Đề án Nâng cao hiệu quả quản lý thanh khoản trong các ngân hàng thương mại của Việt Nam hiện nay

 

MỤC LỤC

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

LỜI MỞ ĐẦU 1

Chương I:Tổng quan về quản lý thanh khoản trong các NHTM 3

1.1.Khái quát về hoạt động thanh khoản tại NHTM 3

1.1.1.Khái quát về NHTM 3

1.1.2.Hoạt động thanh khoản tại NHTM 3

1.1.2.1.An toàn thanh khoản và sự cần thiết quản lý thanh khoản 3

1.1.2.2.Hoạt động thanh khoản tại NHTM 4

1.2.Nội dung quản lý thanh khoản 6

1.2.1.Mục tiêu và quy tắc quản lý thanh khoản 6

1.2.1.1.Xác định mục tiêu quản lý thanh khoản 6

1.2.1.2.Quy tắc quản lý thanh khoản 6

1.2.2.Nội dung quản lý thanh khoản 7

1.2.2.1.Xác định cầu thanh khoản 7

1.2.2.2.Xác định cung thanh khoản 9

1.2.2.3.Quản lý kết hợp 9

1.2.3.Các chỉ số đánh giá khả năng thanh khoản 10

1.3.Các lý thuyết khác nhau về vấn đề thanh khoản trong các NHTM 11

1.3.1.Lý thuyết cho vay thương mại 11

1.3.2.Lý thuyết về khả năng chuyển đổi của tài sản 12

1.3.3.Lý thuyết về lợi tức dự tính 12

1.3.4.Lý thuyết về quản lý nợ 12

Chương II: Thực trạng quản lý thanh khoản trong các NHTM của Việt Nam

hiện nay 14

2.1.Giới thiệu chung về hệ thống các NHTM của Việt Nam 14

2.2.Thực trạng thanh khoản trong các NHTM của Việt Nam những năm

gần đây 17

2.2.1.Cầu thanh khoản:Tình trạng khan hiếm tiền đồng và cuộc chạy đua

lãi suất 17

2.2.2.Cung thanh khoản: Vay trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất cao 19

2.2.3.Tình trạng thanh khoản 21

2.3.Đánh giá thực trạng công tác quản lý thanh khoản trong các NHTM ở Việt Nam 22

2.3.1.Thành tựu trong việc quản lý thanh khoản trong các NHTM 22

2.3.2.Hạn chế và nguyên nhân 23

2.3.2.1.Hạn chế 23

2.3.2.2.Nguyên nhân 24

Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thanh khoản trong các NHTM của Việt Nam 26

3.1.Định hướng phát triển của các NHTM Việt Nam trong thời gian tới 26

3.2.Giải pháp 27

3.2.1.Cần vận dụng linh hoạt các học thuyết trong quản lý thanh khoản 27

3.2.2.Xây dựng chiến lược quản lý tài sản nợ và tài sản có góp phần nâng cao hiệu quả quản lý thanh khoản 27

3.2.3.Nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh 27

3.2.3.1.Nâng cao trình độ cho cán bộ quản trị và nhân viên ngân hàng 27

3.2.3.2.Phát triển các sản phẩm công nghệ trong ngân hàng 27

3.2.4.Tăng cường quản lý rủi ro và kiểm soát nội bộ 28

3.2.5.Liên kết thống nhất giữa các NHTM để đảm bảo an toàn thanh toán và tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh 29

3.3.Kiến nghị 30

3.3.1.Đối với Ngân hàng nhà nước 30

3.3.1.1.Ổn định môi trường kinh tế vĩ mô 30

3.3.1.2.Hoàn thiện hành lang pháp lý 30

3.3.1.3.Tăng cường thanh tra giám sát tổ chức tín dụng và xây dựng hế thống cảnh báo sớm 31

