MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU
CHƯƠNG I. Tổng quan chung về hệ thống tỷ giá hối đoái 2
I.Tỷ giá hối đoái 2
1. Khái niệm 2
2. Các loại tỷ giá hối đoái 3
3. Phương pháp xác định tỷ giá hối đoái 5
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình hình thành tỷ giá 11
5. Các phương pháp chủ yếu điều chỉnh tỷ giá 12
II. Các hệ thống tỷ giá 15
1. Chế độ tỷ giá cố định 16
2. Chế độ tỷ giá Bretton Woods 17
3. Chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn 18
4. Sự can thiệp của nhà nước vào hệ thống tỷ giá hối đoái 21
CHƯƠNG II. Hệ thống tỷ giá hối đoái ở Việt Nam 25
I. Sơ lược về hệ thống tỷ giá hối đoái ở VN từ 1955 đến nay 25
II. Vấn đề tỷ giá hiện nay 32
CHƯƠNG III. Những giải pháp hoàn thiện chính sách về TGHĐ 34
I. Những vận động trong việc điều chỉnh TGHĐ trong thời gian qua 34
II. Các giải pháp để hoàn thiện chính sách TGHĐ 35
1. Ngân hàng trung ương phải có một lượng dự trữ ngoại tệ đủ lớn 36
2. Cần phải điều chỉnh mối quan hệ giữa tỷ giá và lãi suất 37
3. Phải có sự quản lý đối với hàng hoá trong nước 37
4. Khống chế mức lạm phát trong nước 37
5. Cơ chế quản lý ngoại hối cần được hoàn chỉnh hơn 38
KẾT LUẬN 38
44 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3848 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Một số vấn đề về tỷ giá hối đoái, ảnh hưởng của nó và một số biện pháp để hoàn thiện tỷ giá hối đoái trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
định dựa vào cung cầu trên thị trường). Mỗi quốc gia trong một thời kỳ khác nhau có sự lựa chọn khác nhau về mức độ cố định thả nổi TGHĐ hay có sự dung hoà nào đó về sự cố định hay thả nổi TGHĐ. Điều này đã đưa đến các nguyên tắc khác nhau về điều hành TGHĐ hay các chính sách có liên quan khác của mỗi quốc gia. Sự khác nhau đó đã tạo nên sự đa dạng về cơ chế TGHĐ ở trên thế giới.
1. Chế độ tỷ giá cố định.
Mục đích của quan điểm giữ tỷ giá cố định là phải giữ TGHĐ ổn định để kiềm chế lạm phát ở mức thấp và củng cố niềm tin của dân chúng vào đồng tiền nội địa. Khi sử dụng chế độ tỷ giá cố định người ta có thể sử dụng các hệ thống sau:
* Chế độ bản vị vàng :
Trong chế độ này chính phủ của mỗi quốc gia cố định giá vàng tính bằng tiền nước họ và duy trì khả năng chuyển đổi đồng tiền trong nước thành vàng chính phủ sẽ mua và bán vàng nhiều bằng mức mà nhân dân muốn giao dịch tại giá trị ngang giá này và chính phủ tuân theo quy tắc nhằm gắn liền đồng tiền trong nước với số vàng nhà nước có. Chính phủ chỉ có thể phát hành tiền bằng cách mua vàng của công chúng, tức là nếu công chúng chuyển đổi tiền giấy của họ thành vàng thì lượng tiền lưu hành sẽ giảm đi. Dưới chế độ bản vị vàng khả năng của chính phủ trong việc tăng mức cung tiền bị hạn chế nghiêm ngặt bởi yêu cầu là chỉnh phủ phải nắm giữ một giá trị vàng tương đương trong kho bạc.
Chế độ bản vị vàng là một chế độ ổn định, đồng tiền rất ít khi bị mất giá, việc thanh toán nợ nần giữa các quốc gia cũng được thực hiện bằng vàng như vậy nó thực sự đẩm bảo một cơ chế tự động điều chỉnh sự mất cân đối trong thương mại và thanh toán quốc tế. Vì vậy chế độ này đã được sử dụng hầu như suốt thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX ở các nước. Bản vị vàng có những ưu điểm lớn nhưng cũng có một số nhược điểm đáng kể. Bằng cách gắn chặt, nếu không phải là hoàn toàn mức cung tiền nội địa với mức dự trữ vàng, bản vị vàng thực sự đã loại trừ việc phát hành tiền liên tục trên quy mô lớn và tỷ lệ lạm phát một cách thường xuyên cao. Tuy nhiên, do cơ chế chủ yếu để phục hồi công ăn việc làm đầy đủ là sự giảm giá và tiền lương nội địa mà phải mất nhiều năm để điều chỉnh hoàn toàn theo mức giảm đáng kể về tổng cầu cho nên thời kỳ của bản vị vàng là thời kỳ trong đó các nền kinh tế riêng lẻ dễ bị tổn thương dẫn tới những giai đoạn suy thoái lâu dài và sâu sắc.
