MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu 1
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XK RAU QUẢ
I. Tầm quan trọng của XK rau quả
II. Nội dung của hoạt động XK rau quả
III. Các hình thức XK rau quả 4
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU MẶT HÀNG ĐỒ HỘP RAU QUẢ CỦA TCT RAU QUẢ VIỆT NAM
I. Tình hình kinh doanh XNK trong vài năm qua
II. Nguồn nguyên liệu và sản xuất, chế biến mặt hàng đồ hộp rau quả tại TCT rau quả Việt Nam
1. Nguồn nguyên liệu và công tác thu mua
2. Tình hình sản xuất và chế biến mặt hàng đồ hộp rau quả tại TCT rau quả Việt Nam
III. Thực trạng kinh doanh xuất khẩu mặt hàng đồ hộp rau quả của TCT rau quả Việt Nam
1. Tình hình kinh doanh xuất khẩu mặt hàng đồ hộp rau quả trong những năm gần đây của TCT rau quả Việt Nam
1.1. Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng đồ hộp rau quả
1.2. Mặt hàng xuất khẩu
2. Hiệu quả kinh tế – xã hội của xuất khẩu các mặt hàng đồ hộp rau quả tại TCT rau quả Việt Nam
IV. Đánh giá tình hình XK của TCT rau quả Việt Nam
CHƯƠNG III: NHỮNG BIỆN PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU MẶT HÀNG ĐỒ HỘP RAU QUẢ TẠI TCT RAU QUẢ VIỆT NAM
I. Những tồn tại
II. Phương hướng kinh doanh xuất khẩu mặt hàng đồ hộp rau quả tại TCT rau quả Việt Nam
1. Chiến lược phát triển ngành rau quả đồ hộp của Việt Nam đến năm 2010
2. Mục tiêu phát triển của TCT rau quả Việt Nam đến năm 2010
III. Các biện pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng đồ hộp rau quả tại TCT rau quả Việt Nam
1. Mở rộng thị trường xuất khẩu
2. Nâng cao chất lượng sản phẩm và đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh
3. Nâng cao năng lực giao dịch đàn phán và ký kết hơp đồng XK
4. Hoàn thiện qui trình thực hiện qui trình thực hiện hợp đồng XK
5. Tổ chức sản xuất, chế biến và kiểm tra chất lượng hàng XK
6. Tạo nguồn vốn phục vụ cho hoạt động XK
7. Nâng cao trình độ nghiệp vụ XK cho đội ngũ cán bộ kinh doanh trong TCT.
8. Một số bện pháp hạn chế rủi ro.
9. một số kiến nghị đối với Nhà nước.
Kết luận
Tài liệu tham khảo
7
7
10
10
10
12
12
12
13
16
19
20
20
21
21
22
23
23
25
26
27
32
32
33
33
34
36
37
37 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1510 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Nâng cao các biện pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu rau quả tại Tổng công ty rau quả Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
29,1
1.219.236
26,9
1.358.451
27,8
101,6
113,2
111,4
2
Singapore
711.200
17,2
840.000
18,6
880.000
18
118,1
123,7
104,8
3
Mỹ
703.100
17,1
714.132
15,8
715.300
14,7
101,6
101,7
100,2
4
Đài loan
497.600
12,1
498.700
11,1
499.214
10,2
100,2
100,3
100,1
5
Đức
298.977
7,3
339.800
7,5
420.627
8,6
113,6
140,7
123,8
6
Thuỵ sĩ
295.484
7,2
300.400
6,6
311.428
6,4
101,6
105,4
103,7
7
Pháp
117.236
2,8
289.457
6,4
375.000
7,7
246,9
319,9
129,5
8
Tây bannha
219.553
5,3
239.415
5,3
240.730
4,9
109,0
109,6
100,5
9
Hà lan
80.000
1,9
81.000
1,8
81.200
1,7
101,2
101,5
100,2
Tổng
40123.150
100
4.522.140
100
4.881.950
100
109,7
118,4
107,9
Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác SX – KD năm 1997, 1998, 1999 của TCT rau quả Việt Nam
Theo bảng 9 mặt hàng đồ hộp rau quả của TCT có mặt ở 9 thị trường: Nga, Đài loan, Đức, Thụy sĩ, Pháp, Tây ban nha, và Hà lan. Trong các thị trường này Nga vẫn là một thị trường XK mặt hàng đồ hộp rau quả lớn nhất. Tiếp theo đó là Singapore, Mỹ là các thị trường có kim ngạch XK mặt hàng đồ hộp rau quả tương đối cao. Nhìn chung, 9 thị trường này ổn định và kim ngạch tăng đều qua các năm.