3.3.1.4.Đẩy mạnh hoạt động của thị trường phái sinh 31

3.3.2.Đối với NHTM 31

3.3.2.1.Giải quyết mối quan hệ giữa nguồn và sử dụng nguồn 31

3.3.2.2.Cần đẩy mạnh liên kết phát triển 31

KẾT LUẬN 33

 

doc36 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3165 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Nâng cao hiệu quả quản lý thanh khoản trong các ngân hàng thương mại của Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oản=Chứng khoán chính phủ/∑TS có Chỉ tiêu này càng lớn thì NH được xem là càng thanh khoản (6)Chỉ tiêu năng lực sử dụng vốn sinh lời =(Dư nợ tín dụng+Dư nợ cho thuê tài chính)/∑TS có Vì tín dụng và cho thuê tài chính được xem là những tài sản ít thanh khoản nhất, do đó chỉ tiêu này càng lớn NH càng bộc lộ là kém thanh khoản. (7)Chỉ tiêu tiền nóng=Tiền nóng bên TS có/ Tiền nóng bên TS nợ Tiền nóng là những tài sản nhạy cảm với lãi suất, thường bao gồm tiền mặt, tiền gửi không kì hạn, Chứng khoán chính phủ ngắn hạn và các tài sản khác có thể chuyển hóa thành tiền trong ngắn hạn.Nếu chỉ tiêu tiền nóng càng cao thì NH được xem là càng thanh khoản. (8)Chỉ tiêu tiền gửi thường xuyên=Tiền gửi thường xuyên/Tổng tài sản Chỉ tiêu này càng lớn NH được xem là càng thanh khoản (9)Chỉ tiêu cơ cấu tiền gửi=Tiền gửi không kì hạn/Tiền gửi có kì hạn Chỉ tiêu này càng thấp thì nhu cầu thanh khoản của NH càng thấp 1.3.Các lý thuyết khác nhau về vấn đề thanh khoản trong các NHTM 1.3.1.Lý thuyết cho vay thương mại Hình thành dựa trên việc nghiên cứu thanh khoản của các NH từ đầu thế kỉ19 trở về trước.Khi đó thị trường tài chính còn chưa phát triển cao, cho vay được coi là tài sản lớn nhất trong ngân hàng nên một ngân hàng muốn duy trì tính thanh khoản của tài sản thì phải dựa vào việc nắm giữ ngân quỹ (chủ yếu là tiền mặt) và các khoản cho vay của nó phải là các khoản cho vay thương mại.Lý thuyết này chứng minh rằng, trong điều kiện các nguồn của ngân hàng phần lớn là ngắn hạn thì cho vay thương mại, tức tài trợ ngắn hạn cho tài sản lưu động của doanh nghiệp sẽ đảm bảo sự phù hợp về kì hạn của tài sản và nguồn vốn của ngân hàng tạo cho NH khả năng nhận được nguồn trả nợ trong ngắn hạn do hàng hóa được bán, vì vậy sẽ là phương pháp tốt nhất đảm bảo thanh khoản. Lý thuyết cho vay thương mại bên cạnh việc phân tích tính thanh khoản của các khoản cho vay thương mại đã không chú ý tới tính chất thanh khoản của nguồn vốn của ngân hàng và tính thanh khoản của các khoản cho vay phi thương mại, từ đó đã cho rằng các khoản cho vay phi thương mại là không đảm bảo tính thanh khoản và không thích hợp với ngân hàng thương mại.Nhưng thực tế lại ngược lại vì có rất nhiều khoản tiền gửi không bị rút ra khi đến hạn mà tiếp tục kì hạn mới. Những nguồn tiền như vậy có thể sử dụng cho vay trung và dài hạn. Lý thuyết cho vay thương mại đã ảnh hưởng tới chính sách của NHTW đối với NHTM như là qui định về tỷ lệ nguồn ngắn hạn thường cao hơn nguồn trung và dài hạn, quy định về tỷ lệ nguồn ngắn hạn được chuyển sang cho vay trung và dài hạn… 1.3.2.Lý thuyết về khả năng chuyển đổi của tài sản Dựa trên việc phân tích số lượng các ngân hàng Anh và Mỹ phá sản trong khủng hoảng 29-33, các tác giả của lý thuyết này cho rằng, số lượng các ngân hàng Anh (chủ yếu cho vay thương mại) bị phá sản cũng chẳng kém gì các ngân hàng Mỹ (mở rộng cho vay đối với bất động sản và người tiêu dùng).Như vậy, cho vay thương mại cũng không đảm bảo an toàn thanh khoản cho NHTM khi