MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu 1
Nội dung 2
Phần 1: Khái quát chung về thuế GTGT trong các doanh nghiệp. 2
1. Khái niệm vị trí và vai trò của thuế GTGT: 2
2. Các phương pháp tính thuế GTGT : 2
3. Đặc điểm quản lý và hạch toán thuế GTGT ở một số nước: 4
Phần 2: Thực trạng 7
1. Các quy định hiện hành về quản lý thuế GTGT : 7
2. Phương pháp hạch toán thuế GTGT theo chế độ hiện hành : 10
Phần 3: Một số ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện công tác quản lý và tổ chức hạch toán VAT trong các doanh nghiệp ở Việt Nam. 15
I. Một số nhận xét và đánh giá chung: 15
1. Chính sách thuế và chính sách tài chính: 15
2. Chế độ hoá đơn chứng từ và công tác quản lý, sử dụng hoá đơn chứng từ cũng như công tác quản lý thu thuê: 17
3. Tổ chức hạch toán kế toán thuế GTGT: 19
II. Giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý và tổ chức thực hiện hạch toán VAT trong các doanh nghiệp ở VN. 22
1. Điều kiện để cải cách cơ chế quản lý thuế thành công ở VN: 22
2. Hoàn thiện hệ thống thuế: 23
3. Tổ chức hạch toán kế toán: 27
Kết luận 30
Danh mục tài liệu tham khảo 31
34 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1366 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Một số ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện công tác quản lý và tổ chức hạch toán VAT trong các doanh nghiệp ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khoản cấp 2:
TK 1331: Thuế GTGT đầu vào được khấu từ của hàng hoá, dịch vụ: Dùng để phản ánh thuế GTGT đầu vào được khấu trừ của vật tư, hàng hoá, dịch vụ mua ngoài dùng vào sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế.
TK 1332: Thuế GTGT được khấu trừ của TSCĐ: Dùng để phản ánh thuế GTGT đầu vào của quá trình đầu tư, mua sắm TSCĐ dùng vào hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá dịch vụ chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế.
b. Phương pháp hạch toán một số nghiệp vụ kinh tế chủ yếu:
- Khi mua vật tư, hàng hoá, TSCĐ dùng vào hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế:
Nợ TK 152- Nguyên vật liệu.
Nợ TK 156- Hàng hoá.
Nợ TK 211- TSCĐ hữu hình.
Nợ TK213- TSCĐ vô hình.
Nợ TK 611- Mua hàng.
Nợ TK 133- Thuế GTGT được khấu trừ.
Có TK 111, 112, 331... Tổng giá thanh toán.
Khi mua vật tư, dịch vụ dùng ngay vào sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế:
Nợ TK 621, 627, 641, 642, 241...
Nợ TK 133
Có TK 111, 112...
Khi mua hàng hoá bán ngay ( Thuộc đối tượng chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế ) cho khách hàng không qua nhập kho:
Nợ TK 632- Giá vốn hàng bán.
Nợ TK 133
Có TK 111, 112...
Khi trả lại hàng cho người bán, kế toán phải ghi giảm thuế GTGT đầu vào nếu có:
Nợ TK 111, 112...
Có TK 133
Có TK 152, 153...
2.1.2. Hạch toán thuế GTGT đầu ra:
a. Tài khoản sử dụng:
TK 3331: " Thuế GTGT phải nộp "
Bên Nợ: - Số thuế GTGT đầu vào đã khấu trừ.
Số thuế GTGT được giảm.
Số thuế GTGT đã nộp vào ngân sách Nhà nước.
Số thuế GTGT của hàng bán bị trả lại, bị giảm giá.
Bên có : - Số thuế GTGT đầu vào phải nộp của hàng hoá, dịch vụ dùng để trao đổi, biếu tặng, sử dụng nội bộ.
Số thuế GTGT phải nộp của thu nhập hoạt động tài chính, thu nhập khác.
Số thuế GTGT phải nộp của hàng nhập khẩu.
Số dư bên Có: Số thuế GTGT còn phải nộp cuối kỳ.
Số dư bên Nợ: Số thuế GTGT đã nộp thừa vào ngân sách Nhà nước.
TK 3331 có 2 TK cấp 3:
TK 33311 - Thuế GTGT đầu ra: Dùng để phản ánh số thuế GTGT đầu ra, số thuế GTGT phải nộp, đã nộp, còn phải nộp của hàng hoá sản phẩm, dịch vụ tiêu thụ.
