Đề án Một số vấn đề về cổ phần hoá doanh nghiệp thương mại nhà nước

MỤC LỤC

Trang

Lời mở đầu 1

Phần nội dung 2

PhầnI:Lý luận chung về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước 2

1. Sự cần thiết phải cổ phần hoá doanh nghiệp thương mại nhà nước 2

1.1. Khái niệm về công ty cổ phần quốc doanh . 2

1.2. Lịch sử hình thành công ty cổ phần . 2

1.2.2-Hình thái kinh doanh chung vốn . 5

1. 2 .3 -Hình thái công ty cổ phần . 7

1.3- Sự cần thiết phải cổ phần hoá doanh nghiệp thường mại nhà nước . 9

2 – Nội dung và tiến trình thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp . 11

2.1 –Thực chất của cổ phần hoácác doanh nghiệp nhà nước . 11

2.1- Các mục tiêu cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước . 12

2.3 – Các phương pháp cổ phânf hoá nhà nước 13

2.3.1- Bán cổ phần cho công chúng . 13

2.2.3- Bán cổ phần cho tư nhân . 14

2.3.3- Những người quản lý và lao động mua doanh nghiệp . 14

2.3.4 -Tiến trình thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp . 15

Phần II – Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp thương mại nhà nước . 16

1. Tình hình chung về doanh nghiệp thương mại nhà nước hiện nay 16

2- Kết quả cổ phần hoá doanh nghiệp thương mại nhà nước hiện nay. 20

2.1- Những kết quả bước đầu . 21

2.2 Những ngáng trở trong việc cổ phần hoá doanh nghiệp thương mại . 22

2.3 – Những nguyên nhân làm chậm tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp thương mại . 23

2.3.1- Phương pháp định giá doanh nghiệp để cổ phần hoá chưa được thống nhất ở các doanh nghiệp . 23

2.3.2 Vướng mắc do công tác kế toán tài chính . 24

2.3.3 Vướng mắc cho nhiều DN cần CPH nhưng không có sức hấp dẫn đối với người tham đầu tư vì giá , chất lượng quá thấp . 24

3 – Phương hướng và biện pháp thúc đẩy CPH DN thương mại nhà nước . 25

Kết luận 27

Tài liệu tham khảo 28

 

