng kinh tế 5
3.4. Quan hệ giữa các mục tiêu 5
4. Quan hệ giữa chính sách tiền tệ và các chính sách kinh tế vĩ mô khác. 6
5. Các công cụ của chính sách tiền tệ. 7
5.1. Nghiệp vụ thị trường mở. 7
5.2. Chính sách chiết khấu. 8
5.3. Dự trữ bắt buộc. 9
5.4. Quản lý lãi suất của các ngân hàng thương mại. 10
5.5. Kiểm soát hạn mức tín dụng. 10
Chương II: Chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay 12
1. Tình hình kinh tế tiền tệ việt nam hiện nay 12
2. Thực thi các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay. 13
2.1. Dự trữ bắt buộc. 13
2.2. Chiết khấu, tái chiết khấu. 13
2.3. Nghiệp vụ thị trường mở. 13
2.4. Quản lý lãi suất của ngân hàng thương mại. 14
2.5. Quản lý ngoại hối. 15
3. Đánh giá quá trình điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam 15
3.1. Những mặt tích cực. 15
3.2. Những kết quả đạt được. 17
3.3. Mặt hạn chế còn tồn tại. 18
3.4. Nguyên nhân. 18
Chương III: Nâng cao hiệu quả của chính sách tiền tệ ở Việt Nam 22
1. Với các công cụ trực tiếp 22
1.1. Một số giải pháp sử dụng nghiệp vụ thị trường mở. 22
2. Cần có các công cụ gián tiếp để điều hành CSTT. 24
2.1. Các giải pháp đối với chính sách lãi suất. 24
3. Chính sách tiền tệ cần được sử dụng một cách đồng bộ cùng với các chính sách khác. 29
4. Về các thủ tục hành chính, bộ máy hành chính. 29
Kết luận 31
Tài liệu tham khảo 32
34 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1488 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Một số vấn đề về chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ền gửi của các ngân hàng thương mại. Trong trường hợp ngân hàng thương mại quá ham kiếm lợi nhuận bằng cách cho vay quá mức, có thể phương hại tới quyền lợi của người ký gửi tiền. ở đây, Ngân hàng trung ương đảm bảo an toàn tiền gưỉ cho khách hàng. Theo thuyết tạo tiền, hệ thống ngân hàng thương mại có thể tạo ra một lượng tiền lớn gấp nhiều lần, với công thức tổng quát:
Tiền gửi mới được tạo ra = (1/ tỷ lệ dự trữ bắt buộc) * Tiền dự trữ ban đầu.
Thứ hai: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc tác động đến lãi suất cho vay của hệ thống ngân hàng thương mại. Tiền dự trữ không được hưởng lãi nên khi mức dự trứ tăng lên, đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải tăng lãi suất cho vay đối với nền kinh tế, khả năng cho vay của các ngân hàng thương mại giảm xuống, và theo đó lượng tiền cung ứng giảm xuống. Ngược lại, khi mức dự trữ giảm xuống, lãi suất cho vay giảm, khả năng cho vay của các ngân hàng thương mại tăng và làm cho lượng tiền cung ứng tăng.
Hiện nay, công cụ dữ trữ bắt buộc đóng vai trò kém quan trọng trong quá trình thực thi chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương, bởi nó ảnh hưởng tới lợi nhuận của các ngân hàng thương mại và kém linh hoạt tuy nó tác động như nhau tới các ngân hàng thương mại.
5.4. Quản lý lãi suất của các ngân hàng thương mại.
Lãi suất được xem là công cụ gián tiếp thực hiện chính sách tiền tệ trong việc cung ứng tiền vào lưu thông hoặc rút bớt tiền khỏi lưu thông. Sở dĩ, nói lãi suất là công cụ gián tiếp, bởi lẽ, lãi suất không trực tiếp làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ trong lưu thông.
Thông thường, chính sách lãi suất đi vay hay lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay biến đổi cùng chiều. Nghĩa là, cả hai mức lãi suất đó đều tăng lên hay giảm xuống đồng thời. Tuy nhiên, nó vận động ngược chiều với giá cả của chứng khoán.
Hiện nay, trên thế giới có hai quan điểm về cơ chế hình thành lãi suất.
* Quan điểm thứ nhất: ấn định lãi suất, tức là ngân hàng trung ương phải qui định lãi suất đối với các ngân hàng trung gian.