2. Chế độ tỷ giá cố định Bretton Woods .
Dưới chế độ bản vị vàng, TGHĐ danh nghĩa được cố định một cách vô thời hạn. Bây giờ chúng ta sẽ bàn về hệ thống điều chỉnh hạn chế, trong đó các TGHĐ thông thường được cố định nhưng đôi lúc các nước được phép thay đổi TGHĐ của mình. Hệ thống này được ra đời gần cuối thế chiến thứ hai trong một hội nghị đa quốc gia được tổ chức ở Bretton Woods Newpshire để hoạch định" một hệ thống TGHĐ có trật tự thuận lợi cho luồng thương mại tự do". Theo hệ thống này tỷ giá chính thức giữa đồng tiền của các nước thành viên được hình thành trên cơ sở so sánh hàm lượng vàng của đôla Mỹ (1 USD= 0,888671 gram vàng) và chỉ được phép dao động trong biên độ 1% của tỷ giá chính thức đã được đăng ký tại quỹ tiền tệ quốc tế IMF vì thế hệ thống tỷ giá này còn được biết với đến với tên gọi bản là vị đôla. Theo chế độ bản vị đôla, các đồng tiền được chuyển đổi theo đôla chứ không phải theo vàng. Tại mức TGHĐ cố định, các NHTW cam kết mua hoặc bán đôla từ nguồn dự trữ ngoại hối hoặc lượng đôla hiện có của họ. Họ cam kết can thiệp vào thị trường ngoại hối để bảo vệ TGHĐ cố định theo đồng đôla.
Sự khác nhau căn bản giữa bản vị vàng và bản vị đôla là ở chỗ không còn sự đảm bảo đổi lại 100% đối với đồng tiền nội địa, các chính phủ có thể in thêm tiền để làm tăng sức cạnh tranh trong nước. Nếu tình trạng thâm hụt ngân sách kéo dài chính phủ phải dùng ngày càng nhiều dự trữ ngoại hối của mình để trang trải cho thâm hụt, thì cuối cùng đất nước sẽ cạn kiệt dự trữ ngoại hối, lúc đó nhà nước sẽ phải phá giá TGHĐ của mình chuyển sang một nước giá trị ngang giá thấp hơn theo đôla để cố gắng tăng thường xuyên sức cạnh tranh và loại trừ sự mất cân đối cơ bản trong thanh toán quốc tế.
TGHĐ cố định, nếu bền vững hay được coi là bền vững thì sẽ tạo cho các doanh nghiệp có cơ sở để lập kế hoạch và tính toán giá, như vậy sẽ thúc đẩy đầu tư và thương mại quốc tế; TGHĐ cố định tạo ra sự hạn chế đối với chính sách tiền tệ trong nước vì do TGHĐ cố định nên không khuyến khích sự luân chuyển vốn vào hay ra khỏi quốc gia và do đó không cần thiết phải có sự quan tâm thường xuyên của NHTW. TGHĐ cố định sẽ là tối ưu nếu các NHTW có thể thực hiện được sự điều chỉnh cho tới mức tỷ giá tương đối cân bằng và thực hiện việc cố định tỷ giá ở mức đó; cơ chế tỷ giá cố định trực tiếp đặt ra sự tuân thủ đối với chính sách tiền tệ và có thể được coi là phù hợp trong tình huống các công cụ tài chính và thị trường tài chính chưa phát triển đủ mức cho sự vận hành của chính sách tiền tệ theo cơ chế thị trường.