doc29 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1425 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Một số vấn đề về cổ phần hoá doanh nghiệp thương mại nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trong lợi ích kinh tế , có lợi ích chung và lợi ích riêng .Nhưng như Các Mác nói :”lợi ích chung tồn tại trong hiện thực như là sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những cá nhân tham gia phân công lao động xã hội “( Các Mác hệ tư tưởng Đức ) . như vậy , chỉ có thể tạo ra động lực kinh tế cho mọi thành viên của một doanh nghiệp nhà nước khi lợi ích riêng của họ “phụ thuộc” vào lợi ích chung của doanh nghiệp , và ngược lại . Công ty cổ phần là hình thức tổ chức kinh tế có khả năng hiện thực hoá sự “phụ thuộc “ lẫn nhau giữa lợi ích cảu doanh nghiệp với lợi ích của các thành viên khi họ có cổ phần trong đó . Cổ đông hoá công nhân viên chức , các đơn vị kinh tế quốc doanh sẽ xoá bỏ được thái độ thờ ơ thiếu trách nhiệm đối với vận mệnh của doanh nghiệp . Mặt khác , với tư cách là cổ đông , các cán bộ công nhân viên sẽ nhân danh đồng sở hữu của doanh nghiệp để đấu tranh chống lại mọi hành vi làm phương hại tới lợi ích của doanh nghiệp . Trong các đơn vị kinh ttế quốc doanh như hiện nay , khó tạo ra một tinh thần như vậy , bởi vì từ giám dốc đến công nhân , về thực chất đều là người làm thuê cho nhà nước . Khi doanh nghiệp có lãi , người ta có thể ngấm ngầm chia nhau , nhưng khi thua lỗ chẳng ai trong số họ mất gì , ngay cả khi giao vốn cho giám đốc xí nghiệp . Ngay trong trường hợp doanh nghiẹp nhà nước bị phá sản , thậm chí cũng trở thành “cơ hội vàng “ cho một số người xấu chia nhau tài sản của nhà nước để rồi sau đó họ lại được điều đến những cơ sỏ mới có nhiều bổng lộc hơn . Để khác phục tình trạng này cần có nhiều biện pháp , trong đó việc tứng bước cổ phần hoá một số đơn vị kinh tế quốc doanh để cổ đông hoá cán bộ công nhân viên được xem là một phương pháp hữu hiệu . Trong những năm vừa qua , liên doanh liên kết đã trở thành một phương thức làm ăn có hiệu quả và khá phổ biến ở nước ta . Song , tổ chức còn mang nặng tính “phi vụ “ , chưa trở thành quan hệ kinh tế ổn định được vật chất hoá thông qua hình thức kinh tế cụ thể . Nhu cầu sản xuất kinh doanh hiện nay đang đặt ra trước mắt các nhà kinh doanh một vấn dề : hoặc liên kết với nhau để phát triển , hoặc tồn tại một cách biệt lập dể rồi bị đẩy lùi trước sức cạnh tranh của những liên minh lớn hơn . Một liên minh kinh tế mạnh là liên minh trước hết được xây dựng trên cơ sở tự nguyện , được tổ chức chặt chẽ nhằm hỗ chợ nhau cùng hoạt độnh . Mỗi đơn vị tham gia liên kết đều có thể tìm thấy chỗ yếu của mình được bù đáp bởi chỗ mạnh của người khác ,và ngược lại . Các thành viên của một công ty cổ phần , ngoài việc cùng nhau góp vốn để thành lập công ty mới , đã thực tế tạo ra một liên minh mạnh mẽ bao gồm các đơn vị và cá nhân ở nhiều ngàng nhiều địa phưong khác nhau . Sự liên kết ấy còn tạo nên một hệ thông thu thập , xử lý thông tin kinh tế có độ tin cậy cao nhờ các thành viên đưởc trải rộng trên một phạm vi không gian rộng và có ở những khâu thiết yếu của quá trình sản xuất kinh doanh của những ngành hàng nhất định . Gia nhập công ty cổ phần , mọi thành viên đều tìm được những lợi ích kinh tế thiết thực. Một lý do nữa thúc đẩy nhà doanh nghiệp đi tìm giải pháp công ty cổ phần là do họ nhận thức được xu hướng phát triể nền kinh tế nước ta là chuyển sang nền kinh tế thị trưòng có sự quản lý nhà nước . Chuyển theo hứng đó, nền kinh tế của đất nước ta sẽ ngày càng hoà nhập vào thị trường khu vực và thị trường thế giới . Đồng thời cũng đặt ra những thách thức hết sức gay gắt đối với từng doanh nghiệp , cũng như đối với mỗi người . Sự thách