Cụ thể:
+ kim ngạch XK mặt hàng đồ hộp rau quả sang thị trường Nga năm 1998 và 1999 tăng so với năm 1997 và trong 3 năm này đều chiếm tỷ trọng cao nhất (29,1%, 26,9% và 27,8% ) trong tổng kim ngạch XK các mặt hàng đồ hộp rau quả. điều này càng chứng minh nhận định của TCT: “Nga vẫn là thị trường rau quả lớn nhất của TCT rau quả Việt Nam”.
+ Đáng chú ý là thị trường Pháp, kim ngạch và tỷ trọng tăng rất nhanh. Năm 1998kim ngạch tăng gấp 2,5 lần năm 1997 và năm 1999 tăng gấp hơn 3 lần so với năm 1997. Tỷ trọng năm 1997 là 2,8% trong khi đó năm 1998 lên tới 6,4% và năm 1999 là 7,7%. Kết quả này là do mặt hàng vải hộp của TCT rất được ưu chuộng ở Pháp.
+ các thị trường khác kim ngạch tăng rất chậm và còn chiếm tỷ trọng thấp đặc biêt là Hà lan: tỷ trọng năm 1997 là 1,9%, năm 1998 là 1,8% và năm 1999 là 1,7%. Tỷ trọng thấp nhất và giảm như vậy là do kim ngạch của thị trường Hà lan tăng chậm: năm 1997 là 80.000 USD, năm1998 là 81.000 USD và năm 1999 lên một chút là 81.200 USD.
Nếu xét một cách tổng thể thì TCT rau quả Việt Nam đã có sự năng động, linh hoạt trong việc mở rộng thị trường XK mặt hàng đồ hộp rau quả. Tuy nhiên, ngoài thị trường Nga kim ngạch XK mặt hàng đồ hộp rau quả sang các thị trường khác là rất nhỏ. Chính vì vậy trong những năm tới TCT phải có biện pháp để tăng dần kim ngạch XK sang các thị trường này, đồng thời tìm kiếm và mở rộng thêm thị trường XK mặt hàng đồ hộp rau quả.
Hiệu quả kinh tế xã hội của việc XK các mặt hàng đồ hộp rau quả tại TCT rau quả Việt Nam
Trong thời gian qua, mặc dù tình hình XK các mặt hàng đồ hộp nói chung của TCTgặp rất nhiều khó khăn do sức ép cạnh tranh của môi trường kinh doanh cũng như chịu ảnh hưởng nặng nề của sự bất ổn định kinh tế chính trị ở các thị trường XK của TCT ( tổng kim ngach những năm gần đây giảm liên tục ) nhưng mặt hàng đồ hộp rau quả vẫn đứng vững với kim ngạch XK tăng đều qua các năm và chiếm tỷ trọng lớn. Điều này càng khẳng định vai trò là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của TCT. Hiệu quả kinh tế xã hội của xuất khẩu các mặt hàng đồ hộp rau quả thể hiện ở các điểm sau:
- Về mặt mở rộng diện tích, các loại rau quả đóng hộp nhìn chung rất dễ trồng. Do đó, khi loại sản phẩm này phát triển nhanh hơn nữa sẽ góp phần mở rộng diện tích ở nhiều vùng. đặc biệt dứa ( dứa hộp có kim ngạch và tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch XK các mặt hàng đồ hộp rau quả ) được xem như loại cây có giá trị kinh tế rất cao và có nhiều ưu điểm hơn các loại cây aưn trái khác vì:
Dứa là loại cây rất dễ trồng và không đòi hỏi đất tốt, có thể trồng được trên nhiều loại đất, kể cả các vùng đất đồi dốc sỏi đá lẫn vùng đất phèn, có nhiều độc chất mà nhiều loại cây khác không sống được. Vì thế có thể mở rộng phát triển diện tích trồng dứa rất dễ dàng ở vùng đất chua xấu và sử dụng dứa như là loại cây có khả năng cải tạo được đất đồi.
Về mặt XK thu hồi ngoại tệ: các mặt hàng đồ hộp rau quả có thị trường XK rất lớn sang các nước tư bản chủ nghĩa và Liên bang Nga. So sánh giá trị XK các loại sản phẩm rau quả hộp với các sản phẩm rau quả khác như rau quả đông lạnh, rau quả sấy muối… cho thấy hiện nay, tuy năng suất ở các vùng trồng rau quả ở nước ta còn thấp (VD: dứa trung bình khoảng 9- 14 tấn/ha) nhưng các sản phẩm hộp rau quả nói chung và sản phẩm dứa hộp nói riêng có giá trị xuất khẩu cao hơn các sản phẩm rau quả khác.