* Quan điểm thứ hai: Thả nổi lãi suất, tức là lãi suất do thị trường quyết định.
Vận dụng quan điểm nào còn tuỳ thuộc vào tựng nước. Theo chính phủ ở nhiều nước đang phát triển ngày càng thừa nhận lãi suất chịu sự quản lý của nhà nước có thể có hại, họ có khuynh hướng để cho thị trường có tiếng nói lớn hơn đảm bảo cho môi trường cành tranh lành mạnh. Song, trong điều kiện sự ổn định kinh tế vĩ mô chưa được thiết lập, nhà nước có thể tiếp tục quản lý lãi suất.
Tóm lại, công cụ lãi suất trong chính sách tiền tệ là công cụ cực kỳ lợi hại, có sức phản công rất ghê gớm, một nhà kinh tế người Mỹ đã nói, nó là một công cụ để kích thích sản xuất đồng thời là một công cụ để kìm hãm sản xuất, tuỳ thuộc vào sự khôn ngoan hay khờ dại của những người sử dụng công cụ này.
5.5. Kiểm soát hạn mức tín dụng.
Hạn mức tín dụng là việc ngân hàng trung ương quy định một khối lượng tín dụng nhất định cho các ngân hàng thương mại, cho từng thời kỳ phù hợp với mục tiêu của chính sách tiền tệ. Nó được xác định trên cơ sở chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ lạm phát, thâm hụt ngân sách, tốc độ lưu thông tiền tệ …
Để hạn chế việc tạo tiền quá mức của ngân hàng thương mại làm tăng tổng khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế, Ngân hàng trung ương quy định hạn mức tín dụng tối đa cho từng ngân hàng thương mại. Và phần lớn, hạn mức được căn cứ vào tỷ trọng cho vay của nó trong quá khứ so với tổng mức cho vay của hệ thống ngân hàng.
Hạn mức tín dụng được Ngân hàng trung ương sử dụng như một côg cụ quan trọng của chính sách tiền tệ, khi mà công cụ truyền thống kém hiệu quả. Tuy nhiên, khống chế hạn mức tín dụng có thể làm cho lãi suất thị trường tăng lên, làm giảm cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại, làm lệch lạc cơ cấu đầu tư của các ngân hàng thương mại, làm phát sinh các thị trường tài chính “ngầm” ngoài sự kiểm soát của Ngân hàng trung ương, gây khó khăn về vốn cho các doanh nghiệp nhỏ …
Chương II
Chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay
1. Tình hình kinh tế tiền tệ việt nam hiện nay
Tuỳ vào từng thời điểm khác nhau, mỗi nước có mục tiêu riêng về chính sách tiền tệ. Chính sách tiền tệ ở Việt Nam đã được xác định là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và kiềm chế lạm phát và chúng ta đã thu được một số thành tựu trong những năm qua.
* Tình hình tỷ giá.
Tháng 9/1994, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng được thiết lập, NHNN thực hiện vai trò người mua bán cuối cùng trong ngày. Tỷ giá chính thức vẫn được ngân hàng công bố, chỉ có biên độ dao động là có sự thay đổi. Đồng USD là đồng ngoại giữ vị trí chủ đạo trong nền kinh tế, và có xu hướng tăng giá so với VNĐ.
* Tình hình lạm phát.
Những năm gần đây, theo ước tính lạm phát ở Việt Nam là hai con số, trung bình khoảng 6%. Theo như lời của Ngân hàng nhà nước thì chúng ta vẫn khống chế được tỷ lệ lạm phát như mong muốn. Sự ra đời với mệnh giá lớn của đồng tiền việt nam không phải là dấu hiệu của lạm phát, chúng ta vẫn chưa nên thay đổi chính sách tiền tệ trong trường hợp này.
* Tình hình thất nghiệp.
Tỷ lệ thất nghiệp Việt Nam trong giai đoạn hiện nay đã lên mức báo động. Theo tính toán không chính thức của NH thế giới, thì giai đoạn hiện nay tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam xấp xỉ 7%, lao động qua dạy nghề chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng số lao động.
* Tăng trưởng kinh tế.