Tuy nhiên, TGHĐ cố định trong trường hợp thiếu tin cậy sẽ bị ảnh hưởng rất lớn của đầu cơ, điều này có thể dẫn tới sự phá vỡ hoàn toàn sự ổn định tiền tệ, ổn định kinh tế hay ảnh hưởng tới dự trữ ngoại hối; TGHĐ cố định có thể làm người ta phải từ bỏ đầu cơ, do đó thị trường sẽ buồn tẻ, khó có thể xác định đâu là TGHĐ tối ưu, hay hợp lý cho một nền kinh tế, mặc dù cả chính phủ và NHTW đều cần thiết phải hiểu hơn ai hết đâu là mức cân bằng. TGHĐ danh nghĩa cố định có thể là quan trọng nhưng nó không quyết định TGHĐ thực tế mà nó chỉ được coi là chỉ số hay mục tiêu quan trọng mà thôi. Duy trì TGHĐ cố định đòi hỏi NHTW phải luôn sẵn sàng can thiệp vào thị trường ngoại hối để đảm bảo mức TGHĐ cố định.Tuy nhiên, khó có thể đưa ra về mức độ cần can thiệp như thế nào để tác động vào nền kinh tế nhằm đạt được mục tiêu can thiệp. NHTW cần thiết phải duy trì một mức nhất định về dự trữ ngoại hối, như vậy chi phí về quản lý tài sản sẽ lớn. TGHĐ này cũng phụ thuộc vào chính sách tiền tệ của quốc gia khác và đó là điều đôi khi gây bất lợi do việc gắn đồng tiền bản tệ vào một đồng ngoại tệ nào đó.
3. Tỷ giá hối đoái thả nổi.
Là TGHĐ được hình thành trên cơ sở diễn biến cung-cầu. Có hai loại tỷ giá thả nổi là thả nổi tự do và thả nổi có quản lý. Chúng ta biết rằng nền kinh tế cân bằng dài hạn là phải cân đối cả bên trong lẫn bên ngoài (tức là đầy đủ việc làm, xuất khẩu ròng bằng không và tài khoản vãng lai cân bằng). Nhu cầu nhập khẩu phụ thuộc vào mức sản lượng trong nước và TGHĐ thực tế. Nhu cầu xuất khẩu phụ thuộc vào mức sản lượng ở nước ngoài và TGHĐ thực tế. Do đó, khi nền kinh tế trong nước và nước ngoài đều ở trong tình trạng cân đối hoặc ở mức sản lượng tiềm năng, thì chỉ có một tỷ giá chính thức duy nhất đồng thời tương ứng với sự cân bằng bên ngoài, ở bầt kỳ mức TGHĐ nào cao hơn nền kinh tế nội địa cũng có sức cạnh tranh kém hơn. Nhập khẩu sẽ cao hơn và xuất khẩu sẽ thấp hơn, nền kinh tế sẽ bị thâm hụt trong tài khoản vãng lai. Ngược lại, ở bất kì một mức TGHĐ thực tế nào thấp hơn với xuất khẩu cao hơn và nhập khẩu thấp hơn, nền kinh tế nội địa sẽ có một khoản thặng dư trong vãng lai. Chỉ có một TGHĐ thực tế duy nhất tương ứng với sự cân đối bên trong và bên ngoài.
Khi tỷ giá thả nổi tự do, thì không có sự can thiệp nào trên thị trường ngoại hối và không có khoản chuyển nhượng ròng về tiền giữa các nước với nhau vì cán cân thanh toán luôn bằng không. Và về lâu dài, TGHĐ danh nghĩa sẽ phải điều chỉnh để đạt tới mức TGHĐ thực tế duy nhất cần thiết cho sự cân đối bên trong và bên ngoài trong sự cân bằng dài hạn.
Ưu điểm của TGHĐ thả nổi là nó được hình thành trên cơ sở cung-cầu trên thị trường. Qua cơ chế thị trường các nguồn lực được phân bổ một cách thành công và có hiệu quả. Cung-cầu nội tệ và ngoại tệ sẽ được tự cân bằng trên thị trường. NHTW sẽ không cần cũng như không có phải có trách nhiệm can thiệp vào thị trường hối đoái mà chủ yếu thực hiện theo yêu cầu của khách hàng. Nhìn chung, tình hình thị trường trong nước sẽ không bị ảnh hưởng bởi các luồng vốn bên ngoài và vì vậy NHTW có thể theo đuổi chính sách tiền tệ một cách độc lập không phụ thuộc vào chính sách tiền tệ của quốc gia khác.
Tuy nhiên cơ chế này cũng có những nhược điểm vì thị trường luôn có rủi ro, nhiều khi quá tải sẽ dẫn đến TGHĐ không ở mức phù hợp với các chỉ số kinh tế cơ bản của nền kinh tế, thậm chí tồn tại trong thời gian khá dài. Hơn nữa khuynh hướng của tỷ giá trong tương lai sẽ không chắc chắn, điều đó sẽ khó khăn trong việc lập kế hoạch và tính toán giá cả. Những biến động không chắc chắn của TGHĐ có thể được khắc phục bằng các công cụ phòng tránh rủi ro (như hợp đồng kỳ hạn, quyền lựa chọn) nhưng sẽ gây ra thay đổi rất lớn trong giá thành sản phẩm. Mặt khác sự tự do hoạt động của chính sách tiền tệ trong nước có thể bị lợi dụng, chẳng hạn như chính phủ, do không có trách nhiệm phải ngăn chặn sự mất giá của đồng tiền, nên có thể dễ thực hiện việc lạm phát qua đường ngân sách và tiền tệ.