thức đó được thể hiện trên nhiều mặt : vốn, công nghệ , thị trường , v.v. nhưng lớn nhất vẫn là trình độ tổ chức quản lý , kinh nghiệm và bản lĩnh kinh doanh của cán bộ trong các doanh nghiệp . Để có được một đội ngũ cán bộ khả dĩ đáp ứng được những yêu cầu của vận hội mới của đất nước , cần phải đào tạo và đào tạo lại cán bộ , nhất là phải được đào luyện từ trong thực tiễn . Thành lập công ty cổ phần là một cơ hội để cán bộ quản lý kinh doanh làm quen với một hình thức tổ chức kinh tế vừa phổ biến ,vừa hiện đại của nền kinh tế thị trường , mà hầu hết cán bộ kinh tế của chúng ta còn xa lạ . Công ty cổ phần là hình thức tổ chức kinh tế có khả năng đáp ứng nhiều nhu cầu phức tạp của nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh quyết liệt , do đó có vai trò to lớn với sự phát triển kinh tế xã hội nói chung . Nhưng bản thân công ty cổ phần cũng là sản phẩm của nền kinh tế thị trường ,nó chỉ có thể ra đời , tồn tại và hoạt động có hiệu quả khi nền kinh tế thị trường phát triển đến một mức độ nhất định . Sự hoàn thiện của nền kinh tế thị trường sẽ tạo nên môi trường thích hợp cho công ty cổ phần ra đời và hoạt động . 2 – Nội dung và tiến trình thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp . 2.1 –Thực chất của cổ phần hoácác doanh nghiệp nhà nước . Hầu hết trong các tài liệu của các học giả nước ngoài khi xem xét vấn đề cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đều đặt nó trong một quá trình rộng lớn hơn - đó là quá trình tư nhân hoá . có hai cách hiểu : tư nhân hoá theo nghĩa rộng và tư nhân theo nghĩa hẹp . Liên hợp quốc có đưa ra định nghĩa về tư nhân hoá theo nghĩa rộng : “tư nhân hoá là sự biến đổi tương quan giữa nhà nước và thị trường trong đời sống kinh tế của một nước theo hướng ưu tiên thị trường ” . Theo cách hiểu này thì toàn bộ những chính sách , luật lệ , thể chế nhằm khuyến khích , mở rộng và phát triển khu vực kinh tế tư nhân hay các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh , giảm bớt sự can thiệp trực tiếp của nhà nước vào các hoạt động kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở , dành cho thị trường vai trò đièu tiết đáng kể qua tự do hoá giá cả ... đều có thể coi là các biện pháp của tư nhân hoá . Tư nhân hoá theo nghĩa hẹp thường dùng để chỉ quá trình giảm bớt quyền sở hữu nhà nước hoặc sự kiểm soát của chính phủ trong một xí nghiệp . Việc giảm bớt quyền sở hữu và quỳen sở hữu của chính phủ có thể thông qua nhiều biện pháp và phương thức khác nhau , nhưng phổ biến nhất là biện pháp cổ phần hoá . Xét về mặt hình thức , cổ phần hoá là việc nhà nước bán một phần hay toàn bộ giá trị cổ phần của mình trong xí nghiệp cho các đối tượng tổ chức hay tư nhẩntong và ngoài nước hoậc cho cán bộ quản lý và công nhân của xí nghiệp bằng đấu giá công khai hay thông qua thị trường chứng khoán để hình thành công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần . Xét về mặt thực chất , cổ phần hoá chính là phương thức thưc hiện xãhội hoá sở hữu , chuyển hình thái kinh doanh một chủ với sở hữu nhà nước trong doanh nghiệp thành công ty cổ phần với nhiều chủ sở hữu để tạo ra một mô hình doanh nghiệp phù hợp với nền kinh tế thị trường và đap ứng yêu cầu của kinh doanh hiện đại . Ngoài cổ phần hoá còn có các biện pháp khác thuộc về tư nhân hoá có chuyển đổi sở hữu hay không chuyển đổi sở hữu như bán thanh lí từng phần tài sản , gọi vốn đầu tư mới của tư nhân vào xí nghiệp , hình thành các liên doanh , cho thuê bằng các hợp đồng quản lý , chia ra thành các xí nghiệp nhỏ rồi bán cho tư nhân để xác lập một quan hệ kinh tế mới với xí nghiệp lớn . Như vậy , trong phần khảo cứu kinh ngiệm cổ phần hoá ở các nước trên thế giói chúng ta sẽ chỉ đè cập đến qúa trình giảm bớt sở hữu nhà nước bằng các biện pháp cổ phần hoá toàn bộ hay từng phần đối với các doanh nghiệp nhà nước . 