khủng hoảng xảy ra.Lý thuyết này chứng minh rằng vấn đề chính để đảm bảo an toàn thanh khoản là khả năng tạo ra thu nhập của ngân hàng(tăng khả năng tích lũy) và khả năng chuyển đổi của tài sản.Với sự phát triển của thị trường chứng khoán, thị trường tài sản, nhiều tài sản của ngân hàng có khả năng chuyển đổi cao đảm bảo ngân hàng có khoản thu cần thiết khi phải đáp ứng nhu cầu thanh khoản.Do vậy, các ngân hàng hoàn toàn có thể thực hiện các khoản cho vay phi thương mại mà vẫn đảm bảo khả năng thanh khoản của NH. 1.3.3.Lý thuyết về lợi tức dự tính Lý thuyết này cho rằng các khoản thu từ tài sản không chỉ xảy ra khi tài sản đến hạn mà còn có được vào nhiều thời điểm trong suốt thời hạn của tài sản.Chẳng hạn nếu NH cho vay trung và dài hạn, song thực hiện thu nợ theo nhiều kì hạn nợ thì thu dự tính sẽ làm tăng tính thanh khoản của tài sản. Lý thuyết này đặt nền tảng quan trọng trong việc nghiên cứu kì hạn của tài sản và nguồn vốn, coi đó là nội dung chính để quản lý thanh khoản của tài sản.Xây dựng kế hoạch thu nợ, thu lãi..căn cứ vào lợi tức dự tính của tài sản là một biện pháp đảm bảo tính thanh khoản của tài sản. 1.3.4.Lý thuyết về quản lý nợ Lý thuyết này hình thành từ giữa những năm 60 của thế kỉ 20 gắn liền với việc hình thành công cụ huy động mới là chứng chỉ tiền gửi(CD) và thị trường CD.CD cho phép các ngân hàng lớn ở các trung tâm tiền tệ có thể huy động trong thời gian ngắn một lượng vốn lớn với chi phí rẻ hơn phát hành trái phiếu trung, dài hạn. Cùng với việc phát triển thị trường liên ngân hàng cho phép các ngân hàng có thể vay lẫn nhau với quy mô lớn, chi phí giao dịch thấp.Môi trường hoạt động này làm tăng khả năng vay nợ của các NHTM.Và theo tác giả một ngân hàng có khả năng vay nợ cao(thời gian nhanh, quy mô lớn, chi phí thấp)thì có khả năng thanh khoản cao. Tóm lại, các nhà quản lý ngân hàng có thể duy trì danh mục tài sản nghiêng về tính sinh lời hơn là tính thanh khoản và sử dụng việc huy động mới như là phương pháp chính để đáp ứng nhu cầu thanh khoản. Chương II: Thực trạng quản lý thanh khoản trong các NHTM của Việt Nam hiện nay 2.1.Giới thiệu chung về hệ thống các NHTM của Việt Nam Hệ thống NHTM của Việt Nam có sự khác biệt trong hai giai đoạn: ●Ngân hàng trong cơ chế kế hoạch hóa: Tổ chức tín dụng đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là Nhà tín dụng thành lập năm 1991.Đây là tiền thân của NHNN Việt Nam.NHNN Việt Nam với hệ thống các chi nhánh tỉnh, huyện đã từng là tổ chức tín dụng lớn nhất và duy nhất trong hàng chục năm.Với chức năng huy động tiền gửi của các doanh nghiệp, các cơ quan đoàn thể, các tổ chức kinh tế và dân cư để cho vay.NHNN vừa là cơ quan quản lý tiền tệ tín dụng vừa là tổ chức kinh doanh không vì mục tiêu lợi nhuận. Ngân hàng nhà nước đã đóng vai trò quan trọng trong công cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ cứu nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc, kiến thiết đất nước.Sau 1975, cùng với khó khăn của các nước XHCN, viện trợ cho Việt Nam giảm sút.Việt Nam phải đối đầu với hàng loạt các thách thức lớn:Giải quyết nạn đói sau chiến tranh,các vấn đề xã hội cấp bách, các công trình, nhà máy bị tàn phá, thiếu ngoại tệ mạnh để nhập khẩu hàng thiết bị và hàng tiêu dùng thiết yếu…Các chính sách bao cấp trong kinh tế đã đẩy các doanh nghiệp vào tình trạng trì trệ không lối thoát.Trong lúc đó, NHNN phải in tiền để tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của