Như vậy, trong một chừng mực nào đó có thể nói rằng TGHĐ thả nổi hay cố định cũng đều có những ưu điểm và hạn chế. Việc lựa chọn một cơ chế tỷ giá cố định hay thả nổi ở mức nào đó sẽ phụ thuộc vào từng quốc gia với những điều kiện kinh tế và thị trường khác nhau... hay nói chung là phụ thuộc vào lý do riêng nhằm mục đích phát huy những điểm mạnh và khắc phục những hạn chế của mỗi cơ chế ở mỗi môi trường kinh tế xã hội khác nhau. Những quốc gia chủ trương thả nổi TGHĐ cho rằng: Nếu áp dụng cơ chế này, thị trường ngoại hối có tính minh bạch cao, thị trưòng hoạt động hiệu quả, và hơn nữa thị trường phải để tự nó tự điều chỉnh. Chính sách tiền tệ phải được thiết lập một cách độc lập, phù hợp với tình hình kinh tế trong nước (nghĩa là đạt được sự ổn định mức giá chung của nền kinh tế), và tỷ giá hối đoái cần phải được thả nổi theo bất kì hướng nào mà do thực tế đem lại mức TGHĐ đó.
Trong khi đó, những quốc gia chủ trương cố định tỷ giá (tức là chủ trương gắn vào một hay một số đồng tiền chủ chốt, hoặc các đối tác kinh doanh chính của nước đó) với mục tiêu dung hoà các yếu tố chính trị, kinh tế và thương mại. Các nhà kinh tế công nhận tầm quan trọng và lợi ích của việc gắn đồng tiền này trong việc thực hiện một chính sách tiền tệ chặt chẽ và TGHĐ cố định được ưa thích hơn bất kì một dạng thả nổi nào, vì TGHĐ cố định không được coi là công cụ độc lập hữu hiệu của chính sách tiền tệ trong dài hạn. Những lợi ích do tỷ giá cố định đem lại được coi là nhiều hơn cái giá phải trả cho những hậu quả mà nó gây ra cho nền kinh tế.
Các nhà nghiên cứu về TGHĐ thường tập trung vào vai trò của tỷ giá trong việc bảo đảm cho nền kinh tế một mức sản lượng kinh tế cao, trong điều kiện có rất nhiều bất ổn, hay các cú sốc trong nước và quốc tế tác động đến nền kinh tế. Và vì vậy, các nhà khoa học cho rằng, cơ chế TGHĐ thả nổi có khả năng đối phó tốt nhất đối với các cú sốc trong một nền kinh tế. Vì sự thay đổi TGHĐ sau mỗi cú sốc sẽ là cách hữu hiệu nhất nhằm khôi phục lại mức sản lượng trở lại trạng thái cân bằng. Trong khi đó, các nhà kinh tế học cũng thừa nhận cơ chế TGHĐ cố định có khả năng đối phó một cách tốt nhất với sự mất cân đối về tiền tệ của nền kinh tế, vì rằng sự tăng hay giảm ra từ dự trữ ngoại hối sẽ làm giảm sự tác động của sự mất cân đối tiền tệ. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng những nước có nền kinh tế mở cửa cao thì nên sử dụng TGHĐ cố định, vì với cơ chế tỷ giá thả nổi thì có rất nhiều sự biến động của TGHĐ danh nghĩa một cách mạnh mẽ, tác động đến giá thành sản phẩm, giá cả hàng hoá mạnh đến mức mà không có một sự thay đổi nào của TGHĐ có thể điều chỉnh được, thậm chí chỉ là mức mong muốn; tuy nhiên sự mở cửa của nền kinh tế lại cần thiết phải duy trì chế độ TGHĐ thả nổi nhằm đảm bảo để cho chính sách tiền tệ không bị ảnh hưởng bởi các cú sốc từ bên ngoài trong chừng mực mà bản thân nền kinh tế cần phải đối phó.
4. Sự can thiệp của nhà nước vào hệ thống tỷ giá hối đoái.
Hệ thống TGHĐ do NHTW trực tiếp can thiệp là can thiệp theo trách nhiệm (trong trường hợp tỷ giá cố định) và can thiệp tự do (áp dụng với cả tỷ giá cố định và thả nổi).