Trong công cuộc đổi mới kinh tế những năm vừa qua, chúng ta đã thu được kết quả bước đầu rất khả quan, tạo được niềm tin trong dân chúng cũng như các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Nền kinh tế đã đạt được kết quả tương đối cao và bắt đầu có tích luỹ, đầu tư được mở rộng sản xuất lưu thông phát triển. Chúng ta đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế khoảng trên 7%/năm trong những năm qua. Tuy nhiên kinh tế nước ta có chiều hướng chững lại, do cơ chế của chúng ta không tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài …
2. Thực thi các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay.
2.1. Dự trữ bắt buộc.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ ngày 5/7/1999 đối với tiền gửi kỳ hạn dưới 12 tháng của các NHTM và các công ty tài chính là 5% của NHTM cổ phần nông thôn, quỹ tín dụng TW và quỹ tín dụng khu vực là 1%, riêng ngân hàng NHNN & PTNT do phải tập trung vốn thực hiện một số chính sách phục vụ nông nghiệp và phát triển nông thôn, nên từ trung tuần tháng 9/1999 tỷ lệ dự trữ bắt buộc được giảm từ 5% xuống3%.
Hành động này giúp cho các tổ chức tín dụng mở rộng qui mô tín dụng của mình tăng khả năng cung ứng vốn cho nên kinh tế và các tổ chức tín dụng có điều kiện để giảm thêm lãi suất cho vay.
2.2. Chiết khấu, tái chiết khấu.
Do chưa có thị trường tiền tệ (kể cả thị trường thương phiếu) nên lãi suất tái cấp vốn được sử dụng trong quản lý tiền tệ thay cho lãi suất tái chiết khấu. Trong quá trình đổi mới, một mặt NHNN luôn nỗ lực phát triển khu vực thị trường tiền tệ, mặt khác cũng chú trọng hoàn thiện việc điều tiết lãi suất tái cấp vốn điểm nổi bật trong việc điều tiết lãi suất tái cấp vốn thời gian qua là chuyển lãi suất tái cấp vốn thế từ bị động sang thế chủ động.
NNNH đã liên tục giảm lãi suất cho vay trên thị trường tái cấp vốn đối với NHTM từ 1.1%/tháng thời điểm ngày 21/1/1998 và đến 11/1999) chỉ còn 0.5%/tháng đồng thời NHNN công bố lãi suất chiết khấu là 0.45%/tháng.
2.3. Nghiệp vụ thị trường mở.
ở Việt Nam hiện nay nghiệp vụ thị trường mở chưa thực sự trở thành công cụ đóng vai trò quan trọng để NHNN điều tiết mức cung ứng tiền. Nguyên nhân cơ bản nhất là chúng ta mới chỉ có thị trường sơ cấp còn thị trường thứ cấp mới được hình thành và manh nha hoạt động. Hàng hoá trên thị trường chủ yếu là tín phiếu kho bạc, nhưng khối lượng được phát hành còn ít lại chưa thường xuyên. Trong năm 1999 tính đến giữa tháng 11, kho bạc nhà nước phối hợp với NHNN tổ chức được 40 phiếu đấu thầu tín phiếu kho bạc kỳ hạn một năm. Tổng giá trị đấu thầu trong 40 phiếu này là 4000 tỷ đồng (100tỷ/phiếu) tổng khối lượng tín phiếu đã đấu thầu là 2.863,6 tỷ đồng, bằng 78.59% tổng khối lượng tín phiếu đấu thầu.
Đây là một công cụ hết sức linh hoạt, chính xác, chủ động và dễ dàng mua bán. nhằm tiến hành chuyển hướng điều hành tiền tệ từ các công cụ trực tiếp sang công cụ gián tiếp năm 1999, NHNN đã gấp rút các điều kiện chuẩn bị về pháp lý cũng như công cụ cho hoạt động thị trường mở, dự kiến sẽ hoạt động vào quý I năm 2000.
2.4. Quản lý lãi suất của ngân hàng thương mại.
Quốc hội khoá IX trong kỳ họp thứ 8, tháng 8/1995 cùng với nghị quyết bỏ thuế doanh thu trong hoạt động tín dụng ngân hàng, đã yêu cầu ngân hàng tiết kiệm chi phí hoạt động kinh doanh và khống chế mức lãi suất huy động và cho vay bình quân là 0.35%/tháng.
Việc quy định trần lãi suất và quy định sàn lãi suất. Vì thế từ 1/1/96, NHNN đã quy định trần lãi suất cho vay tối đa và mức chênh lệch 0.35% thay cho việc điều hành lãi suất cho vay, lãi suất tiền gửi chi tiết và lãi suất thoả thuận quy định trước đó.