các doanh nghiệp, các đơn vị hành chính sự nghiệp.Lượng tiền cung ứng gia tăng trong điều kiện các sản lượng không tăng kịp đã đẩy lạm phát lên cao trong những năm 80.Lạm phát gia tăng làm xói mòn tiết kiệm, khuyến khích tích trữ và đầu cơ, dẫn đến gia tăng mạnh nhu cầu vay vốn từ ngân hàng.Lãi suất thực âm, tỷ giá bị bóp méo, tiền lương không đủ trang trải các chi phí tối thiểu…Vòng xoáy này gây sức ép ngân hàng phải in tiền nhiều hơn và ngân hàng đã không bảo toàn nhiều vốn, không tính toán được hiệu quả kinh tế, bị kéo vào vòng xoáy của siêu lạm phát. Cơ chế kế hoạch hóa tập trung với tình trạng độc quyền của NHNN và một số ngân hàng chuyên doanh thuộc sở hữu nhà nước góp phần duy trì tình trạng trì trệ trong các ngân hàng, làm giảm vai trò là trung gian tài chính hoạt động vì mục tiêu hiệu quả kinh tế. Thời gian này chưa có hoạt động của các ngân hàng thương mại mà chủ yếu là NHNN điều tiết nền kinh tế chính vì vậy hiệu quả kinh tế thấp, các vấn đề về thanh khoản, tín dụng hay rủi ro thanh khoản, rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá có xảy ra cũng được hạn chế bằng các công cụ điều hành hết sức chủ quan của Nhà nước.Điều này kìm hãm sự phát triển kinh tế trong suốt thời kì bao cấp. ●Ngân hàng trong chuyển đổi cơ chế kinh tế (1990) Hệ thống Ngân hàng Việt Nam thay đổi một cách đáng kể trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường có điều tiết vĩ mô của Nhà nước.Mô hình tổ chức có sự thay đổi đáng kể đó là tách biệt chức năng quản lý hoạt động tiền tệ, tín dụng với chức năng kinh doanh tiền tệ, đa dạng hóa các loại hình Ngân hàng, từng bước xóa bỏ độc quyền, chuyển sang cạnh tranh có sự quản lý của Nhà nước.Kể từ đầu những năm 90 hệ thống NHTM đã không ngừng phát triển về loại hình và nghiệp vụ góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng kinh tế đất nước. Nước ta đã thành lập được 4 Ngân hàng thương mại Quốc doanh:Ngân hàng Ngoại Thương, Ngân hàng Công Thương, Ngân hàng Nông Nghiệp, Ngân hàng Đầu tư.Đến đầu năm 1990, cả nước đã có tới 15 NHTM cổ phần và các HTX tín dụng do các cấp chính quyền thành lập ở cả thành thị lẫn nông thôn.Trong môi trường chưa ổn định, các TCTD này đều còn non nớt và đều gặp vấn đề về thanh khoản, tình trạng mất khả năng chi trả của nhiều TCTD đã làm mất lòng tin của dân chúng.Đến quý I/1990 với 791 tỷ đồng đã cho vay thì 510 tỷ đồng quá hạn và đến quý III năm 1990 hầu hết các tổ chức tín dụng đều lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả. Tháng 5/1990 2 Pháp lệnh Ngân hàng đã ra đời đó là Pháp lệnh NHNN, Pháp lệnh ngân hàng HTX Tín dụng và Công ty tài chính đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong hoạt động của toàn hệ thống ngân hàng, khẳng định hệ thống Ngân hàng là hệ thống 2 cấp bao gồm NHNN và các NHTM, HTX Tín dụng, Công ty tài chính…Tuy nhiên càng về nửa sau của những năm 90 hai pháp lệnh này bắt đầu bộc lộ những hạn chế.Trước tình hình đó, Quốc hội đã thông qua Luật về Ngân hàng Nhà nước và luật về các tổ chức tín dụng.Luật các tổ chức tín dụng đã tạo môi trường pháp lý mới cho sự phát triển của các Ngân hàng. Tháng 10/2007 Việt Nam đã chính thức là thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO.Tính đến thời điểm hiện tại, sau hơn một năm gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, hệ thống NH Việt Nam đã phải đối mặt với rất nhiều khó khăn thách thức nhưng đã đạt mức tăng trưởng ngoạn mục xứng