NHTW có thể sử dụng một số công cụ khác nhau để tác động vào nền kinh tế thông qua cơ chế về TGHĐ. Công cụ thứ nhất có thể sử dụng là lãi suất chiết khấu, việc tăng giảm lãi suất chiết khấu có thể làm ảnh hưởng đến cung-cầu tiền vì thế sẽ làm ảnh hưởng đếnTGHĐ. Khi NHTW tăng lãi suất chiết khấu các NHTM sẽ phải tăng tỷ lệ dự trữ thực tế và làm cho mức cung tiền giảm và như vậy nó cũng sẽ tác động tới TGHĐ. Thứ hai là NHTW có thể tác động vào TGHĐ bằng cách mua bán ngoại tệ trên thị trường, khi mà giá của đồng nội tệ giảm so với đồng ngoại tệ NHTW có thể đem ngoại tệ ra bán nhằm cứu giá trị của đồng bản tệ. Ngược lại, khi giá trị của đồng tiền nước ngoài giảm mà muốn làm tăng tỷ trọng xuất khẩu NHTW có thể làm tăng giá trị của đồng tiền nước ngoài bằng cách mua thêm nhiều ngoại tệ trên thị trường ngoại hối làm cho cầu ngoại tệ tăng lên thì có thể làm cho TGHĐ chuyển dịch.
Một công cụ nữa mà NHTW có thể sử dụng nữa là phá giá đồng tiền. Phá giá hay nâng giá là việc giảm bớt hay tăng lên của TGHĐ mà được chính phủ cam kết ủng hộ, đây là một phương pháp điều chỉnh TGHĐ danh nghĩa (theo hướng làm giảm giá nội tệ so với đồng ngoại tệ). Phương pháp này đã được khẳng định về mặt lý thuyết và đã được hầu hết các nước trên thế giới áp dụng.
Trong ngắn hạn, khi giá cả và tiền lương điều chỉnh một cách chậm chạp việc phá giá làm tăng giá trong nước của hàng nhập khẩu và làm giảm giá ngoài nước của hàng xuất nước đó. Cả hai loại tác động này đều cải tiến mức cạnh tranh quốc tế, các nguồn lực sẽ được thu hút vào nền kinh tế nội địa và đặc biệt là được thu hút vào các ngành xuất khẩu mà giờ có thể cạnh tranh có hiệu quả hơn trên thị trường nước ngoài. Tuy nhiên, việc phá giá có thể không cải thiện được tài khoản vãng lai trong thời gian trước mắt thậm chí có thể dẫn đến thâm hụt nhưng khi xét về lâu dài, khi những người mua và người bán điều chỉnh lượng xuất khẩu và nhập khẩu thì sẽ tạo ra thặng dư trong tài khoản vãng lai của cán cân thanh toán.
Trong dài hạn, nếu nền kinh tế không thực sự phát triển, việc phá giá sẽ làm tăng mức tiền lương và giá danh nghĩa để cho phù hợp với mức giá nhập khẩu cao hơn làm cho tất cả các biến số thực tế khác không thay đổi. Cuối cùng là phá giá sẽ không có tác động gì cả.
Như vậy, phá giá thường được các chính phủ sử dụng để điều chỉnh kinh tế trong ngắn hạn, nhưng nếu không xem xét một cách kỹ lưỡng thì việc phá giá sẽ gây ra những hậu quả khôn lường. Thứ nhất phá giá sẽ làm tăng lạm phát vì nó làm tăng giá vật tư, thiết bị nhập, thu hẹp lãi của các doanh nghiệp sản xuất, sẽ ảnh hưởng đến nguồn thu tài chính và làm cho lạm phát sẽ khó kiểm soát hơn, đồng thời lạm phát tăng sẽ làm tăng tỷ giá, do đó càng phá giá càng không kiểm soát nổi tiền tệ. Thứ hai là phá giá sẽ dẫn đến tăng giá hàng nhập khẩu, hạn chế tốc độ phát triển kinh tế, tăng tỷ lệ thất nghiệp. Mặt khác khi nội tệ giảm giá sẽ làm cho nhiều chủ đầu tư dịch chuyển tài sản từ nội tệ sang đồng ngoại tệ, lúc này cầu về ngoại tệ tăng cũng có nghĩa là giá nội tệ ngày càng giảm. Để cân bằng lại và kiềm chế lạm phát thì chính phủ phải tăng lãi suất tiền gửi nội tệ, tức là lãi suất tín dụng cho sản xuất tăng, hạn chế tốc độ tăng trưởng, lạm phát tăng, tất cả các tình hình trên tác động xấu đến xuất khẩu.