Từ 21/1/1998 đến nay, tại kỳ họp thứ 2 tháng 12/1997, quốc hội khoá IX cho phép bỏ mức chênh lệch 0.35%/tháng đồng thời để thu hẹp mức cách biệt giữa mức lãi suất cho vay giữa thành thị và nông thôn, NHNN quy định các mức lãi suất mới, rút từ 4 trần xuống còn ba trần lãi suất
Trẫn lãi suất cho vay ngắn hạn : 1.2%/tháng
Trần lãi suất cho vay trung và dài hạn: 1.25%/tháng
Trần lãi suất quỹ tín dụng cho vay thành viên 1.5%/tháng.
Trong năm 1999, trước tình hình thiểu phát, tốc độ tăng trưởng có xu hướng chậm lại, NHNN đã điều hành lãi suất theo cơ chế lãi suất trần và được điều chỉnh linh hoạt trên cơ sở bám sát các diễn biến kinh tế vĩ mô cung cầu vốn trên thị trường tiềng tệ và xu hướng nới lỏng tiền tệ, kích cầu. Từ đầu năm đến nay NHNN đã 5 lần điều chỉnh giảm trần lãi suất cho vay. Cho đến tháng 10/1999 trần lãi suất cho vay áp dụng cho khu vực thành thị là 0.85%/tháng. Khu vực nông thôn là 1%/tháng riêng NHTN cổ phần nông thôn vẫn là 1.15%/tháng, quỹ tín dụng nhân dân cơ sở và hợp tác xã tín dụng cho vay đối với thành viên vẫn là 1.15%/tháng.
2.5. Quản lý ngoại hối.
Thực hiện chính sách quản lý ngoại hối chặt chẽ, năm 1999 NHNN đã tăng cường theo dõi , giam sát các tổ chức tín dụng thực hiện các quy định của thủ tướng chính phủ về kết hối ngoại tệ, thường xuyên có đánh giá tình hình thực hiện và kịp thời trình chính phủ sửa đổi cơ chế cho phù hợp với thức tế (giảm tỷ lệ kết hối bắt buộc đối với các tổ chức kinh tế có nguồn thu ngoại tệ vãng lãi từ 80% xuống còn 50% số ngoại tệ thu được); xây dựng và trình thủ tướng chính phủ ban hành quy định về việc quy định người Việt Nam ở nước ngoài chuyển tiền về nước nhằm thu hút nguồn ngoại tệ phục vụ công cuộc phát triển kinh tế của đất nước.
Cung với việc đổi mới trong quản lý các giao dịch vãng lai, NHNN đã tăng cường các biện pháp trong quản lý vay trả nợ nước ngoài của doanh nghiệp, quản lý đầu tư nước ngoài, quản lý hoạt động kinh doanh vàng.
3. Đánh giá quá trình điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam
3.1. Những mặt tích cực.
Việc cho ra đời và vận hành một chính sách tiền tệ theo các nguyên tắc cơ bản của hoạt động tiền tệ trong nền kinh tế thị trường là một bước ngoặt trong lịch sử điều hành và thể hiện tập nhất của quá trình đổi mới hệ thống tiền tệ NH thời gian qua.
Thứ nhất: Về hoạt động cung ứng tiền.
Thời điểm thay đổi có tính chất quyết định đối với cơ chế cung ứng tiền là năm 1990, khi cơ chế xác định lượng tiền cung ứng một cách hành chính bị xoá bỏ, thay và đó là lượng tiền cung ứng hàng năm được xác định trên các căn cứ tương đối hợp lý đó là tốc độ tăng trưởng kinh tế và lạm phát dự tính. Xác định các căn cứ cung ứng tiền trên đây cũng đồng nghĩa với việc xoá bỏ một kênh cung cấp tiền truyền thống in tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách (năm 1991). Cơ chế điều hành việc cung ứng tiền cũng đã có những thay đổi rõ rệt. Với chức năng điều tiết lưu thông tiền tệ kể từ năm 1993, NHNN đã được trao quyền chủ động hơn và rút tiền khỏi lưu thông trên cơ sở chỉ tiêu năm đã được duyệt, loại bỏ vĩnh viễn tình trạng thiếu tiền mặt có tính thời điểm trong nền kinh tế.
Thứ hai: Về chính sách lãi suất.