đáng là ngàng “xương sống” trong nền kinh tế quốc dân thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển.Tính đến 1/12/2007 hệ thống TCTD Việt Nam gồm 5NHTM Nhà nước,35 NHTM Cổ phần, 9công ty tài chính, 11 Công ty cho thuê tài chính, 1Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương và 940 Quỹ tín dụng cơ sở.Ngoài ra còn 1 NH chính sách xã hội, 1Ngân hàng phát triển và Tổ chức bảo hiểm tiền gửi ngân hàng.Các ngân hàng liên doanh và ngân hàng nước ngoài bao gồm: 5 NH liên doanh, 35 chi nhánh ngân hàng nước ngoài và 44 văn phòng đại diện của các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam.Các ngân hàng thương mại ngày càng phát triển mạng lưới và chi nhánh rộng khắp với hệ thống trang thiết bị hiện đại. Bên cạnh sự phát triển vượt bậc về số lượng các ngân hàng, các mạng lưới và chi nhánh rộng khắp thì nhìn nhận một cách khách quan thì các NHTM của Việt Nam có quy mô còn rất nhỏ và trình độ phát triển chưa cao so với các ngân hàng của các nước phát triển, có trên 90% thị phần hoạt động ngân hàng do 16/86 NHTM lớn nhất Việt Nam và 02 ngân hàng chính sách nắm giữ, trong đó riêng các NHTMQD chiếm trên 70% thị phần.Thời gian qua dưới ảnh hưởng của lạm phát, NHNN thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ và thị trường kinh doanh trở nên khó khăn cùng với ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu thì những yếu kém của ngành ngân hàng bắt đầu bộc lộ ngày càng rõ nét.Một trong những yếu kém dễ nhận thấy nhất là khả năng đảm bảo an toàn trong hoạt động trước những thay đổi của môi trường kinh doanh.Thời gian qua đặc biệt giai đoạn cuối năm 2007 và nửa đầu năm 2008 có thể thấy vấn đề “nóng” trong nền kinh tế là tình trạng khó khăn thanh khoản trong hệ thống NHTM của Việt Nam.Tình trạng này đã ảnh hưởng tới bản thân hệ thống ngân hàng thương mại nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung. Chính vì vậy chúng ta cần nhìn nhận và đánh giá một các khách quan thực trạng hệ thống ngân hàng và sự vận hành còn nhiều mặt hạn chế của nó để tìm ra giải pháp và định hướng cho hệ thống NHTM Việt Nam có đổi mới và cải tiến góp phần hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. 2.2.Thực trạng thanh khoản trong các NHTM của Việt Nam những năm gần đây 2.2.1.Cầu thanh khoản:Tình trạng khan hiếm tiền đồng và cuộc chạy đua lãi suất Năm 2006 được coi là năm thành công của năm thành công của hệ thống ngân hàng bởi chính những kết quả đầy ấn tượng trong hoạt động kinh doanh của NHTM.Không chỉ khối NHTM cổ phần kinh doanh đạt hiệu quả cao mà lợi nhuận của khối NHTM nhà nước cũng rất khả quan.Nếu phân tích sâu có thể thấy, mặc dù tín dụng được kiểm soát ở mức thấp, thị phần thu hẹp bớt nhưng hiệu quả kinh doanh của khối NHTMNhà nước lại cao hơn trước, dự phòng rủi ro tốt hơn. Tuy nhiên, trên một số phương diện, khả năng cạnh tranh của các ngân hàng trong nước còn yếu. Song, các ngân hàng trong nước vẫn có những lợi thế cạnh tranh nhất định, như có mạng lưới đủ rộng để tiếp cận dân cư, mở rộng thị phần, tạo lập được đông đảo những khách hàng truyền thống với những tập quán, thói quen mà các ngân hàng nước ngoài không dễ gì thay đổi được. Hơn nữa đến nay các ngân hàng trong nước cũng đã tiếp cận được không ít kinh nghiệm, kỹ năng và công nghệ để có thể bắt chước làm và có mặt còn làm tốt hơn ngân hàng nước ngoài. Đồng thời với nỗ lực cơ cấu lại toàn diện các NHTM nhà nước, NHTM cổ phần đã tạo được sự cải thiện về chất so với trước, cả về mặt tài chính, công nghệ, trình độ quản trị, điều hành. Với những thành tựu trên nhìn chung vấn đề thanh khoản của các ngân hàng thương mại của nước ta có thể nói là tốt. Tình hình thanh khoản năm 2007vẫn được duy trì tốt cho đến tháng 10.Tuy nhiên những ngày cuối tháng 11/2007 liên tục có thông tin về tình hình thiếu tiền đồng của một số ngân hàng.