TK 33312 - Thuế GTGT hàng nhập khẩu: Dùng để phản ánh thuế GTGT phải nộp, đã nộp, còn phải nộp của hàng nhập khẩu.
b. Phương pháp hạch toán một số nghiệp vụ chủ yếu:
- Khi bán hàng hoá dịch vụ:
Nợ TK 111, 112...Tổng giá thanh toán.
Có TK 511, 512: Giá chưa có thuế GTGT
Có TK 3331
Đối với trường hợp hàng bán bị trả lại thuộc đối tượng chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế:
Nợ TK 531- Hàng bán bị trả lại ( giá bán chưa có thuế GTGT )
Nợ TK 3331- Giảm thuế GTGT phải nộp.
Có TK 111, 112... Giá thanh toán của hàng bán bị trả lại.
Khi phát sinh các khoản thu nhập từ hoạt động tài chính, hoạt động khác thuộc đói tượng chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ:
Nợ TK 111, 112, 131... Tổng giá thanh toán.
Có TK 515 - Thu nhập hoạt động tài chính ( Giá chưa có thuế )
Có TK 711 - Thu nhập khác ( Giá chưa có thuế )
Có TK 3331
Đơn vị nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế sử dụng hàng hoá để biếu tặng hoặc sử dụng nội bộ...
+ Phản ánh doanh thu bán hàng:
Nợ TK 641, 642... Giá chưa có thuế GTGT
Có TK 512 ( doanh thu bán hàng chưa có thuế GTGT )
+ Thuế GTGT phải nộp được khấu trừ
Nợ TK 133
Có TK 3331
Khi nhập khẩu vật tư, hàng hoá
+ Trường hợp nhập khẩu hàng hoá dùng vào hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGt theo phương pháp khấu trừ thuế:
Nợ TK 133
Có TK 3331
+ Trường hợp nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ dùng vào hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá dịch vụ không chịu thuế GTGT hoặc chịu thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp hoặc dùng vào hoạt động sự nghịêp...
Nợ TK 152, 156, 211...
Có TK 33312
+ Khi nộp thuế GTGT hàng hoá nhập khẩu vào ngân sách Nhà nước:
Nợ TK 33312
Có TK 111, 112...
c. Quyết toán thuế GTGT:
- Cuối kỳ kế toán xác định số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ và số thuế GTGT phải nộp:
Nợ TK 3331
Có TK 133
Khi nộp thuế GTGT vào ngân sách Nhà nước:
Nợ TK 3331
Có TK133
Nếu số thuế GTGT đầu vào lớn hơn ssó thuế GTGT đầu ra thì chỉ được khấu trừ đúng bằng số thuế GTGT đầu ra số còn lại được khấu trừ vào kỳ tiếp theo.
Đối với cơ sở kinh doanh hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ mà thường xuyên có số thuế GTGT đầu vào lớn hơn số thuế GTGT đầu ra thì được hoàn thuế theo quy định của chế độ thuế. Khi nhận được tiền ngân sách Nhà nước thanh toán số tiền thuế GTGT đầu vào được hoàn lại:
Nợ TK 111, 112...
Có TK 133
Đối với vật tư, hàng hoá mua về dùng đồng thời cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế và không chịu thuế GTGT nhưng không tách riêng được thì cuối kỳ kế toán tính và xác định thuế GTGT đầu vào được khấu trừ và không được khấu trừ trên cơ sở phân bổ theo tỷ lệ doanh thu. Số thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ tính vào giá vốn hàng bán trong kỳ:
Nợ TK 632- Giá vốn hàng bán
Có TK 133
Số thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ trong kỳ tính vào giá vốn hàng bán của kỳ kế toán sau:
Nợ TK 142- Chi phí trả trước
Có TK 133
kỳ sau phân bổ Nợ TK 632
Có TK 142
Khi nộp thuế GTGT vào ngân sách Nhà nước kế toán ghi
Nợ TK 3331
Có TK 111, 112...
2.2. Theo phương pháp trực tiếp:
Khi áp dụng phương pháp trực tiếp để tính thuế GTGT thì kế toán phản ánh giá trị vật tư mua vào và doanh thu bán hàng theo giá thanh toán.