Bảng 10: Hiệu quả xuất khẩu một số mặt hàng đồ hộp rau quả tính trên một tấn sản phẩm ( bình quân năm 1999 )
Đơn vị: USD
Hạng mục
Dứa hộp
Dưa chuột hộp
Vải hộp
Chôm chôm hộp
Măng hộp
Chi phí mua quả tươi
382
187
612
578
452
Chi phí chế biến lưu thông
146
131
155
187
183
Giá thành/1 tấn sản phẩm
528
318
767
765
635
Giá xuất khẩu
580
350
800
1000
700
Lãi
52
32
33
235
65
Tỷ lệ lãi/chi phí (% )
9,8
10,6
4,3
30,7
10,2
Nguồn: Báo cáo công tác SX- KD năm 1999 của Tổng công ty rau quả Việt Nam
Về mặt thu nhập, các loại rau quả được dùng để đóng hộp XK đặc biệt là dứa là những cây ăn trái trồng rất mau thu hoạch, đồng thời lại cho thu hoạch rất lớn. VD: theo thống kê ở các nước có ngàmh dứa phát triển, với năng suất 60 tấn/ ha nếu chỉ xuất khẩu trái tươi thì lợi nhuận đã là gần 10.000 USD/ ha, còn nếu chế biến đồ hộp để xuất khẩu thu hoạch thì lợi nhuận là 20.000 USD/ha
Tuy nhiên, có một điều cần lưu ý là XK mặt hàng đồ họp rau quả của TCT mặc dù đem lại cho chúng ta khá nhiêù lãi, nhưng nếu so với xuất khẩu quả tươi thì lợi nhuận/tấn vẫn không bằng vì thiết bị, công nghệ sản xuất sản phẩm chế biến của ta vẫn còn lạc hậu, bao bì chưa phù hợp qui cách và chưa đựp nên rất khó cạnh tranh. VD: Lợi nhuận bình quân xuất khẩu một tấn quả tươi thanh long năm 1999 như sau:
Giá xuất khẩu : 1089 USD
Chi phí mua quả tươi : 612 USD
Chi phí chế biến lưu thông : 185 USD
Giá thành/1 tấn sản phẩm : 797 USD
Lãi : 1089 – 797 = 292 USD
Tỷ lệ lãi/chi phí : ( 292 : 797 ) ´ 100% = 36,6%
Ngoài ramức tăng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng dồ hộp rau quả góp phần tăng thu ngoại tệ, tăng doanh thu và đóng góp cho ngân sách Nhà nước. Mặt khác, nó cũng góp phần cải thiện thu nhập của cán bộ công nhân viên,
Bảng 11: Diễn biến doanh thu và nộp ngân sách qua các năm của toàn bộ Tổng công ty
Năm
Doanh thu
Nộp ngân sách
1995
1996
1997
1998
1999
396.025 triệu đồng
509.757 triệu đồng
532.180 triệu đồng
605.624 triệu đồng
682.136 triệu đồng
25.396 triệu đồng
28.347 triệu đồng
29.597 triệu đồng
30.396 triệu đồng
37.214 triệu đồng
Nguồn : Báo cáo tổng kết công tác SX – KD năm 1997, 1998, 1999 của TCT rau quả Việt Nam
Đơn vị: 1.000 đồng
Bảng 12: Thu nhập bình quân 1 người/tháng
Các khối
1994
1995
1996
1997
1998
1999
Khối XNK
Khối công nghiệp
Khối nông nghiệp
294
235
217
512
282
236
622
388
250
630
420
355
657
425
376
711
432
383
Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác SX – KD năm 1997, 1998, 1999 của TCT rau quả Việt Nam
Mặt khác, mặt hàng đồ hộp rau quả phát triển góp phần giải quyếtmột lượng lớn công việc làm cả trong lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp. Theo kế hoạch đến năm 2010, TCT rau quả Việt Nam sẽ phát triển các vùng sản xuất rau quả hàng hoá, cung cấp nguyên liệu cho chế biến để XK và nội tiêu đạt trên 50.000 ha canh tác ( khoảng 70.000 ha gieo trồng với tổng sản lượng khoảng một triệu tấn/năm ). Như vậy, sẽ tạo thêm việc làm cho khoảng 60.000 lao động trong khâu công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Riêng ngành đồ hộp rau quả sẽ giải quyết được khoảng hơn 25.000 lao động. Việc thực hiện kế hoạch sẽ trực tiếp nâng cao thu nhập cho nông dân, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Bên cạnh đó, ngành đồ hộp rau quả phát triển góp phần bảo vệ và cải thiện môi trường. Đặc biệt việc phát triển cây dứa sẽ góp phần chuyển đổi cơ cấu cây trồng ở các vùng đồi gò khô hạn, tăng cường phủ xanh đất trống, đồi trọc, bảo vệ đất và nâưng cao độ phì nhiêu.