Một số nước thực hiện phá giá và đã thất bại như Mê-xi-cô là một điển hình: Năm1976, tỷ giá tăng từ 12,5 Peso /1USD lên tới 22 Peso /1 USD, song do tỷ lệ lạm phát khá cao nên nhập khẩu gia tăng đáng kể, làm cho tỷ giá thực giảm, do vậy cán cân thương mại vẫn bị thâm hụt. Đến năm 1982, Mê-xi-cô gặp khó khăn trong thanh toán nợ, thâm hụt tài chính là 15 % GDP, lạm phát lên tới 59 %. Khi đó chính phủ lại quyết định phá giá một lần nữa, nhưng kết quả là TGHĐ thực giảm xuống, cán cân thương mại xấu đi và sau đó một thời gian việc phá giá đồng bản tệ từ 3.283 Pêso/1 USD lên 7.200 Pêsô/1 USD đã làm cho cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính càng trở nên trầm trọng (hàng chục tỷ đôla chạy ra nước ngoài, gánh nặng nợ nước ngoài tăng 57 %, chỉnh phủ phải vay 20 tỷ đôla để hỗ trợ nền kinh tế trong điều kiện bất lợi...). Nguyên nhân là do việc phá giá diễn ra trong lúc lạm phát đang ở mức rất cao, thâm hụt thương mại rất lớn và nguồn vốn nước ngoài giảm mạnh.
Nếu quốc gia thực hiện việc phá giá vào thời điểm TGHĐ thực đang trong tình trạng nội tệ bị đánh giá quá cao, thì việc phá giá sẽ có hiệu quả trong việc lấy lại mức cân bằng TGHĐ. Và nếu việc phá giá này đi kèm với những chính sách kinh tế vĩ mô phù hợp, thì sẽ gây được hiệu ứng tích cực trung hạn hay dài hạn đối với TGHĐ thực. Do vậy, việc phá giá danh nghĩa làm cho E tăng trong TGHĐ thực nhằm cố gắng loại bỏ tình trạng mất cân bằng thông qua hình thức tạo ra sự giảm giá trong thực tế, nhưng phải không có bất kỳ mức tăng tương ứng nào của giá. Mức tăng này có thể phát sinh từ các chính sách mở rộng tín dụng, các chính sách tài khoá mở rộng, tiền lương... Nếu việc phá giá danh nghĩa được thực hiện đồng thời với các chính sách thắt chặt tiền tệ và tài chính không đi đôi với chỉ số tiền lương thì chắc chắn sẽ đạt được sự giảm giá trên thực tế và khiến cho TGHĐ thực trở về mức cân bằng.
Như vậy, không phải phá giá cũng mang lại kết quả như ý muốn có khi không đẩy mạnh được xuất khẩu mà lại gây ra hiệu quả khó lường. Mặt khác, xuất khẩu tăng hay giảm không chỉ phụ thuộc vào tỷ giá mà còn phụ thuộc vào nhiều nhân tố khác. Ví dụ: đồng YÊN tăng giá liên tục so với đồng USD trong mấy thập kỷ qua nhưng hàng hoá của Nhật vẫn tiệp tục cạnh tranh trên thị trường quốc tế và cả thị trường Mỹ là bởi vì hàng hoá của Nhật có chất lượng cao và giá thành thấp.
Về nguyên tắc, cũng có một số phương pháp khác có thể sử dụng thay thế cho biện pháp phá giá đồng tiền, mặc dù không phải lúc nào cũng đạt được mọi kết quả mong muốn. Các biện pháp đó là đánh thuế nhập khẩu đồng thời với hỗ trợ xuất khẩu; duy trì chế độ nhiều TGHĐ danh nghĩa và các chính sách về thu nhập.