2.1- Các mục tiêu cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước . Hiện nay , hầu hết các chuyên gia đều thừa nhận rằng cổ phânf hoá là một bộ phận cấu thành quan trọng của qúa trình cải cách và cải tổ kinh tế ở nhiều nước có khu vực kinh tế nhà nước chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế . Trong quá trình tiến hành cải cách , các chính phủ đã thực hiện các biện pháp ứng xử giống với thị trường hơn như giao quyền tự chủ , tự chịu trách nhiệm trong hoạt đọng sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp , sử dụng các công cụ kinh tế điều tiết gián tiếp nhiều hơn đến doanh nghiệp và thị trường . Và cuối cùng nhà nước đi đén giảmm bớt thực sự mức độ sở hữu và việc giám sát quản lý đối với cacs doanh nghiệp nhà nước , để cho các doanh nghiệp này thực sự hoạt động của thị trưòng , còn nhà nước bảo đảm các điều kiện để hỗ trợ cạnh tranh và điều tiết sự phânphối một cacchs công bằng cho xã hội .Về của cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước , trong các tài liệu bàn về vấn đề này đều cho rằng :nâng cao hiệu quả các hoạt động của doanh nghiệp nhà nước và giảm thâm hụt ngân sách nhà nước là những mục tiêu đầu tiên và trực tiếp . Thực hiện được những mục tiêu này sẽ góp phần đạt được mục tiêu của cải cách kinhtế là nâng cao hiệu quả toàn bộ nền kinh tế quôc dân . tuy nhiên , tuỳ thuộc vào điều kiện , hoàn cảnh và quan điểm của từng nước mà các mục tiêu của cổ phần hoá còn được bổ sung ít nhiều .ở nhóm các nước tư bản phát triển , ngoài hai mục tiêu trên quá trình cổ phần hoá còn nhằm :Xoá bỏ độc nhà nước quy định cho một số doanh nghiệp nhà nước , buộc những doanh nghiệp này phải phát huy cạnh tranh để nâng cao hiệu quả so với khu vực kinh tế tư nhân , và do đó thu hút các nhà đầu tư tư nhân vào các ngành , các lĩnh vực lâu nay độc quyền nhưng xét thấy không còn cần thiết nữa . Nhà nước có điều kiện để tập trung vào những ngành then chốt , mũi nhọn đòi hỏi hàm lượng vốn và khoa học kỹ thuật cao để nâng cao sức cạnh tranh các sản phẩm quan trọng của đất nước tren thị trường quôcs tế , cũng như tập trung vào các chức năng kinh tế vix mô . Thực hiện một sự phân phối cho những người có thu nhập thấp , tạo sự ổn định về mặt xã hội trong giai đoạn nền kinh tế đang bị trì trệ . ở nhóm các nươc đang phát triẻn , nhìn chung đều có đề cập đến năm mục tiêu cổ phần hoá nêu trên , ngoài ra còn được bổ sung thêm một số mục tiêu có tính chất đặc thù . Đó là : giảm bớt các khoản nợ nước ngoài đang ngày càng tăng do phải bù đắp các khoản thâm hụt ngân sách để trợ cấp cho các doanh nghiệp nhà nước . Thu hút các nhà đầu tư nước ngoài để đổi mới kỹ thuật và học tập quản lý , tảoa một nền kinh tế thị trường mở cửa để tăng sức cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước , nâng caochât lượng các hàng hoá dịch vụ trong nước . Tạo dựng và phat triển một thị trường tài chính gồm thị trường tư bản , thị trường chứng khoán , thị trường hoàn chỉnh tiền tệ ở trong nước . ở nhóm các nước SNG và Đông âu , dưới chính thể mới , việc tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước , ngoài những mục tiêu đã nêu trên ở hai nhóm nước , còn có thêm một số mục tiêu đặc thù sau : giảm nhanh tỷ trọng khu vực kinh tế nhà nước trong nền kinhtế và xoá bỏ hệ thống kế hoặch hoá tập chung đang gây ra tình trạng kém hiệu quả trong toàn bộ hoạt ddộng sản xuất kinhdoanh và đang đẩy nền kinh tế tới sự khủng hoảng . Tạo ra hệ thống kinhtế thị trường và tăng nhanh khu vực kinh tế tư nhân để dân chủ hoá hoạt động kinh tế và tạo ra mối tương quan hợp lý của các khu vưc kinh tế trong nền kinh tế thị trường hỗn hợp có sự điều tiết của nhà nước . 