Đánh giá
Những năm gần đây việc xuất khẩu thực sự khó khăn hơn những năm trước do giá cả và sức mua của một số thị trường giảm đặc biệt là thị trường Nhật, Hàn quốc, Liên bang Nga…
Một số thị trường tiêu thụ lớn sản phẩm rau quả ta chưa khôi phục được đã ảnh hưởng lớn đến kết qủa kinh doanh như:
+ Thị trường Liên bang Nga: Tình hình chính trị trong năm 1999 không ổn định đã ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế. Vì thế chúng ta gặp nhiều rủi ro trong khâu thanh toán tiền hàng do đồng Rúp bị trượt giá liên tục. Mặt khác giá hàng của Việt Nam quá cao so với mặt hàng giá đang bán tại Liên bang Nga và sản phẩm mẫu mã chưa phù hợp với thị hiếu của người Nga hiện nay.
+ Thị trường Mỹ: Mặc dù mới đây ta ký được Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ song phương nhưng khó khăn rất nhiều vì đây là thị trường rất khó tính với nhiều mặt hàng khác nhau.
Năm 1999 nước ta triển khai thực hiện thuế GTGT đã ảnh hưởng rất lớn đến công tác nhập khẩu của TCT, hàng nhập khẩu về tiêu thụ chậm với hiệu quả thấp. Bên cạnh đó một số mặt hàng nhập khẩu chủ lực của các đơn cị là hàng tiêu dùng do khách hàng nước ngoài đổi phương thức nên kim ngạch bị giảm đáng kể: bình đun nước, điều hoà, sữa bột…
Với kết quả kinh doanh XNK trong những năm qua có thể nói công việc XK rau quả trong cơ chế thị trường mới quả thật gặp nhiều khó khăn. do vậy TCT rau quả Việt Nam cần phải đổi mới hơn nữa hoạt động XK để thực hiện tốt mục tiêu kế hoạch đề ra và để thích ứng được với các điều kiện khắc nghiệt trên thị trường quốc tế.
chương III: những biện pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu đồ hộp rau quả tại TCT rau quả Việt Nam
Những tồn tại
Qua quá trình khảo sát thực tế tình hình kinh doanh XK mặt hàng đồ hộp rau quả của TCT rau quả Việt Nam tôi nhận thấy vẫn tồn tại những hạn chế sau cần khắc phục:
Qui trình thực hiện hợp đồng XK mặt hàng đồ hộp hiện nay của TCT còn nhiều vướng mắc: thiếu sự phối hợp đồng bộ, các khâu trong qui trình chưa đợc chuẩn bị đầy đủ và không phát huy được tiềm năng lớn mạnh của TCT.
TCT chưa có nhiều mặt hàng đồ hộp rau quả chủ lực để cạnh tranh với các nước trong khu vực.
Là một đơn vị giữ vai trò chủ chốt trong lĩnh vực XK rau quả của Việt Nam nhưng tổng kim ngạch XK các mặt hàng nói chung cũng như mặt hàng đồ hộp nói riêng của TCT còn quá nhỏ so với mức XK của cả nước (trên 70 triệu USD). Mặt khác chất lượng và hiệu quả kinh doanh chưa thực sự tương ứng với nhu cầu thị trường, với khả năng hiện có của TCT.
Tuy đã tạo được một số thi trường ổn định, nhưng do sản phẩm không đảm bảo chất lượng đồng đều vì TCT mua hàng XK từ nhiều nhà máy nên đã ảnh hưởng đến uy tín chất lượng sản phẩm đồ hộp rau quả cảu TCT. Đây là một trở ngại lớn vì việc tìm được một hợp đồng là rất khó song vì chất lượng mà chúng ta để mất thì sẽ rất khó khôi phục lại. Hạn chế này còn tồn tại là do:
+ Trình độ công nghệ ở các nhà máy ché biến nói chung còn thấp và không đồng đều vì thế hạn chế khả năng XK của TCT. Mặt khác đơn vị thành viên chưa có sự liên kết thực sự chặt chẽ để hỗ trợ lẫn nhau.
+ Bộ phận mua chưa rút ngắn được thời gian mua hàng do vậy chi phí bảo quản, lưu kho tăng, thời gian sản xuất các lô hàng không đồng đều nên dễ xảy ra tình trạng chất lượng sản phẩm XK giảm đi trong quá trình bảo quản.