Khi xác định được thuế GTGT phải nộp theo phương pháp trực tiếp:
Nợ TK 6425: Thuế, phí và lệ phí.
Có TK 3331
Khi nộp thuế GTGT hoặc được miễn, giảm thuế thì kế toán phản ánh tương tự như phương pháp khấu trừ.
Sơ đồ hạch toán thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ
Nợ TK 152, 153, 211... Có
Nợ TK 111, 112... Có
Nợ TK 511, 512... Có
Mua NVL, CCDC...
Nợ TK 111, 112... Có
Bán hàng
Nợ TK 3331 Có
Nợ TK 133 Có
Kết chuyển thuế GTGT đầu vào được khấu trừ
Nộp thuế GTGT
Phần 3: Một số ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện công tác quản lý và tổ chức hạch toán VAT trong các doanh nghiệp ở Việt Nam.
I. Một số nhận xét và đánh giá chung:
1. Chính sách thuế và chính sách tài chính:
1.1. Đối tượng chịu thuế:
Đối tượng không chịu thuế GTGT còn quá rộng, chưa phù hợp với quá trình luân chuyển hàng hoá, dịch vụ giữa các khâu, các cơ sở kinh doanh. Mặt khác, các đơn vị thực hiện kinh doanh trong lĩnh vực này không được hưởng khấu trừ đối với các nguyên liệu thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT được quy định tại điều 4 của luật này.
1.2. Về các mức thuế suất
Luật thuế GTGT quy định 4 mức thuế suất GTGT thay thế cho 11 mức thuế suất thuế doanh thu trước đây. Bên cạnh ưu điểm là đơn giản về mức thuế suất nhưng do việc xây dựng các mức thuế suất chưa sát và chuyển từ 11 mức thuế suất thuế doanh thu sang 4 mức thuế suất thuế GTGT đã dẫn đến sự dồn ép về mức thuế suất. Điều này cũng mang đến các hệ quả khác nhau: Có doanh nghiệp được hưởng lợi hơn do việc thực hiện thuế GTGT với mức thuế suất thấp hơn thuế doanh thu; ngược lại có đơn vị phải nộp thuế GTGT với mức thuế suất cao hơn thuế doanh thu trước đây ảnh hưởng đến kết quả doanh thu của đơn vị. Đặc biệt là việc xây dựng thuế suất chưa đồng bộ giữa các mặt hàng cùng nhóm hàng và ngành hàng tương ứng, tạo ra sự bất bình đẳng trong thực hiện nghĩa vụ thuế GTGT của các đơn vị kinh doanh trong cùng một măt hàng.
1.3. Phương pháp tính:
Luật quy định 2 phương pháp tính thuế GTGT: phương pháp khấu trừ thuế và phương trực tiếp. Liên quan đến 2 phương pháp tính thuế là việc xác định số thuế phải nộp và tỷ lệ được khấu trừ thuế theo tỷ lệ phần trăm (khấu trừ không của một số hàng hoá, dịch vụ). Qua thực tiễn cho thấy: Phương pháp tính thuế theo phương pháp trực tiếp và quản lý thuế ở VN còn phức tạp và chồng chéo, làm tăng thêm nhiều công sức và chi phí trong việc lập báo cáo, sổ sách, chứng từ của doanh nghiệp cũng như việc theo dõi, kiểm tra của cơ quan chức năng nhất là cơ quan thuế.
1.4. Khấu trừ thuế và hoàn thuế:
Về nguyên tắc, các khoản không chịu thuế GTGT thì sẽ không được khấu trừ thuế GTGT khi đưa vào kinh doanh. Nông lâm thuỷ sản chưa qua chế biến của người sản xuất lá đối tượng không chịu thuế, tuy nhiên để hỗ trợ cho người sản xuất tiêu thụ sản phẩm của mình Nhà nước đã quy định loại này được khấu trừ theo tỷ lệ đầu vào từ 1% đến 5%. Trong quá trình thực hiện do có nhiều vướng mắc từ các địa phương và các ngành, chúng ta đã mở rộng diện khấu trừ theo tỷ lệ sang các mặt hàng lân cận và một số mặt hàng khác. Về diện cũng mở rộng từ người trực tiếp sản xuất sang cả người đi thu gom và từ hàng tiêu thụ trong nước sang cả hàng xuất khẩu. Việc mở rộng diện được khấu trừ theo tỷ lệ cũng có nhiều tác dụng tích cực trong việc tiêu thụ hàng nông- lâm- thuỷ- hải sản tuy nhiên việc lợi dụng lập bảng kê khống để được khấu trừ khống theo tỷ lệ trong thời gian qua đã làm thất thoát NSNN khá lớn. Bộ Tài chính đã hạ dần tỷ lệ khấu trừ từ 3%, 5% xuống 2%, 3% nay là 1% cũng là một bước giới hạn thất thoát. Nghị định 95/2000/NĐ-CP ngày 11/11/2002 đã bãi bỏ việc khấu trừ theo tỷ lệ của các cơ sở mua hàng nông- lâm- thuỷ- hải sản buôn bán lại hoặc xuất khẩu đã hạn chế một phần việc thất thoát trong hoàn thuế và khấu trừ thuế nhưng chúng ta vẫn cần có nhiều biện pháp hơn nữa để ngăn chặn sự lợi dụng của những kẻ xấu.