Lãi suất đối với nền kinh tế: Nội dung việc điều tiết lãi suất đã kết hợp được cả hai yêu cầu, đó là quán triệt nguyên tắc lãi suất dương và từng bước thị trừơng hóa việc điều tiết lãi suất tạo môi trường tự chủ cho các tổ chức tận dụng cũng như khu vực khách hàng. Từ chỗ ấn định cụ thể mức lãi suất đối với các hoạt động huy động và cho vay của hệ thống NH, đến nay NHNN chỉ quản lý trần lãi suất thả nổi hoàn toàn lãi suất đầu vào cũng trong thời gian đó, mức lãi suất liên tục điều chỉnh giảm 4-5 lần/năm vào các năm 96-99.
Lãi suất tái cấp vốn: do chưa có thị trương tiền tệ (kể cả thị trường thương phiếu) nên lãi suất tái cấp vẫn được sử dụng trong quản lý tiền tệ thay cho lãi suất chiết khấu. Trong quá trình đổi mới một mặt NHNN luôn nỗ lực phát triển thị trường tiền tệ, mặt khác cũng chú trọng việc điều tiết lãi suất tái cấp vốn. Điểm nổi bật trong điều tiết lãi suất tái cấp vốn thời gian qua là chuyển lãi suất tái cấp vốn từ thể bị động sang thể chủ động, kể từ khoảng tháng 3/97, lãi suất tái cấp vốn đã được xác định một cách độc lập.
Tương quan lãi suất nội ngoại tệ cũng được điều tiết tương đối thích hợp. Từ năm 1997-1999 do VND được điều tiết giảm theo những tín hiệu trên thị trường nên lãi suất VND được điều tiết cao hơn lãi suất ngoại tệ. Chính vì vậy, ngay cả khi khủng hoảng tài chính châu á xảy ra, các đông tiền trong khu vực mất giá mạnh nhưng giá trị đồng Việt Nam vẫn được duy trì tương đối ổn định việc chuyển dịch tiền tệ (đô la hoá) không xảy ra ồ ạt.
Thứ ba: Về tài chính chính sách quản lý ngoại hối.
Quan điểm chủ đạo trong chính sách quản lý ngoại hối của Việt Nam trong giai đoạn đổi mới là: Từng bước đảm bảo nhà nước nắm được ngoại tệ phục vụ cho nhập khẩu và ổn định giá tri đồng nội tệ. Định hướng lâu dài của chính sách ngoại hối là tăng cường dự trữ ngoại hối củng cố nâng cao gia trị VND và đưa VND thành đông tiền tự do chuyển đổi, các giao dịch ngoại hối mang tính thị trường như giao dịch kỳ hạn , giao dịch hoán đổi ... đã được chú ý phát triển. đây có thể coi là những bước đột phá trên thị trường ngoại hối và có tác dụng hỗ trợ tích cực cho việc thực thi các quy chế ngoại hối, phần nào giảm bớt những khó khăn cho nền kinh tế đang trong qua trình tự do hoá thương mại.
Thứ 4: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
NHNN đã liên tục giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng đây là một giải pháp kịp thời, linh hoạt và đồng bộ của NHNN, góp phần làm dịu đi những khó khăn của các tổ chức tín dụng do lãi suất giảm tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng giảm lãi suất cho vay tăng khả năng cung ứng vốn đối với nền kinh tê và góp phần thúc đẩy phát triển tăng trưởng kinh tế.
3.2. Những kết quả đạt được.
Việc thực hiện chính sách tiền tệ kích hoạt có kiểm soát, lượng tiền đưa vào lưu thông liên tục tăng, khoảng trên 20%, phương tiện thanh toán được đảm bảo trong nền kinh tế. Nó đã góp phần quan trọng thúc đầy nền kinh tế tăng trưởng liên tục với tốc độ cao, bình quân khoảng hơn 7% trong những năm gần đây.
Giữ được ổn định vĩ mô, ổn định tỷ giá điều chỉnh lãi suất phù hợp để đáp ứng cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái ngoại tệ phù hợp tăng ngoại tệ cho đất nước thị trường ngoại tệ sôi động doanh số giao dịch trên thị trường ngoại tệ tăng.
Huy động được quyền vốn đầu tư bù đắp sự giảm sút vốn đầu tư nước ngoài, ngoài dư nợ cho vay thông thường còn đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư của nhà nước, đáp ứng đủ ngoại tệ để đầu tư những dự án trọng điểm với lãi suất thấp hơn lãi suất quốc tế.