+ Bao bì , mẫu mã, nhãn hiệu còn đơn điệu chậm thay đổi.
Chỉ mua hàng XK tại các nhà máy trực thuộc TCT sẽ làm cho sản phẩm XK của TCT khó cạnh tranh về giá khi sản phẩm XK của các doanh nghiệp khác có chất lượng cao hơn, giá thành hạ hơn.
Muốn xâm nhập một thị trường mới chúng ta cần phải hiểu biết luật lệ điều kiện sản xuất cũng như điều kiện an toàn vệ sinh thực phẩm của thị trường đó, việc này chúng ta còn chưa làm được, do vậy dẫn đến tình trạng người sản xuất không hiểu được sự vi phạm về các điều khoản trong hợp đồng cam kết sẽ gây thiệt hại như thế nào cho công tác kinh doanh.
Việc nắm thông tin trong công tác XNK còn yếu, do vậy để chào được các sản phẩm phù hợp với thị trường luôn biến động chúng ta còn chưa làm được. Ví dụ như hiện nay chúng ta còn chào những sản phẩm chế biến như thời kỳ 90 sang thị trường Nga là không phù hợp về mẫu mă, giá cả cũng như khẩu vị.
Chưa nắm bắt một cách có hệ thống các thông tin về tiến bộ khoa học và công nghệ rau quả trên thế giới. Chưa xây dựng đội ngũ cán bộ giỏi làm công tác kinh tế đối ngoại, giỏi chuyên môn, năng dộng sáng tạo.
Thiếu vốn đầu tư cho hoạt động sản xuất, nghiên cứu khoa học, cho đầu tư đổi mới giống rau quả, đổi mới công nghệ chế biến các sản phẩm rau quả.
Nói chung đặt trong các mặt hàng XK của Việt Nam ta phải công nhận một tồn tại là khả năng cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường quốc tế còn yếu kém xét trên mọi giác độ: giá cả, chất lượng, thanh toán, vận tải, quảng cáo…trong khi đó thị trường XK còn nhỏ bé lại chưa ổn định, rời rạc, khả năng phản ứng với cạnh tranh còn chậm. Trong khi các nước đều muốn khuyếch trương và bành trướng thị trườngXK thị trường của mình thì hàng XK của Việt Nam vẫn còn ở thế phòng ngự, khả năng vươn ra thị trường còn rất khiêm tốn. Song bên cạnh đó thì chúng ta cũng không thể phủ nhận được một thực tế rằng hàng Việt Nam đang được ngày càng cải thiện về mọi mặt, từng bước đáp ứng được nhu cầu của thị trường quốc tế, sản phẩm đã vươn tới thị trường mới kể cả thị trường được coi là khó tính nhất. Đây là bước tiến bộ cho hàng Việt Nam, góp phần thúc đẩy hoạt động XK của doanh nghiệp. TCT rau quả Việt Nam cũng là một doanh nghiệp XNK nên không nằm ngoài bối cảnh chung đó.
Phương hướng kinh doanh xuất khẩu mặt hàng đồ hộp rau quả tại TCT rau quả Việt Nam
Chiến lược phát triển ngành rau quả đồ hộp của Việt Nam đến năm 2010
“ Phát triển sản xuất rau quả để trở thành một ngành sản xuất nông nghiệp, tạo cơ sở để chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, tăng thu nhập, cải thiện môi sinh môi trường, tạo ra nguồn hàng hoá đặc trưng của vùng tăng cường XK…” Với mục tiêu trên, Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã đề ra chiến lược phát triển ngành sản xuẩt rau quả đến năm 2010.
Theo nhận xét của nhiều chuyên gia nông nghiệp, nước ta hiện trong tình trạng thiếu các loại rau quả có chất lượng cao, ngay cả các loại thông thường lúc thiếu lúc thừa. Dự án phát triển ngành rau quả đến năm 2010 điều quan trọng sẽ tạo công ăn việc làm cho khoảng 5 triệu người lao động. Với mục tiêu nhanh chóng thoả mãn nhu cầu đời sống của nhân dân về rau quả đồ hộp trong đó đẩy mạnh sản xuất và chế biến nước quả với giá rẻ để từng bước thay thế nước uống có cồn hiện nay. Để ngành sản xuất rau quả đồ hộp đạt hiệu quả kinh tế cao, theo các chuyên gia nông nghiệp cần phải đầu tư xây dựng các vùng chuyên canh gắn với công nghiệp chế biến nhằm tạo đà thuận lợi cho phục vụ XK.