Vấn đề gian lận trong hoàn thuế đã đặt ra nhiều thách thức để giải quyết một cách triệt để. Chúng ta có thể khái quát các hành vi gian lận hoàn thuế như sau:
- Tăng thuế đầu vào được khấu trừ thông qua việc sử dụng các hoá đơn mua hàng không có thực.
- Tăng thuế GTGT đầu vào được khấu trừ bằng cách biến các loại thuế đầu vào không được khấu trừ thành các loại thuế đầu vào được khấu trừ. Ví dụ, vật tư, hàng hoá mua vào sử dụng cho hoạt động không chịu thuế hoặc sử dụng cho mục đích không sản xuất thì không được khấu trừ còn sản xuất cho sản xuất thì được khấu trừ.
- Tăng thuế đầu vào được khấu trừ bằng cách lập bảng kê khống để được khấu trừ.
- Giảm thuế đầu ra bằng việc sử dụng các loại hoá đơn không thực.
- Chuyển thủ tục tiêu thụ hàng hoá nội địa thành thủ tục hàng hoá xuất khẩu.
Trên đây là về việc thực hiện của doanh nghiệp, còn về công tác hoàn thuế của Nhà nước thì thủ tục hoàn thuế rất phức tạp nên tiến độ hoàn thuế chậm, gây khó khăn cho nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp đầu tư, mua sắm tài sản cố định với khối lượng lớn.
1.5. Xác định tỷ lệ phân bổ thuế đầu vào:
Luật thuế GTGT quy định trường hợp cơ sở sản xuất kinh cả hàng hoá dịch vụ chịu thuế GTGT và không chịu thuế GTGT nhưng không hạch toán riêng được thuế đầu vào, được khấu trừ theo tỷ lệ(%) của doanh số của hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT so với tổng doanh số của hàng hoá dịch vụ bán ra. Quy định này chưa chặt chẽ vì doanh thu do thị trường quyết định nên tỷ lệ khấu trừ thuế GTGT trong tháng có thể bất hợp lý, có thể không được khấu trừ nhiều, khấu trừ ít hoặc được khấu trừ tất cả. Thuế GTGT đầu vào là yếu tố gắn với sản xuất chứ không phải yếu tố tiêu thụ. Do đó, nên căn cứ vào yếu tố sản xuất, theo tiêu thức sản xuất.
2. Chế độ hoá đơn chứng từ và công tác quản lý, sử dụng hoá đơn chứng từ cũng như công tác quản lý thu thuê:
2.1. Chế độ hoá đơn chứng từ và công tác quản lý sử dụng hoá đơn chứng từ:
Trong quản lý và sử dụng hoá đơn, chứng từ đã phát sinh những tồn tại, vướng mắc sau: In và sử dụng hoá đơn bất hợp pháp ( hoá đơn không theo quy định của luật thuế, hoá đơn thật nhưng ký hiệu, mã số trên hoá đơn là giả, hoá đơn ghi tổng giá trị hàng hoá không khớp giữa các liên...), buôn bán hoá đơn thật và hoá đơn giả; xuất hoá đơn khống tạo điều kiện cho các đơn vị khác trốn thuế; bán hàng xuất hoá đơn nhưng không kê khai nộp thuế; báo mất hoá đơn nhưng thực chất là bán hoặc sử dụng hoá đơn của đơn vị khác báo mất.