Chương II
Hệ thống tỷ giá hối đoái ở Việt Nam
I. Sơ lược về hệ thống tỷ giá hối đoái ở Việt Nam từ năm 1955 đến nay.
Trong giai đoạn từ năm 1955 đến 1989, mặc dù nhiều nước trên thế giới đang áp dụng cơ chế thả nổi và thả nổi có quản lý, nhưng các nước xã hội chủ nghĩa, với cơ chế kế hoạch hoá tập trung, Nhà nước luôn can thiệp mạnh vào mọi mặt hoạt động kinh tế, thì quả thực cơ chế hối đoái thả nổi không thể tồn tại, và phát huy tác dụng, thay vào đó là tỷ giá cố định, Việt Nam cũng không nằm ngoài khuôn khổ đó. Tỷ giá thực tế của VND được công bố vào ngày 25/11/1955, là tỷ giá giữa VND và đồng nhân dân tệ trung quốc là 1 NDT =1.470 VND và giữa đồng Việt Nam với đồng Liên Xô là 1 Rúp =735 VND. Tỷ giá này được xác định bằng cách so sánh giá bán lẻ của 34 mặt hàng tiêu dùng tại thủ đô và một số tỉnh khác giữa hai nước nhằm giải quyết nhu cầu thanh toán phi mậu dịch và mậu dịch tiểu ngạch, mậu dịch biên giới giữa hai nước trong những năm chiến tranh chống Pháp1955-1957. Sau đó các tỷ giá giữa đồng Việt Nam với các nước khác được thiết lập dựa trên tỷ giá đó. Bên cạnh tỷ giá thực tế (tỷ giá mậu dịch), nhà nước còn đưa ra hai loại tỷ giá khác là tỷ giá phi mậu dịch và tỷ giá kết toán nội bộ (tỷ giá giữa các đơn vị có thu chi ngoại tệ với Ngân hàng ngoại thương). Như vậy, hệ thống tỷ giá ở Việt Nam trong giai đoạn này là chế độ đa tỷ giá, tỷ giá được xác định trên ý đồ phục vụ kế hoạch của nhà nước, các quyết định này không xuất phát từ nhu cầu thực tại của nền kinh tế thị trường trong và ngoài nước, tỷ giá giữ vai trò thụ động, chưa phải là công cụ điều chỉnh kinh tế vĩ mô thực sự. Chính vì vậy, hệ thống tỷ giá này đã gây không ít khó khăn cho việc quản lý đều hành của nhà nước trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ, kinh tế đối ngoại, đồng thời để lại hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế. Sở dĩ có tình trạng như vậy là vì một số nguyên nhân, thứ nhất là do việc sử dụng tỷ giá kết toán nội bộ trong quản lý ngân sách nhà nước làm cho việc tính toán và thu chi ngân sách bị sai lệch nghiêm trọng, công tác điều hành ngân sách nhà nước khó khăn, làm giảm hiệu quả hoạt động của ngân sách nhà nước. Từ năm 1970 đến 1980 hàng năm Liên Xô viện trợ cho nước ta khoảng 15 % thu nhập của cả nước, bình quân từ 1,2 đến 1,5 tỷ rúp trong 1 năm nếu tính theo tỷ giá kết toán nội bộ thì số viện trợ này bằng khoảng 1/3 tổng thu ngân sách, nhưng nếu tính sức mua trên thị trường của đồng Rúp thì tỷ trọng này vào khoảng 60-70 %. Vì vậy, nhu cầu đổi mới cơ chế tỷ giá nói riêng, đổi mới lĩnh vực tài chính tiền tệ nói chung, trở thành vấn đề cấp bách vì nếu để tỷ giá cũ làm cho việc bù lỗ nhập khẩu vượt mức chịu đựng của ngân sách nhà nước, thủ tiêu động lực xuất khẩu.
Từ sau Đại hội lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước ta bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới quản lý nền kinh tế, từng bước xoá bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp để áp dụng dần cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước. Đây là thời kỳ có sự chuyển biến mạnh mẽ trong tư duy quản lý và điều hành kinh tế của Nhà nước, nhất là trong lĩnh vực tài chính tiền tệ.
TGHĐ, khâu đột phá có vai trò cực kỳ quan trọng trong cải cách được đặc biệt quan tâm. Tháng 3/1989 Nhà nước chính thức công bố xoá bỏ tỷ giá kết toán nội bộ, xoá bỏ mọi chế độ trợ giá cho các hoạt động ngoại thương. Tỷ giá thực tế được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chính thức công bố căn cứ vào chỉ số lạm phát, lãi suất trên thị trường, cán cân thanh toán, tham khảo diễn biến giá trên thị trường tự do và giá vàng trên thị trường quốc tế và trong nước. Trên cơ sở tỷ giá này, các Ngân hàng thương mại (NHTM) xây dựng cho mình một tỷ giá dùng để giao dịch hàng ngày với biên độ giao động cho phép. Nhìn chung, những giải pháp trên đã góp phần cải thiện phần nào tình hình trên thị trường ngoại hối, xoá bỏ tình trạng bất hợp lý trong mua bán thanh toán, đặc biệt trong lĩnh vực nhập khẩu.