Theo đề án quỹ đất có thể quy hoạch cho mở rộng diện tích trồng mới rau, hoa quả bằng các nguồn: sử dụng đất trống đồi trọc, chuyển đổi cơ cấu cây trồng và cải tạo vườn tạp. Quy hoạch vùng chuyên canh rau quả XK với tổng diện tích lên tới 133.000 ha. Về sản xuất nông nghiệp cần phải áp dụng qui trình canh tác tiên tiến như lựa chọn đất phù hợp, dùng giống tốt sạch bệnh. Bên cạnh đó phải xây dựng một số các xí nghiệp, công trình phụ nợ và các trung tâm kiểm tra chất lượng, cung ứng rau quả phục vụ cho chế biến và XK. Trước hết cần phải tận dụng triệt để các nhà máy cơ sở hiện có và từng bước xây dựng các cơ sở mới. Xây dựng hai nhà máy sản xuất hộp sắt phục vụ cho các nhà máy chế biến đồ hộp với tổng công suất 240 triệu hộp/1năm dự kiến đặt tại Hà nội và 50.000 tấn/năm, với nhiều dạng sản phẩm thoả mãn yêu cầu của các sản phẩm rau quả như chịu lạnh, chống ẩm và chịu va chạm… Phối hợp đầu tư mở rộng hai nhà máy bao bì thuỷ tinh ở Hải Phòng và TP HCM để nâng công suất đáp ứng nhu cầu phát triển. Ngoài ra sẽ thành lập một trung tâm cơ khí phối hợp các ngành cơ khí trong nước, đáp ứng nhu cầu chế tạo thiết bị cho ngành rau quả. Đồng thời tận dụng hệ thống cầu cảng có sẵn và bổ xung kho lạnh bảo quản ở các biển với tổng công suất chứa 35.000 tấn sản phẩm/lượt. Tổng số vốn 1.149 triệu USD (tương đương 16.086 tỷ đồng) sẽ bao gồm: cho sản xuất nông nghiệp 770 triệu USD, 195 triệu USD cho chế biến, cho kho tàng, vận chuyển và bao bì 124 triệu USD và cho nghiên cứu đào tạo, xây dựng vườn ươm, trợ giá giống là 60 triệu USD. Nguồn vốn huy động cho dự án được nồng ghép các chương trình xoá đói giảm nghèo, trồng 5 triệu ha rừng…
Dự án phát triển rau, hoa quả thực sự tạo bước ngoặc mới cho ngành chế biến rau quả đồ hộp trong nước, giúp cho các công ty kinh doanh trong lĩnh vực này có cơ hội thực hiện những hợp đồng với khối lượng lớn đồng thời nâng cao sức cạnh tranh của hàng đồ hộp trên thị trường thế giới nhờ nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm, đảm bảo an toàn vệ sinh hàng thực phẩm.
Mục tiêu phát triển của TCT
Cùng với dự án phát triển ngành rau quả Việt Nam từ nay đến năm 2010, TCT rau quả đã đưa ra mục tiêu phát triển cho mình. Cụ thể được trình bày trong buổi báo cáo tổng kết kết quả sản xuất kinh doanh năm 1999:
Tiếp tục triển khai theo định hướng phát triển của TCT để làm tốt giai đoạn đầu của dự án.
+ Hoàn thành nhanh các dự án được phê duyệt. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các dự án mới được đề ra.
+ Xây dựng nhanh 4 trung tâm nhân giống dứa Cayene để thay thế dần giống dứa Qeen tại một số nhà máy. hoàn thành chương trình kế hoạch phát triển 1.000 ha dứa Cayene trong năm 2000
- Xây dựng cơ cấu vốn hợp lý, trước mắt là giống rau các loại, sau đó là chủng loại giống cây ăn quả.
- Đẩy mạnh hơn nữa công tác XNK.
+ Giữ vững và phát triển thêm nhiều mặt hàng mới
+ Quyết tâm tìm mọi biện pháp khắc phục lại thị trường Liên Bang Nga và các nước XHCN cũ, các nước Tây Âu đang từng bước xâm nhập. Xây dựng chiến lược cụ thể để tiếp cận thị trường Trung Quốc, một thị trường lớn có triển vọng.
- Tăng cường hợp tác quốc tế để tranh thủ vốn đầu tư và các dự án theo hình thức nước ngoài đầu tư thiết bị. Tiến tới xây dựng mạng lưới TCT ở nước ngoài.
- Đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm trong nước. Mặt khác đầu tư thoả đáng cho công tác nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới và đầu tư cho công tác đào tạo đội ngũ cán bộ có năng lực, óc sáng tạo, dám nghĩ dám làm, chịu trách nhiệm, có đội ngũ chuyên môn vững vàng.
Triển khai áp dụng kết quả của đề tài khoa học đã nghiệm thu vào hoạt động sản xuất kinh doanh vàkhuyến khích các cơ sở áp dụng tiêu chuẩn ISO 9000. Đây là biện pháp quan trọng để nâng cao khả năng cạnh tranh.
Các biện pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng rau quả tại TCT rau quả Việt Nam
Trong thời gian qua hoạt động kinh doanh XK mặt hàng đồ hộp rau quả của TCT đã thu được những thành công to lớn, có bước phát triển đáng kể cả về chiều rộng và chiều sâu, song còn nhiều hạn chế chưa tận dụng triệt để những cơ hội, những khả năng sẵn có của mình nên việc XK mặt hàng này chưa được phát triển mạnh mẽ. Qua việc phân tích đánh giá về thực trạng kinh doanh XK mặt hàng đồ hộp rau quả của TCT trong những năm gần đây tôi xin mạnh dạn đề xuất một số biện pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng đồ hộp rau quả của TCT rau quả Việt Nam như sau:
Mở rộng thị trường xuất khẩu
Trong kinh doanh theo cơ chế thị trường thì hoạt động nghiên cứu và mở rộng thị trường có vai trò rất quan trọng và nó là một đòi hỏi tất yếu đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Hoạt động này quyết định đến khả năng tiêu thụ sản phẩm, qui mô thị trường, khách hàng và do đó quyết định đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Công tác nghiên cứu thị trường trong hoạt động kinh doanh XK mặt hàng đồ hộp rau quả sẽ cho phép doanh nghiệp xác định nhu cầu hiện tại của thị trường , dự báo nhu cầu trong tương lai, khả năng chiếm lĩnh thị trường, khả năng cạnh tranh trên thị trường …Để nghiên cứu nhu cầu thị trường có thể theo nhiều tiêu thức khác nhau trong đó để nắm bắt được những thông tin chính xác nhanh chóng, kịp thời thì TCT cần đặc biệt quan tâm đến việc tổ chức các mối quan hệ thường xuyên hơn nữa với các cơ quan sứ quán thương vụ văn phòng có đại diện nước ngoài tại Việt Nam và các cơ quan tổ chức làm công tác đối ngoại của Việt Nam ở nước ngoài. Mặt khác cũng lên cử các cán bộ sang trực tiếp khảo sát thị trường, đàm phán ký kết trực tiếp với các doanh nhân nước ngoài… nhằm thu hút kết quả tốt.
Hiện nay TCT đã có một văn phòng làm việc ở Liên bang Nga và chỉ định sẽ thiết lập văn phòng đại diện ở một số nước khác. Hoạt động này nên được xúc tiến vì sẽ có nhiều thuận lợi hơn cho các mặt hàng XK nói chung và mặt hàng rau quả nói riêng của TCT. Quan hệ buôn bán với nhiều nước trên thế giới là kết quả đáng mừng nhưng cũng cần phải xem xét, tìm hiểu nguyên nhân vì sao thị trường XK mặt hàng đồ hộp rau quả của TCT chưa được phát triển hơn nữa để xứng đáng với tiềm năng của nó, có phải do yếu tố giá cả của mặt hàng này, do thời gian thực hiện hợp đồng hay do phương thức thanh toán bất lợi hay vì yếu tố chất lượng… từ đó đề ra các biện pháp khắc phục nhằm đẩy mạnh hơn nữa những thị trường đã có đồng thời mở rộng thị trường của TCT cụ thể là:
- Giữ vững thị trường đã được xác lập, khôi phục thị trường truyền thống, thực hiện tốt phương châm chú trọng những thị trường lớn nhưng không bỏ thị trường nhỏ.
- Đối với thị trường Nga đây là thị trường lớn có tiềm năng, là thị trường truyền thống mà TCT rau quả Việt Nam đã có tín nhiệm. Do đó tuy gặp nhiều khó khăn ở thị trường này trong những năm gân đây nhưng TCT cần phải có quyết tâm bám trụ, xúc tiến nghiên cứu lập công ty tại Nga để phù hợp với cơ chế thị trường ở Nga nhằm khôi phục laị thị trường đồ hộp rau quả tại khu vực Viễn đông và Xêbiria của Nga.