Trong những năm gần đây, chế độ hoá đơn chứng từ đã được cải tiến đáng kể. Ngoài những biểu mẫu chung cho các doanh nghiệp được quy định trong chế độ hạch toán ban đầu, Nhà nước còn cho phép các doanh nghiệp đặc thù được phát hành hoá đơn thuế GTGT ( sau khi có ý kiến của bộ tài chính).
Tuy nhiên, hệ thống chứng từ của ta còn thiếu cả về số lượng cũng như chỉ tiêu phản ánh trên chứng từ. Cụ thể :
Còn có những quy định bất hợp lý về chế độ hoá đơn đối với hàng hoá lưu thông trên thị trường. Chẳng hạn đối với hàng hoá uỷ thác xuất nhập khẩu, theo quy định của Bộ Tài Chính và Tổng Cục Thuế, các đơn vị nhận uỷ thác xuất nhập khẩu ngoài việc lập hoá đơn GTGT thu phí uỷ thác còn phải lập hoá đơn GTGT khi giao hàng cho cơ sở uỷ thác ( đối với trường hợp nhận uỷ thác nhập khẩu ). Về mặt kế toán của đơn vị nhận uỷ thác phải phản ánh 2 loại doanh thu: Doanh thu hoa hồng uỷ thác và doanh thu hàng uỷ thác giao lại cho chủ hàng. Khi trả lại hàng cho chủ hàng nghiệp vụ này thực chất không phải là quan hệ mua bán do đó không phát sinh doanh thu cũng như thuế GTGT.
Ngoài ra còn thiếu các chứng từ kế toán bắt buộc làm cơ sở pháp lý để hoạch toán các nghiệp vụ kinh tế phát sinh giữa các pháp nhân độc lập như hoá đơn chiết khấu, giảm giá.
2.2. Quản lý thu thuế:
Qua các năm thực hiện quy trình 1368 còn bộc lộ một số hạn chế nhất định như sau:
Quy trình quản lý thu thuế vẫn duy trì việc cơ quan thuế in và phát hành thông báo thuế khiến cho thu ngân sách chậm chưa nâng cao được ý thức tự giác về nghĩa vụ nộp thuế của các doanh nghiệp, việc phân định trách nhiệm giữa cơ quan thuế và doanh nghiệp chưa rõ ràng, cơ quan thuế phải tốn nhiều thời gian kinh phí. Hầu như các văn bản pháp luật về thuế hiện hành đều quy định các doanh nghiệp phải nộp thuế theo số thuế và thời gian ghi trong thông báo của cơ quan thuế mà không đưa ra yêu cầu các doanh nghiệp sau khu kê khai tự nộp đầy đủ số thuế đã kê khai vào kho bạc Nhà nước trong thời hạn quy định của luật thuế. Điều đó tạo cho doanh nghiệp có tư tưởng trông chờ vào thông báo nộp thuế, hoặc khi doanh nghiệp nộp thuế chậm lại cho là do cơ quan thuế chậm gửi thông báo thuế. Trên thực tế thời điểm gửi thông báo thuế nhiều khi còn chậm so với thời gian quy định của luật thuế nên có trường hợp doanh nghiệp phải đôn đốc cơ quan thuế gửi thông báo để nộp thuế làm giảm đi tính tích cực chủ động của doanh nghiệp trong việc nộp thuế. Bên cạnh đó việc in ấn, cập nhật và chỉnh sửa số liệu nhiều lần dẫn đến việc phát hành thông báo thuế tốn nhiều thời gian, công sức chi phí và kếm hiệu quả.
- Thủ tục kê khai nộp thuế còn quá phức tạp, thiếu tính thống nhất giữa sắc thuế. Điều này gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc kê khai thuế, nộp thuế vừa làm cho việc quản lý cửa cơ quan thuế phức tạp hơn. Hầu hết các sắc thuế đều cho các doanh nghiệp được điều chỉnh, bổ sung số thuế kê khai sót vào lần kê khai sau đã tạo sơ hở để các doanh nghiệp lợi dụng kê khai thiếu thuế mà vẫn không bị xử lý hành vi trốn lậu thuế.
- Các luật thuế và quy trình quản lý thu thuế đều có quy định tính phạt về thuế nhưng mức phạt không cao, việc áp dụng những hình thức xử lý vi phạt và phạt chưa thật nghiêm.