2.3 – Các phương pháp cổ phânf hoá nhà nước Trong phạm vi nghiên cứu về cổ phần hoá doanh nghiệp thì chúng ta chỉ quan tâm đến ba phương pháp , trong đó nhà nước bán một phần hay toàn bộ cổ phần trong doanh nghiệp . 2.3.1- Bán cổ phần cho công chúng . Phương pháp này được ưa thích ở nhiều nước .Đó là việc nhà nước bán toàn bộ hay một phần sở hữu nhà nước trong doanh nghiệp cho công chúng . Việc bán thường được hiện thông qua sở giao dịch chứng khoán hay một tổ chức tài chính trung gian . Ccũng có khi việc bán cổ phân cho công chúng đựoc thực hiện cùng với các biện pháp khác như bán nhất định cổ phần cho một số nhà đầu tư được định trước . Việc bán cổ phần cho công chúng đòi hỏi doanh nghiệp phải có tỷ lệ sinh lời hấp dẫn ; đã có các thông tin , quản lý để thong báo công khai trên thị trường chứng khoán ; có cơ chế tổ chức để thu hút các nguồn đầu tư trong xã hội . Thông qua việc bán cổ phần cho công chúng cho phép các tầng lớp dân cư rộng rãi có thể mua được cổ phần và phù hợp với mong muốn của chính phủ khuyến khích việc mở rộng và đa dạng hoá cơ cấu sở hữu trong doanh nghiệp nhà nứoc . Mặt khác biện pháp này cũng làm giảm sự tập trung tài sản kinh tế của các nhóm tư nhân , mở rộng quy mô và chiều sâu của thị trưòng chứng khoán . Ngoài tính công khai , đơn giản , rõ ràng về mặt chính trị và tìa chính của biện pháp này đã khắc phục được sự không trong sạch va tuỳ tiện của cácviên chức thực hiện công việc thì thông qua đó , nó cũng đồng thời giáo dục cho công chúng các nguyên tắc đầu tư tài sản , tiền vốn trong nền kinh tế thị trường . Vì vậy , phương pháp bán cổ phần cho công chúng thường được chấp nhận dễ dàng về mặt chính trị trong các ddảng phái cũng như đối với quần chúng lao động . Tuy là phương pháp cổ phần hoá được ưa thích nhưng nó chiếm 15% các trường hợp đã được tư nhân hoá ở các nước đang phát triển và Đông Âu do sức mua thị trường vốn quá nhỏ bé, thiếu các cơ quan chuyên môn phân tích , đánh giá và maketing làm cơ sở cho việc định giá bán cổ phần , thiếu việc quảng cáo , tư vấn để khai thác các nguồn vốn trong đan cư . ở các nước tư bản phát triển , trong một số trường hợp , khi có sự biến động đột ngột trên thị trường chứng khoán , Chính phủ phải hoãn hoặc có biện pháp boả đảm độ an toàn tối thiểu cho công chúng mua cổ phần . 2.2.3- Bán cổ phần cho tư nhân . Đây là phương pháp được sử dụng rất phổ biến ở các nước . Thực hiện phương pháp này , có nghĩa là Nhà nước bán một phần hay toàn bộ số cổ phần của doanh nghiệp thuộc sở hữu một phần hay toàn bộ của Nhà nước cho một số cá nhân hay mộtnhón cá nhân nhà đầu tư tư nhân thông qua đấu thầu có tính cạnh tranh hay những người mua được xác định trước . Các lý do đưa đến việc áp dụng rộng rãi phương pháp cổ phần hoá này bao gồm : 1) tính linh hoạt của nó trong các điều kiện cụ thể ; 2) tính đơn giản về các yêu cầu pháp lý khi chuyển nhượng ; do đó , 3) tốc độ triển khai lực lượng nhanh hơn . Mặt khác, do những đặc tính trên , phương pháp này thường được ưu tiên sử dụng đối với doanh nghiệp nhà nước đang hoạt động yếu kém , hay những doanh nghiệp nhà nước cần người chủ đủ mạnh và có kinh nghiệm về kỹ thuật , tài chính , quản lý và thương mại , hay những doanh nghiệp có những quy mô không đáng kể để có thể bán rộng rãi ra công chúng . Phương pháp này là sự lựa chọn có tính khả thi nhất đối với những nước có thị trường vốn chưa phát triển . Sự thiếu vắng một thị trường chứng khoán hoặt động có hiệu quả , cũng như không có một cơ chế bảo đảm di chuyển vốn linh hoạt đã buộc các nước đang phát triển và Đông Âu phải lựa chọn chủ yếu phương pháp bán cổ phần cho tư nhân . Tuy nhiên ở các nước này , việc áp dụng phương pháp bán cổ phaphần cho tư