Đây là một diễn biến khá bất thường, vì đến cuối tháng 10, tỷ lệ cho vay bằng VND/tổng vốn huy động VND của các ngân hàng trên địa bàn Hà Nội mới chỉ là 45.7% và của TP Hồ Chí Minh là 75.3%(hai địa bàn này chiếm gần 60% tổng dư nợ cho vay toàn hệ thống).Một lý do quan trọng là trong vòng một tuần các tập đoàn kinh tế lớn của Nhà nước đã di chuyển vốn khoảng 7200 tỷ đồng, làm cho các ngân hàng thương mại bị thiếu vốn khả dụng, đẩy lãi suất trên thị trường liên ngân hàng tăng cao. Kết quả tất yếu là các NHTM đồng loạt mở một cuộc chạy đua lãi suất tiền gửi nhằm huy động tiền gửi từ dân cư đáp ứng nhu cầu thanh khoản. Cho đến 30/1/2008, Ngân hàng Nhà nước đã phải “bơm thêm” 12000 tỷ đồng vào lưu thông nhằm giúp cho các NHTM có thể vượt qua khó khăn trong vấn đề thanh khoản.Nhưng chỉ một ngày sau, NHNN lại tiếp tục” bơm thêm” 15000 tỷ đồng vào lưu thông với thời hạn thu về là 14 ngày. Thời điểm cuối năm âm lịch, người dân rút tiền sắm tết khá lớn, thêm vào đó trước tết âm lịch các NHTM đã tăng cường cho vay đáng kể. Trong khi đó vào thời điểm sau tết âm lịch thì trong khi các dòng tiền tín dụng chưa kịp quay về, nhu cầu về tiền đồng trong ngân hàng thương mại chưa có dấu hiệu bớt căng thẳng, NHNN lại ra thông báo (ngày 13/2 )sẽ phát hành tín phiếu bắt buộc tổng trị giá 20.3 ngàn tỷ đồng vào ngày 17/3. Cùng thời gian này, NHNN ra thông báo nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên thêm 1% cho tất cả các loại tiền gửi. Có thể thấy rằng thời điểm cuối năm 2007 đầu năm 2008 dấu hiệu lạm phát bắt đầu gia tăng.Và để đối phó với tình trạng này, NHNN cùng một lúc sử dụng nhiều biện pháp kiềm chế lạm phát nhằm mục đích thắt chặt tiền tệ một cách dồn dập.NHNN đã khiến cho hàng loạt các ngân hàng thương mại gặp khó khăn phía cầu thanh khoản. Và vì vậy các ngân hàng không còn cách nào hơn giải pháp hút tiền đồng từ trong nhân dân, từ đây lại nảy sinh một cuộc chạy đua lãi suất tiền gửi lần thứ hai giữa các ngân hàng thương mại.Trong cuộc chạy đua lãi suất này, một số ngân hàng đã đẩy lãi suất tiền gửi lên đến 14.4% năm(Seabank). 14.2%năm (Techcombank)…Các ngân hàng liên tục điều chỉnh lãi suất tiền gửi, thậm chí có ngân hàng thay đổi lãi suất đến 3lần trong một tuần. Như vậy khoảng thời gian tính từ cuối 2007 cho đến nửa đầu 2008 tuy không dài song các ngân hàng thương mại Việt Nam đã gặp không ít khó khăn trong vấn đề về cầu thanh khoản.Tình trạng chung là thiếu tiền đồng và phải huy động tiền gửi trong dân cư với lãi suất cao trong cuộc chạy đua lãi suất.Điều đó cho thấy vấn đề quản lý thanh khoản trong các NHTM của Việt Nam vẫn chưa được coi trọng một cách thường xuyên, liên tục và đầy đủ mà chỉ đến khi nền kinh tế “có vấn đề” như lạm phát hay các chính sách của Nhà nước thì các NHTM bắt đầu mới tìm biện pháp đối phó.Sự bị động trong quản lý đã khiến các NHTM luôn phải đương đầu với rủi ro bất cứ lúc nào. Tính cho đến cuối năm2008, nhìn chung lạm phát đã bị đẩy lùi, nền kinh tế nói chung đã qua giai đoạn nguy hiểm nhưng không tránh khỏi những khó khăn trong thời