- Cơ quan thuế không được giao quyền điều tra, khởi tố các đối tượng nộp thuế vi phạm nghiêm trọng nên quyền lực của cơ quan thuế trong việc thực thi luật thuế bị giảm.
- Theo quy trình 1368 thì công tác thanh tra kiểm tra phải được tăng cường nhưng trên thực tế do đội ngũ cán bộ thanh kiểm tra còn bất cập cả về số lượng và chất lượng, hơn nữa vẫn chưa có quy trình phân loại kiểm tra một cách có hệ thống khoa học để phát hiện đối tượng có nhiều khả năng trốn lậu thuế nên nhìn chung công tác thanh tra kiểm tra chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu tự tính, tự khai, tự nộp thuế.
- Một trong những yêu cầu để thực hiện tốt quy trình 1368 là sự kết nối hệ thống thông tin giữa cơ quan thuế và KBNN. Nhưng thời gian qua việc kết nối thông tin giữa hai cơ quan này chưa được thực hiện.
3. Tổ chức hạch toán kế toán thuế GTGT:
3.1. Tổ chức chứng từ kế toán:
Thực tế cho thấy, còn tồn tại nhiều vấn đề trong công tác tổ chức chứng từ kế toán thuế GTGT trong các doanh nghiệp, thể hiện ở một số điểm:
- Việc lập, xử lý và luân chuyển chứng từ chưa khoa học và hợp lý.
- Doanh nghiệp còn chưa sử dụng đầy đủ các chứng từ cần thiết, chưa quán triệt việc đảm bảo chứng từ hợp pháp và hợp lý trong thanh toán.
- Việc lập chứng từ giả mạo, hoá đơn khống, hoá đơn không đúng thực tế.
Thực trạng này là một tồn tại trong kế toán, gây khó khăn cho cơ quan quản lý trong việc kiểm tra, giám sát.
Nguyên nhân của tình trạng này xét về phía doanh nghiêp là do:
- Chưa tổ chức tốt hệ thống chứng từ theo quy định, thậm chí còn cố tình vi phạm chế độ quản lý và sử dụng chứng từ vì lợi ích riêng.
- ở nhiều doanh nghiệp, trình độ của cán bộ kế toán còn nhiều hạn chế, tổ chức hệ thống chứng từ kế toán không đầy đủ thiếu khoa học.
- Hiện nay, kế toán thuế đang chi phối hoạt động kế toán của doanh nghiệp. Vì mục đích thuế nên nội dung của các chứng từ kế toán đã bị biến hoá để hợp lý hoá, tính chính xác của chứng từ bị vi phạm.
- Công tác tổ chức chứng từ kế toán chưa được quan tâm, hiện tượng thất lạc chứng từ luân chuyển chậm, phân loại lưu trữ chưa khoa học còn phổ biến.
- Việc sử dụng hoá đơn trong quan hệ mua bán hàng hoá và dịch vụ chưa được xã hội hoá, việc thực hiện chế độ chứng từ chưa đồng bộ giữa cơ quan sử dụng kinh phí và đơn vị sản xuất kinh doanh và cá nhân người tiêu dùng dẫn đến tình trạng hạch toán kế toán thiếu cơ sở pháp lý vững chắc, tạo điều kiện cho một số doanh nghiệp lợi dụng trong kinh doanh.
- Các nguyên tắc cơ bản của kế toán bị bỏ qua, dẫn đến số liệu kế toán ở nhiều doanh nghiệp không đầy đủ thiếu chính xác và không trung thực. Việc nâng giá hàng mua, hạ giá hàng bán, thanh toán tiền ngoài hoá đơn...
3.2. Tài khoản:
Theo thông tư số 122/2000/TT-BTC ngày 29/12 2000:'' Đối với hàng hoá, dịch vụ mua vào dùng đồng thời cho sản xuất, kinh doanh háng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT và không chịu thuế GTGT thì doanh nghiệp phải hoạch toán riêng thuế GTGT đầu vào được khấu trừ và không được khấu trừ''.
Như vậy, phần thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ thì không hoạch toán vào bên Nợ TK 1331.
Cũng theo thông tư này quy định:'' Trường hợp không thể hoạch toán riêng được thì toàn bộ số thuế GTGT đầu vào của hàng hoá, dịch vụ mua vào dùng chung cho hoạt động sản xuất, kinh doanh chịu thuế GTGT và không chịu thuế GTGT được hạch toán vào TK 1331. Cuối kỳ, kế toán phải xác định số thuế GTGT được khấu trừ theo tỷ lệ (%) giữa doanh thu chịu thuế so với tổng doanh thu bán ra. Số thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ được tính vào giá vốn của hàng bán ra.