Sau năm 1990, tuy đã có những cải cách nhất định về mặt tỷ giá nhưng tỷ giá vẫn có những biến động mạnh mà điển hình là cơn sốc tỷ giá vào năm 1991, đồng Việt Nam bị mất giá 60 % so với đôla Mỹ. Nguyên nhân chính là do ảnh hưởng của tình hình cán cân thanh toán quốc tế, sự thâm hụt tài chính của chính phủ và mức độ lạm phát nặng nề ở Việt Nam. Chính vì vậy, vào cuối năm 1991 đầu năm 1992 chính phủ đã can thiệp để nâng giá đồng Việt Nam trên thị trường ngoại tệ. Sự can thiệp này có mục đích chống lạm phát bằng cách giữ cho hàng nhập khẩu được ổn định vì từ năm 1990 trở lại đây, Việt Nam đã nhập khẩu một số lượng lớn lượng nguyên, nhiên vật liệu để đáp ứng nhu cầu phát triển và mở rộng sản xuất trong nước, thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm của nông nghiệp. Nếu để giá của đồng nội tệ tiếp tục giảm tất yếu sẽ làm cho giá thành sảm phẩm sản xuất trong nước tăng bởi vì các yếu tố đầu vào đã tăng. Trong điều kiện nền kinh tế có nhiều nhân tố gây bất ổn định khác thì việc giá thành hàng hoá nhập khẩu tăng cao sẽ là nhân tố kích thích lạm phát.
Cuối năm 1992, nguồn ngoại tệ do ngoại kiều gửi về Việt Nam khá lớn làm tăng cung về ngoại tệ, mặt khác NHNN kiên trì quan điểm ổn định tỷ giá bằng cách can thiệp vào thị trường ngoại tệ, nhu cầu về ngoại tệ của các doanh nghiệp cơ bản được đáp ứng, lạm phát gần như được chặn lại, tạo lòng tin cho dân chúng và sự ổn định của đồng tiền Việt Nam, giải toả được tâm lý đầu cơ. Đó là những nguyên nhân cơ bản nhất khiến cho xu hướng lên giá của đồng đôla sẽ bị chặn lại, tỷ giá VND/USD không những không tăng mà còn giảm xuống. Tuy nhiên, vẫn còn một số tồn tại trong việc điều chỉnh này về TGHĐ quá mạnh đã gây sức rất ép lớn đối với sản xuất công nghiệp và nông nghiệp. Trung Quốc là một bạn hàng quan trọng của Việt Nam và là một thị trường vừa lớn lại vừa gần. TGHĐ do thị trường quy định của Trung Quốc đã bị phá giá mạnh kể từ giữa năm 1991, biến động khoảng từ 6-8 NDT/1 đôla và có thời gian ngắn lên đến 10 NDT.
Như vậy, trong cùng điểm thời gian (tháng 8/1991) khi đồng Việt Nam lần đầu tiên đạt mức tỷ giá danh nghĩa như năm 1991 thì đồng Nhân dân tệ bị phá giá 50%. Trong khi đó mức lạm phát ở Việt Nam là 67%, còn tại Trung Quốc là 25%, do đó mức tăng trong sức cạnh tranh của hàng hoá Trung Quốc là rất đáng kể và các nhà máy Việt Nam đã phải rất vất vả vì tình trạng này.
Nhà nước đã đối phó với tình trạng này bằng cách vẫn giữ ổn định tỷ giá và phát động chống buôn lậu đồng thời đề ra cơ chế quản lý nhập khẩu bằng hạn nhập (Quota), cấm nhập khẩu cũng như hạn chế cấp tín dụng cho nhập khẩu cùng với một số chính sách ưu đãi đối với nhà xuất khẩu như: Giảm thuế, bảo hiểm giá đối nông sản xuất khẩu, trợ giá đối với những sản phẩm xuất khẩu mới... Nhưng do biên giới với Trung Quốc rất dài, dễ qua lại và do việc buôn lậu mang lại rất nhiều lợi nhuận nên hầu như không thể ngăn chặn việc buôn bán tại vùng này, tuy có thể làm cho những hoạt động đó mang lại ít lợi nhuận hơn. Tất nhiên, những biện pháp này sẽ không giúp được gì cho các nhà xuất khẩu do họ sản xuất lại tụt xuống (nếu mức giá bằng USD vẫn không thay đổi).
Diễn biến cụ thể của TGHĐ trong 2 năm 1991và 1992 như sau:
Năm 1991 :
Tháng
12/1990
01/1991
03/1991
06/1991
12/1991
VND/USD
7.400
7.900
8.830
10.050
12.550
VND/NDT
1.350
1.370
1.460
1.850
2.350
Năm 1992 :
Tháng
12/ 91
1/ 92
3/ 92
6/ 92
9/ 92
12/ 92
1/ 9
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 72499.DOC