Cái được lớn nhất trong hoạt động kinh doanh tiền tệ thời gian qua là tốc độ gia tăng nguồn vốn huy động và dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hàng góp phần quan trọng vào việc ổn định lưu thông tiền tệ, đáp ứng nhu cầu to lớn về vốn cho phát triển kinh tế trong bối cảnh cơ sở vật chất tự có còn rất hạn chế (theo ước tính vốn tự có của khu vực sản xuất chiếm khoảng 10-20% tổng vốn sản xuất).
3.3. Mặt hạn chế còn tồn tại.
Tỷ lệ lạm phát biến động không đông đều, lạm phát ở nước ta thấp ở mức kỷ lục và có thể rơi vào vòng xoáy lạm phát từ tháng 3 đến tháng 10 năm 99 chúng ta có lạm phát âm gây ra những tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế.
Tỷ lệ thất nghiệp trong giai đoạn hiện nay đã lên đến mức báo động đạt xấp xỉ 7% gây lãng phí về nguồn lực gây ra các tệ nạn xã hội
Đầu tư của nền kinh tế đang chậm lại hoặc đang thiếu vốn, đặc biệt là vốn cho sản xuất của các doanh nghiệp.
Tỷ lệ nợ của các ngân hàng thương mại còn qua cao tới mức báo động quan hệ giữa lãi suất huy động cho vay ngoại tệ và VNĐ còn chưa hợp lý gây ra tình trạng cốn huy động bằng ngoại tệ tăng nhưng dư nợ cho vay ngoại tệ lại giảm.
3.4. Nguyên nhân.
3.4.1. Nguyên nhân khách quan.
Ngày 2/7/1997 cuộc khủng hoảng tiền tệ châu á xảy ra bắt đầu từ thái lan, cuộc khủng hoảng lạm phát ảnh hưởng đến nhiều nước, trong đó có nước ta.
Hạn hán, thiên tai, dịch bệnh … thường xuyên xảy ra gây ảnh hưởng nặng nề lên nền kinh tế và xã hội.
Một số vụ án về ngân hàng như Minh Phụng, Tân Trường Xanh … đã làm phương hại đến ngành ngân hàng cả về tài sản lẫn uy tín.
3.4.2. Nguyên nhân chủ quan.
Đó là hạn chế cơ chế điều chỉnh trực tiếp trong điều hành hành chính về chính sách tiền tệ ở việt nam.
Các công cụ trực tiếp có thể hiểu là các công cụ tác động trực tiếp vào các mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ, còn công cụ gián tiếp tác động vào mục tiêu thông qua điều tiết dữ trữ vượt mức (vốn khả dụng) của hệ thống NHTM, với cách hiểu như vậy, hiện nay NHNN Việt nam đang sử dụng một hệ thống các công cụ chính sách tiền tệ trực tiếp bao gồm hạn mức tín dụng, lãi suất (thông qua hệ thống trần lãi suất cho vay), tỷ giá, bên cạnh đó các công cụ gián tiếp như dự trữ bắt buộc và chính sách tái cấp vốn (bao gồm hạn mức tái cấp vốn và lãi suất tái cấp vốn) cũng được sử dụng, nhưng hiệu quả tác động rất hạn chế để bổ trợ cho các công cụ trên , NHNN còn sử dụng một loạt các chính sách khác như chính sách tín dụng, chính sách tỷ giá ngoại hối. Những hạn chế của cơ chế điều chỉnh trực tiếp trong điều hành chính sách tiền tệ ngày càng bộc lộ rõ nét.
Hiệu lực tác động của chính sách tiền tệ bị hạn chế vì không lợi dụng được các kênh dẫn suất đa dạng qua lãi suất, qua kênh tín dụng và qua thị trường tài chính với những ảnh hưởng qua giá trái phiếu, cổ phiếu và giá ngoại tệ.
Việc sử dụng các công cụ trực tiếp và các chính sách điều chỉnh như hiện nay chỉ cho phép chính sách tiền tệ tác động đến các biến số vĩ mô thông qua kênh truyền dẫn trực tiếp.