Như vậy, trong trường hợp này người kế toán phải hạch toán vào bên nợ TK 1331 cả phần thuế GTGT được khấu trừ và không được khấu trừ, việc hạch toán như vậy làm cho thông tin cung cấp sẽ khó chính xác và sẽ gây khó khăn cho quá trình lập báo cáo kết quả kinh doanh- phần 3( thuế GTGT được khấu trừ , thuế GTGT được hoàn lại, thuế GTGT được giảm, thuế GTGT hàng bán nội địa). Do vậy nên có một TK theo dõi riêng số thuế GTGT đầu vào này.
3.3. Kế toán thuế GTGT ở đơn vị tính thuế theo phương pháp trực tiếp:
Theo thông tư 100 của bộ tài chính, các đơn vị tính thuế GTGT trực tiếp trên giá trị gia tăng thì cuối kỳ kế toán xác định số thuế GTGT phải nộp và được hạch toán vào chi phí quản lý doanh nghiệp ( TK 6425) là không phù hợp với bản chất nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Bởi thuế GTGT là một loại thuế gián thu, cho dù doanh nghiệp áp dụng phương pháp tính thuế nào thì khoản thuế này cũng được xem như một khoản thu hộ Nhà nước thông qua người mua.
3.4. Kế toán thuế GTGT đối với trường hợp: Bán hàng theo phương thức hàng đổi hàng; thu nhập hoạt động tài chính; thu nhập hoạt động khác.
Theo thông tư 100 quy định nếu bán hàng( thuộc đối tượng chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế) đổi lấy hàng hoá sử dụng cho hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ, theo phương pháp trực tiếp hoặc không chịu thuế GTGT đều phải nộp thuế GTGT đầu ra. Do vậy trong cả hai trường hợp đều phải xác định doanh thu bán hàng( giá bán chưa có thuế GTGT) cũng nhu số thuế GTGT phải nộp.
Vấn đề đặt ra là việc đổi hàng lấy hàng khi nào được ghi nhận là doanh thu? Theo chuẩn mực kế toán quốc tế số 16'' Doanh thu" thì việc trao đổi hàng hoá bao gồm 2 trường hợp:
Trao đổi hàng hoá tương tự về bản chất
Trao đổi hàng hoá không tương tự về bản chất.
Cũng như theo quy định của chuân mực kế toán này thì đối với trường hợp 1 việc trao đổi đó không được coi là một giao dịch tạo ra doanh thu.Việc trao đổi được coi như một giao dịch tạo ra doanh thu chỉ khi hàng hoá được bán hoặc dịch vụ không tương tự về bản chất tức là trường hợp 2. Chính vì vậy mà trên thực tế khi doanh nghiệp bán hàng theo phương thức hàng đổi hàng việc tính thuế GTGT với trường hợp 1 còn gặp nhiều khó khăn.
Trong thông tư 100 có quy định phải tính toán xác định số thuế GTGT phải nộp về khoản thu nhập hoạt động tài chính và thu nhập khác là hoàn toàn đúng. Song điều quan trọng là ở chỗ xác định sao cho đúng nội dung, bản chất kinh tế của khoản thu nhập hoạt động tài chính làm cơ sở cho việc tính thuế GTGT.
Cũng theo chuẩn mực kế toán quốc tế số 16" Doanh thu" thì thu nhập của doanh nghiệp bao gồm cả doanh thu và thu nhập khác. Thu nhập hoạt động khác được hiểu là khoản doanh thu có được từ hoạt động khác của doanh nghiệp( hoạt động tài chính, cho thuê tài sản, góp vốn liên doanh...). Tuy vậy theo chế độ kế toán hiện hành thì TK 515" Thu nhập hoạt động tài chính" chỉ mới phản ánh phần lãi về hoạt động tài chính, còn phần lỗ thì hạch toán vào TK 635" Chi phí tài chính". Trong khi đó, trên TK 711" Thu nhập khác" lại quy định nội dung ghi chép không đảm bảo tính thống nhất với TK 515, thí dụ như khoản thu về thanh lý, nhượng bán TSCĐ thì toàn bộ số tiền thu về thanh lý, nhượng bán TSCĐ lại phản ánh bên có TK 711 chứ không phải chỉ có phần lãi.