- Mỹ là một thị trường lớn, có khả năng tiêu thụ hoa quả chế biến của nước ta với khối lượng lớn. Đặc biệt tháng 12/2001 vừa qua Việt Nam đã ký được Hiệp định Thương mại với Mỹ nên chúng ta có rất nhiều thuận lợi . Do vậy, TCT cần đẩy mạnh hơn nữa vào thị trường này và hết sức chú ý yêu cầu về chất lượng cũng như vệ sinh an toàn thực phẩm.
- Thị trường Châu Âu: là thị trường tiêu thụ lớn mà xâm nhập mặt hàng đồ hộp rau quả của TCT lại chiếm tỷ trọng và kim ngạch chưa cao. Do đó phải xây dựng lại kế hoạch mở rộng từng bước thị trường, vì đây được coi là khách hàng rất khó tính nên để người tiêu dùng chấp nhận và tiêu thụ nhiều hơn sản phẩm đồ hộp rau quả của mình TCT có thể áp dụng một số biện pháp cụ thể như: nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã, quảng cáo, trưng bày triển lãm, tham gia hội trợ thương mại, giới thiệu hàng hoá…
Ngoài ra trong thời gian tới, TCT cần phải đầu tư cho công tác nghiên cứu những sản phẩm mới được thị trường thế giới ưu chuộng. VD: giống soài canh nông được trồng nhiều ở Cam Ranh trong nước thường không hợp khẩu vị nhưng lại rất hợp khẩu vị với nhiều nước Châu Âu, Mỹ.
- Đối với các thị trường trong khu vực quả thật kim ngạch và tỷ trọng XK mặt hàng đồ hộp rau quả của TCT còn rất thấp mặc dù việc nghiên cứu nhu cầu thị trường là dễ dàng hơn. Dó đó TCT phải tìm mọi biện pháp để xâm nhập các thị trường này. Với quan hệ ngoại giao tốt đẹp giữa các nước trong khu vực hiện nay thì đây là điều kiện thuận lợi mà TCT nên nắm bắt để mở rộng thị trường, tạo thêm nhiều thị trường truyền thống cho TCT.
Xây dựng chiến lược thị trường lâu dài và ổn định là cơ sở cho hoạt động kinh doanh XNK của TCT có hiệu quả. Do vậy công tác nghiên cứu và mở rộng thị trường phải đặt trong mối quan tâm hàng đầu của TCT trong mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ phát triển. Thực hiện tốt công tác nghiên cứu và mở rộng thị trường là bước đầu cho sự thành công trong sản xuất, kinh doanh XNK của mỗi doanh nghiệp.
Nâng cao chất lượng sản phẩm và đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh
Trong kinh doanh XNK phải luôn xác định được rằng: Việc tìm kiếm được thị trường đã là một việc khó nhưng để giữ được thị trường lại càng khó hơn. Vì thế đòi hỏi trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng phải đặt chữ “tín” nên hàng đầu. Muốn vậy sản xuất mặt hàng đồ hộp rau quả phải giữ được chất lượng sản phẩm, giá cả phải hợp lý, phải đảm bảo đúng số lượng và thời gian giao hàng theo hợp đồng đã ký. Trong điều kiện hiện nay khi đời sống thu nhập của dân cư tại các thị trường XK ngày càng cao thì kéo theo nó là sự đòi hỏi nhu cầu càng lớn. Khách hàng không chỉ cần đến số lượng mà còn yêu cầu khắt khe về chất lượng, giá cả mẫu mã của sản phẩm. Do đó để tiêu thụ được hàng đồ hộp rau quả trên thị trường thế giới thì TCT phải không ngừng nâng cao chất lượng và đa dạng hoá sản phẩm.
Nâng cao chất lượng sản phẩm là tạo ra uy tín cho doang nghiệp và chất lượng sản phẩm phụ thuộc rất nhiều yếu tố như: sự tiến bộ của KHKT, công nghệ trình độ quản lý, trình độ tay nghề lao động. Do đó nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm đồ hộp rau quả của TCT nên thực hiện một số biện pháp chủ yếunhư sau:
+ áp dụng tiến bộ KHKT công nghệ mới vào sản xuất mặt hàng đồ hộp rau quả .
+ Tăng cường kiểm tra chất lượng sản phẩm từ khâu nguyên liệu đến khâu giao hàng, loại bỏ kịp thời nhứng sản phẩm không đạt yêu cầu.
+ Tổ chức đảm bảo nguồn nguyên liệu đầu vào cho sản xuất kịp thời đầy đủ, đồng bộ, đảm bảo chất lượng.
Đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh: đây là cơ sở để tăng sức cạnh tranh của TCT trên thị trường đồ hộp rau quả. Sản phẩm đồ hộp rau quả đa dạng sẽ đ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35281.doc