Kênh truyền dẫn trực tiếp chủ yếu lợi dụng cơ chế tác động của thị trường tài chính thông qua sự thay đổi giá tài sản và sự cơ cấu lại danh mục đầu tư của người đầu tư . Với các công cụ, đặc biệt là nghiệp vụ thị trường mở, ngân hàng trung ương có thể đa phương truyền tác động của nó đến các mục tiêu của chính sách tiền tệ bao gồm các kênh dẫn truyền trực tiếp và gián tiếp.
Các công cụ điều hành chính sách tiền tệ hiện có chưa phát huy tốt tác dụng trong cơ chế thị trường , thậm chí có công cụ vẫn còn ở dạng sơ khai và rất thiếu công cụ cần thiết để đáp ứng đòi hỏi mới của tình hình.
NHNN việt nam chỉ sử dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc là chính , nhưng công cụ này rất khó sử dụng, rất rễ bị lỡ tay và trong thực tế nó cũng chưa phát huy được hết tác dụng. Trong khi đó nghiệp vụ thị trường mở rất linh hoạt, chính xác, chủ động và rễ ràng đảo ngược việc mua lại chưa được sử dụng
3.4.3. Sự bất cập của các thủ tục pháp lý, hành chính và sự yếu kém của bộ máy hành chính.
Hệ thống ngân hàng chưa thoát khỏi cơ chế cũ, chưa bám thị trường, chưa bám khách hàng, chưa đủ năng động. Để vay được vốn của ngân hàng là điều rất khó, khó hơn rất nhiều so với gửi tiền vào. Còn trong quan hệ của NHTM và NHNN thì những điều kiện để chiết khấu, tái chiết khấu cũng rất khó. Gần đây NHNN ra quyết định về việc trích dự phòng rủi ro tín dụng. Đây là vấn đề mà các NHTM mong đợi từ lâu song khi có rồi lại thất vọng. Bởi vì, khi điều kiện thực hiện quá ngặt nghèo, nằm ngoài tầm với của NHTM thì có cũng như không.
3.4.4. Nguyên nhân thuộc về những người lập, ra quyết định, thực hiện quyết định.
Những người lập chính sách còn chưa có trình độ cao nhiều khi còn ra các quyết định sai lầm , thêm vào đó là chất lượng thông tin về các biến số vĩ mô còn chưa được cao.
Những biện pháp đề ra chưa đủ nhanh, mạnh, nội dung công việc triển khai chậm chưa bám sát thực tiễn.
3.4.5. Những hạn chế của chính sách lãi suất.
Thứ nhất: Quá trình điều chỉnh lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay chưa đồng bộ gây ảnh hưởng đến hiệu qủa quá trình huy động và cho vay vốn.
Thứ hai: Lãi suất thực chưa cao làm ảnh hưởng đến đầu tư, do lãi suất danh nghĩa và lạm phát chưa có mối liên hệ chặt chẽ.
Thứ ba: Bên cạnh đó mức lãi suất ưu đãi đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu chưa hợp lí, không thúc đẩy quá trình mở rộng xuất khẩu ở Việt Nam.
Hiện nay cần thực hiện quy định mức lãi suất ưu đãi cho các ngành khi nhập máy móc hiện đại phục vụ các ngành trọng tâm trong tiến trình công nghiệp hoá theo hướng xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu .
Muốn đẩy mạnh chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu thì ngay trước mắt cũng cần có một biểu lãi suất cho vay hợp lí để đầu tư vốn cho xây dựng cơ sở hạ tầng mà trước hết là cơ sở hạ tầng phục vụ xuất khẩu như hệ thống cảng biển , cảng hàng không …
Thứ tư: Khu vực nông thôn chưa được tạo điều kiện để phát triển kinh tế, trong khi đó nước ta lại là một nước nông nghiệp đi lên và nông nghiệp là chủ đạo.
Thứ năm: Chất lượng tín dụng có chiều hướng thay đổi xấu đi
Thống kê toàn ngành cho thấy nợ quá hạn đến hết năm 1996 ước khoảng 4%, tỷ lệ có thấp hơn so với những năm đầu đổi mới song con số đó so với yêu cầu còn quá cao và cũng chưa phản ánh đúng thực tế. Đáng báo động ở một số ngân hàng con số này đã lên tới 10%, tín dụng bị sa sút nghiêm trọng về chất lượng.
Thứ sáu: Lãi suất cho vay bằng nội tệ vẫn cao hơn nhiều lãi suất ngoại tệ trong khi tỷ giá hối đoái ổn định.