nhân còn nằm mục đích khuyến khích đầu tư trực tiếp của tư bản nước ngoài . Về điều này , các nước Mỹ la-tinh đã đạt được những thành công đáng kể . Trong một số trường hợp , việc bán cổ phần cho tư nhân là bước cần thiết đầu tiên để tạo ra những cổ đông chủ lực có khả năng cải thiện được kết quả hoạt động của doanh nghiệp , tạo điều kiện để bán cổ phần rộng rãi cho công chúng sau này . Việc bán cổ phần cho tư nhân cững có những mặt hạn chế và thường bị nhiều chỉ trích vì một bộ phận dân cư có khả năng mua và ngày càng tập trung quyền lực về kinh tế và chính trị , gây ra sự phân hoá xã hội sâu sắc. Việc đặt ra cũng gặp khá nhiều tranh luận : đặt giá cao sẽ có người tham gia đấu giá , còn đặt giá thấp thì bị kết tội là “ cho không “ tài sản nhà nước . Vấn đề sẽ trầm trọng thêm nếu có những biểu hiện thiếu rõ ràng trong lựa trọn người mua vì sẽ bị nghi ngờ có tham nhũng . 2.3.3- Những người quản lý và lao động mua doanh nghiệp . Phương pháp cổ phần hoá này thường được lựa chọn để thực hiện đối với các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ . Phương pháp này cũng tạo ra sự khuyến khích lớn đối với việc tăng năng xuất lao động , đồng thời , cũng là cách giải quyết vấn đề lao động trong trường hợp doanh nghiệp sắp bị giải thể . Nói chung phương pháp này được thực hiện với kết quả rất hạn chế ở các nước , nhất là các nước đang phát triể và Đông Âu . Chỉ có một ngoại lệ là ở CHDC Đức (cũ ) đã bán được khoảng 900 công ty cho các nhà quản lý và người lao động công ty . Các công ty này quá nửa chỉ có dưới 20 lao động và thường ở các lĩnh vực xây dựng , dịch vụ , các nghành cơ khí nhỏ . Trở ngại chính đối với áp dụng phương pháp này là thiếu nguồn tài chính và tín dụng bảo đảm việc chuyển giao doanh nghiệp cho cán bộ quản lý và người lao động . Các biện pháp hỗ trợ về tài chính và tín dụng được nhiều chính phủ nêu ra trong việc bán cổ phần như ưu tiên giảm giá cho người mua vay lãi suất thấp và dài hạn ... Tuy vậy , sở hữu cổ phần dắn liền với rủi ro, thất bại và những người công nhân dễ dàng chấp nhận giảm tiền công để cơ cấu lại doanh nghiệp nhưng nếu mất cả vốn góp lẫn việc làm trong doanh nghiệp thì họ sẽ trở nên thờ ơ với ý định này của chính phủ . ở nhiều nước thường kết hợp phương pháp bán cổ phần cho cán bộ quản lý và công nhân trong doanh nghiệp với các phương pháp cổ phần hoá khác . Sự kết hợp này được dùng để vừa trung hoà sự chống đối của người lao động vừa mở rộng giới chủ sở hữu . 2.3.4 -Tiến trình thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp . Chủ trương cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước đã được đề cập đến lần đầu tiên trong nghị quyết hội nghị lần thứ 2 - ban chấp hành trung ương khoá VII (tháng 11/1991) trong đó có đoạn viết :”chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện thành công ty cổ phần và thành lập một số công ty quốc doanh cổ phần mới làm thí điểm , chỉ đạo chặt chẽ , rút kinh nghiệm chu đáo trước khi mở rộng trong phạm vi thích hợp ” Tiếp theo đó tháng 1/1994 nghị quyết hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII đã khẳng định mục đích của cổ phần hoá là : “thu hút thên vốn , tạo nên động lực , ngăn chặn tiêu cực , thúc đẩy doanh nghiệp nhà nước làm ăn có hiệu quả , càn thực hiện các hình thức cổ phần hoá có mức độ thích hợp với tính chất và lĩnh vực sản xuất kinh doanh , trong đó nhà nước chiếm tỷ lệ cổ phần chi phối ”. Ngoài ra vấn đề cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước cũng đã được đề cập đến trong nghị quyết của bộ chính trị về tiếp tục đổi mới để phát huy vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước (số 10-NQ/TW ngày 17/3/1995 ) trong kết luận của bộ chính trị về kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm (1996-2000)và năm 1996 ngày 12/9/1995. Mới đây nhất nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (tháng7/1996)đã một lần nữa khẳng định “triển khai tích cực và vững chắc việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước để huy động thêm vốn tạo thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả , làm cho tài sản của nhà nước ngày càng tăng lên , không phải để tư nhân hoá .Thực hiện các nghị quyết nói trên của đảng , chính phủ đã ban hành nhiều văn bản đề nghị triển khai việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước như : Quyết định số 202/CT ngày 8/6/1992 của chủ tịch hội đồng bộ trưởng (nay là thủ tướng chính phủ ) về thí điểm chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần . Chỉ thị số 84/TTg ngày 04/3/1993 của thủ tướng chính phủ về việc xúc tiến thực hiện thí điểm cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu đối với các doanh nghiệp nhà nước Nghị định 28/CP ngày 7/5/1996 của chính phủ về chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần (CTCP) . Mục đích của việc CPH doanh nghiệp nhà nước là huy động vốn của mọi thành phần kinh tế trong xã hội để đầu tư đổi mới công nghệ , phát triển doanh nghiệp và tạo điều kiện để người góp vốn và cán bộ công nhân viên chức trong doanh nghiệp có cổ phần , nâng cao vai trò làm chủ thực sự , tạo thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả Phần II – Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp thương mại nhà nước . 1. Tình hình chung về doanh nghiệp thương mại nhà nước hiện nay Các doanh nghiệp thương mại nhà nước hiện nay được quản lý bởi các sở thương mại ở địa phương , bộ thương mại , và các bộ khác . Tính đến tháng 12/ 2001 , Bộ thương mại có 71 doanh nghiệp trực thuộc , trong đó có 55 doanh nghiệp kinh doanh thương mại , 7 doanh nghiệp sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng và xây lắp , 4 doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ vận tải kho và giao nhận , 4 doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ , tư vấn và một doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ khách sạn . Nhờ việc sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp nhà nước thuộc bộ thương mại , các doanh nghiệp đã có những biến đổi quan trọng cả về số lượng và chất lượng . So với 1991 , giảm được 25 doanh nghiệp thuộc bộ tạo sự ổn định và điều kiện phát triển vững chắc , nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh của cơ chế thị trường . Các doanh nghiệp hiện nay đã xác định được phương hướnh kinh doanh , sản xuất , tường bước cải tiến tổ chức , coi việc gắn lưu thông với sản xuất là yếu tố quan trọng để phát triển và coi trọng hiệu quả kinh tế , quan tâm lợi ích vật chất của người lao động các doanh nghiệp thương mại thuộc bộ thương mại đã thực hiện được nhiệm vụ chính trị là đáp ứng nhu cầu về vật tư , hàng hoá phụ vụ cho sản xuất và tiêu dùng của toàn xã hội , thực hiện tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế giữ vững khâu bán buôn , chiến tỷ trọng cao trong bán lẻ một số mặt hàng thiết yếu như : xăng dầu , sắt thép ...góp phần bảo đảm những cân đối lớn của nền kinh tế , ổn định thị trường , bảo đảm an ninh quốc phòng và giữ vững ổn định chính trị , đời sống nhân dân tường bước được cải thiện , mở rộng và phát triển kinh tế đối ngoại . Tuy nhiên , hệ thống doanh nghiệp nhà nước thuộc bộ thương mại còn rất nhiều bất cập , bộc lộ nhiều yếu kém , cụ thể là : số lượng doanh nghiệp lớn nhưng quy mô nhỏ ( có 97,1% số doanh nghiệp có mức vốn dưới 100 tỷ đồng trong đó 32/71 chiếm (45%) tổng số doanh nghiệp nhỏ và vừa ) ; hiệu quả kinh doanh chưa cao ( hàng năm khoảng 22% số doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ ) ; năng lực cạnh tranh thấp , thể hiện ở chỗ một bộ phận doanh nghiệp thương mại nhà nước chưa xây dựng và thực hiện được chiến lược phát triển , chưa có sản phẩm và thị trường ổn định lâu dài ; khả năng tài chính yếu ; trình độ quản lý và chuyên môn nghiệp vụ chưa cao ; tình trạng nợ đọng lớn ( trên 60% số doanh nghiệp có khoản công nợ phải thu khó thu ) . Các doanh nghiệp thương mại nhà nước hiện đang hoạt động là các thực thể kinh tế độc lập và cạnh tranh với nhau . Giữa các doanh nghiệp chưa hình thành để tạo sức mạnh chưa có một hệ thống mang tính tổnh thể thống nhất . Vấn đề tự chủ trong các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chưa gắn chặt với quyền lợi và trách nhiệm của bộ máy quản lý doanh nghiệp . Mạng lưới doanh nghiệp thương mại nhà nước phân bố không đồng đều . Tại các đô thị lớn như thành phố Hà Nội , thành phố Hồ Chí Minh , tại các đồng bằng nơi có mức tập trung dân cư cao , tại trung tâm các vùng kinh tế thì xuất hiện nhiều các công ty thương mại . Tại các vùng miền núi xa xôi thưa thớt dân cư thì mạng lưới thương mại của các công ty rất ít hoặc không khó . Một số tỉnh hiện chỉ có một doanh nghiệp hoạt động trong cả tỉnh .Các doanh nghiệp thương mại nhà nước hoạt động đan xen nhau trên các địa bàn .Hiện nay , đang xuất hiện xu hưóng kết hợp các doanh nghiệp thương mại ở các địa phương khác nhau để các công ty có thể mở rộng hoạt động kinh doanh của mình . Tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại nhà nước hiện nay có xu hướng phát triển theo đầ tăng trưởng của nền kinh tế tại nhiều địa phương các doanh nghiệp thương mại nhà nước hoạt động tương đối hiệu quả . Tại Tiền Giang kết quả hoạt động sáu tháng đầu năm 2001 , của các công ty thương mại thuộc sở thưong mại –du lịch Tiền Giang thật khả quan . Thương mại – du lịch Tiền Giang là đơn vị được bộ thương mại tặng cờ thi đua xuất sắc năm 2000 . Kết thúc sáu tháng đầu năm 2001 các doanh nghiệp trong ngành đã thực hiện kim ngạch xuất khẩu : 35,7 triệu USD đạt 29,8% so với kế hoặch năm 2001 , giảm 15,63% so với cùng kỳ năm 2000. Trong đó xuất khẩu trực tiếp 26,66 triệu USD Một số mặt hàng tăng nhưng kim ngạch giảm , như gạo xuất khẩu được 112163 tấn , kim ngạch 16,4 triệu USD , giảm 14,4%về số lượng và 26,06 % về trị giá so với cùng kỳ năm 2000 và chỉ đạt 27,5% so với kế hoặch năm 2001 . Các mặt hàng khác như : sản phẩm dứa cô đặc xuất khẩu 890 tấn , trị giá 580 ngàn USD , tăng 2,18% về số lượng nhưng trị giá giảm 0,74% . Than gáo dừa : 1320 tấn , trị giá 228323 USD , số lượng tăng 1,54% , nhưng giá trị giảm 18% . Tôm đông lạnh : 645 tấn , trị giá 3,9 triệu USD , số lượng giảm : 1,83% , nhưng trị giá giảm 6,38%. Riêng mặt hàng dầu dừa giá giảm chỉ còn 282 USD /tấn so với cùng kỳ năm trước là313USD/tấn , nên sản lượng xuất khẩu 6 tháng đầu năm nay chỉ đạt 1436 tấn , bằng 20,32% so với cùng kỳ năm trước . Trái lại do các doanh nghiệp trong tỉnh đã chủ động khai thác tìm kiếm mở rộng thị trường nên kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng tăng so với cùng kỳ năm 2000 ngêu đông ước đạt 1334 tấn , tăng 43,28% . Hàng thủ công mỹ nghệ đạt 421000$ tăng 1,54 lần .Hàng may mặc xuất khẩu tuy vẫn cạnh tranh gay gắt với hàng may mặc giá thấp của Trung Quốc và sức ép giá công giảm mạnh . Các doanh nghiệp nghành may mậc đã chủ động kế hoạch sớm từ năm trước và nâng tỷ trọng hàng FOB nên tuy sản lượng đạt 1,55 triệu sản phẩm giảm 6,08% , nhưng kim ngạch đạt 7,1 triệu $ , tăng 11,44% . Mặt hàng xơ dừa xuất khẩu , nhờ doanh nghiệp có quan hệ tiếp thị khách hàng cả mẫu mã chất lượng sản phẩm , giá cả nên đã nối lại được thị trường truyền thốn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35361.doc
Tài liệu liên quan