Chính vì quy định nội dung phản ánh trên TK515, 711 và các TK 511, 512 không đúng với nội dung bản chất của khoản thu nhập (Doanh thu và thu nhập khác) trong doanh nghiệp lại làm cho việc tính toán, xác định số thuế GTGT phải nộp về khoản thu nhập hoạt động tài chính và thu nhập khác gặp khó khăn.
Ngoài ra, nếu quy định nội dung ghi chép phản ánh trên TK 515 như hiện nay thì hoạt động tài chính( góp vốn liên doanh, đầu tư chứng khoán ngắn hạn...) bị lỗ thì căn cứ vào số liệu trên TK nào mà xác định số thuế GTGT phải nộp hay là không phải nộp.
3.5. Kế toán thuế GTGT trong trường hợp chiết khấu thanh toán khi bán hàng.
Nợ TK 635 - Tổng số tiền chiết khấu bao gồm cả thuế
Có TK 131, 111, 112
Do không có chứng từ báo có nên số tiền chiết khấu rơi vào những người đi mua hàng. Vì vậy, cần phải bổ sung thêm chứng từ đầy đủ hơn. Trong trường hợp này cần phải ghi bút toán như sau:
Nợ TK 635 - Số tiền chiết khấu thanh toán chưa thuế
Nợ TK 3331 - Thuế GTGT của số tiền chiết khấu
Có TK 111, 112, 131 - Tổng số tiền chiết khấu thanh toán
II. Giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý và tổ chức thực hiện hạch toán VAT trong các doanh nghiệp ở VN.
Từ thực tế tồn tại vướng mắc ở trên chúng ta có thể đưa ra một số giải pháp như sau. Nhưng trước hết chúng ta bàn về điều kiện để cải cách cơ chế quản lý thuế thành công ở VN.
1. Điều kiện để cải cách cơ chế quản lý thuế thành công ở VN:
Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII(1996) đã đề ra phương hướng cho công tác thuế là:" Tiếp tục đổi mới chính sách thuế theo phương hướng vừa đảm bảo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, vừa khuyến khích sản xuất phát triển, thúc đẩy thực hành tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng để tăng tích luỹ. Đơn giản hoá hệ thống thuế và biểu thuế suất, nâng tính ổn định của thuế...". Từ phương hướng nhiệm vụ chung đó, các nhà hoặch định chính sách kinh tế đã đưa ra mục tiêu, yêu cầu chủ yếu của cải cách thuế như: Bao quát hết mọi nguồn thu, đảm bảo mức động viên từ 20- 21% GDP, phát huy vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế của thuế, vừa khuyến khích phát triển sản xuất nội địa, vừa thực hiện tốt chính sách đối ngoại của VN với khu vực và thế giới; động viên bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và tiến tới xây dựng một hệ thống thuế đơn giản, rõ ràng, dễ kiểm tra và hiệu quả.
Để đạt được những mục tiêu trên, cải cách thuê phải được thực hiện trên cả hai lĩnh vực là cải cách chính sách thuế và cả cách cơ chế quản lý thu thuế. Những cải cách trên cả hai lĩnh vực này có mối quan hệ hết sức chặt chẽ gắn bó với nhau, trong đó cải cách chính sách thuế là việc thể hiện đường lối và phương hướng động viên thu nhập dưói hình thức thuế của Nhà nước trong nền kinh tế quốc dân. Cải cách chính sách thuế là việc sử dụng các biện pháp, cách thức tiên tiến nhất định tác động lên quá trình các chủ thể trong xã hội thực hiện nghĩa vụ nộp thuế cho ngân sách Nhà nước nhằm đạt được những mục tiêu mà chính sách thuế đặt ra. Bên cạnh cải cách chính sách thuế, đổi mới cơ chế quản lý thuế hết sức quan trọng. Tuy nhiên, để có chính sách thuế tốt và cơ chế quản lý hoàn hảo thì đều phải có những điều kiện nhất định, trong đó môi trường quản lý là một điều kiện quyết định đến sự thành công hay thất bại của cải cách quản lý thuế.
1.1. Môi trường văn hoá chính trị- Một điều kiện tiền đề cho việc tiến hành cải cách quản lý thuế:
Môi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35449.doc