Quan hệ giữa lãi suất cho vay bằng VND và bằng USD còn chưa hợp lý . Trong khi chênh lệch lãi suất đầu vào và đầu ra của tín dụng bằng ngoại tệ là 3% /năm (mặc dù thấp hơn so với một số nước trên thế giới: Thái lan, Trung quốc 3,2% , Mỹ 4%) nhưng so với mức chênh lệch lãi suất đầu ra và lãi suất đầu vào của VND quả là không cân xứng. Như vậy là kinh doanh ngoại tệ có thu nhập cao hơn kinh doanh tiền đồng. Không ít ngân hàng huy động được ngoại tệ đã không cho các doanh nghiệp trong nước vay mà gửi ra nước ngoài kiếm chênh lệch cao hơn cho vay trong nước.
ChươngIII
Nâng cao hiệu quả của
chính sách tiền tệ ở Việt Nam
1. Với các công cụ trực tiếp
1.1. Một số giải pháp sử dụng nghiệp vụ thị trường mở.
Ngân hàng trung ương các nước thường tiến hành phần lớn các nghiệp vụ thị trường mở theo yêu cầu điều chỉnh cùng cầu tiền tệ, đặc biệt khi không thể thực hiện được với công cụ tái chiết khấu.
ở Việt Nam hiện nay, thị trường mở chưa thực sự trở thành công cụ đóng vai trò quan trọng để NHNN điều tiết mức cung ứng tiền tệ.
Để sớm có thể đưa nghiệp vụ thị trường mở vào hoạt động, cần có các giải pháp sau:
1.1.1. Hoàn thiện cơ chế tổ chức, điều kiện công nghệ nhằm thực hiện có hiệu quả nghiệp vụ thị trường mở.
Để thực hiện tốt nghiệp vụ thị trường mở, NHNN cần có bộ máy gồm các chuyên gia tài chính - tiền tệ giỏi chuyên môn theo dõi, phân tích đánh giá diễn biến tình hình tiền tệ, lạm phát ... để đưa ra những quyết định can thiệp vào thị trường một cách kịp thời, cùng các công cụ khác thực thi có hiệu quả mục tiêu chính sách tiền tệ. Bộ máy này có thể gọi là ban thị trường mở trực thuộc NHNN. Nhiệm vụ chủ yếu của ban thị trường mở gồm.
* Theo dõi, tính toán dự toán vốn khả dụng của các ngân hàng (qua bộ phận nghiệp vụ). Các thông tin này giúp ban thị trường mở quyết định cần phải thay đổi vốn khả dụng của các NHTM ở mức độ cần thiết để đạt được yêu cầu cung ứng tiền tệ.
* Theo dõi diễn biến xu hướng vận động của tình hình lạm phát, lãi suất đầu tư cùng kết quả phân tích ở trên, tính toán đề xuất phương án mua hoặc bán, khối lượng mua, bán từng đợt, lãi suất trình thống đốc quyết định.
* Phát triển công nghệ ngân hàng, bao gồm đào tạo con người và trang thiết bị kỹ thuật hiện đại.
1.1.2. Ban hành quy chế về hoạt động của thị trường mở và hình thành cơ chế can thiệp linh hoạt, kịp thời của NHNN trên thị trường mở.
* NHNN cần quy định rõ các công cụ được mua bán trên thị trường mở, quy định cụ thể phạm vi đối tượng tham gia thị trường mở.
* NHNN cũng cần thực hiện linh hoạt cơ chế mua bán tại thị trường mở giả sử nếu CSTT đặt trọng tâm vào việc điều tiết lãi suất thì NHNN nên áp dụng giá cố định. Khi cần tăng lãi suất trên thị trường hoặc khống chế khối lượng tiền tệ trong lưu thông, NHNN đặt mua lại các tín phiếu trên thị trường mở với mức lãi suất cao, mức lãi suất đó sẽ tác động đến lãi suất thị trường nói chung, đồng thời giúp NHNN nhanh chóng thu hẹp được khối tiền tệ ngoài lưu thông như dự định.
1.1.3. Các biện pháp liên quan khác.
Việc phát hành tín phiếu, trái phiếu kho bạc phải tập trung vào một đầu mối thông qua NHNN làm đại lý.
* NHNN cần tiếp tục củng cố, hoàn thiện thị trường tiền tệ liên ngân hàng hoạt động thực sự sôi nổi, lành mạnh và thực hiện đ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35633.doc