gian tới.Chính vì vậy các ngân hàng thương mại cần lưu ý chủ động trong quản lý và vấn đề quản lý cầu thanh khoản càng không thể xem nhẹ. 2.2.2.Cung thanh khoản: Vay trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất cao Bắt nguồn từ tình trạng thiếu tiền đồng trong các NHTM khiến các NHTM gặp khó khăn thanh khoản ngày một nghiêm trọng. Các NH thường vay mượn lẫn nhau dưới 2 hình thức: nhận tiền gửi của các tổ chức tín dụng khác và vay các TCTD khác. Tuy nhiên để tránh phải làm những thủ tục chặt chẽ của một hợp đồng vay vốn, các ngân hàng thường dùng hình thức tiền gửi.Tuy nhanh gọn nhưng hình thức này chứa đựng nhiều rủi ro, đặc biệt trong những thời điểm trong hệ thống có dấu hiệu mất khả năng thanh khoản. Bằng việc thắt chặt tiền tệ, kiềm chế lạm phát cộng với việc quản lý thanh khoản của một số ngân hàng lớn có vấn đề khiến cho thị trường liên ngân hàng ngày một “nóng” lên.Ban đầu lãi suất mới chỉ tăng lên tới 11% rồi 12.6% rồi 13% và 14% qua các phiên nghiên cứu của thị trường mở.Tuy nhiên lãi suất trên thị trường liên NH vẫn chưa dừng lại ở đó khi nó lập nên một kỷ lục mới chưa từng có trong lịch sử là 17%/năm(21/11/2007).Mặc dù liên tục chào vay với lãi suất cao nhưng các ngân hàng còn dư vốn khả dụng vẫn không cung cấp đủ số tiền cần vay khiến lãi suất tiếp tục được đẩy lên và chính thức vượt ngưỡng 20% vào ngày 30/1/2008. Tuy nhiên vấn đề thanh khoản vẫn chưa hề hạ nhiệt, lãi suất cho vay qua đêm trên thị trường liên ngân hàng vọt lên 25-26%, khiến cho nhiều tổng giám đốc ngân hàng còn thốt lên”Làm gì có chuyện đó”.Tiếp tục sang 31/1/2008 lãi suất trên thị trường liên ngân hàng tiếp tục nóng hơn, đã có ngân hàng phải vay với lãi suất 27%/năm và giám đốc phụ trách nguồn vốn của một ngân hàng cổ phần lớn còn cho biết nếu lãi suất tăng lên 30% thì cũng phải vay vì đã đến hạn cuối cùng để đảm bảo dự trữ bắt buộc rồi.Các NHTM cổ phần nhỏ phải chạy đôn chạy đáo để đảm bảo thanh toán cho khách hàng rồi đảm bảo dự trữ bắt buộc cho kì mới.Có ngân hàng thậm chí còn có khả năng không đảm bảo được tỷ lệ dự trữ bắt buộc nên cố vay bằng được để đảm bảo khả năng thanh toán cho khách hàng trước rồi dự trữ bắt buộc tính sau.”Nước cuối cùng là chịu phạt của NHNNVN mà thôi. Các NHTM gặp khó khăn trong vấn đề cung thanh khoản tiến hành dùng hình thức nhận tiền gửi từ các TCTD.Hình thức này chứa đựng nhiều rủi ro như đợt tháng2/2008 xảy ra tình trạng NH A không đòi được NH B vì B không đòi được NH C, C không trả được nợ vì người vay của C là NH D đang thiếu vốn khả dụng để đáp ứng lập tức nhu cầu thanh toán của khách hàng.. tình trạng cứ diến ra như vậy và cứ thế khiến cung thanh khoản của các NHTM gặp phải khó khăn và đẩy lãi suất trên thị trường liên ngân hàng ngày một “nóng” hơn.Có lúc các NHTM đã buộc phải đi vay trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất 40%/năm.Các ngân hàng cùng lôi nhau vào “vòng xoáy” đua tăng lãi suất gây nên những hậu quả nặng nề ảnh hưởng tới nền kinh tế trong một khoảng thời gian. Chỉ trong một thời gian ngắn nhưng những biến động trên thị trường liên ngân hàng đã khiến cho các nhà quản lý cần phải nhìn nhận và đánh giá lại những yếu kém trong công tác quản lý mà đáng nói ở đây là vấn để quản lý cung thanh khoản.Tại sao lại xảy ra tình trạng như vậy?Nếu như các ngân hàng biết cân đối nguồn vốn và dự báo được tình trạng cuối năm thường xảy ra khan hiếm tiền đồng thì phải chăng có thể tránh khỏi nguy cơ phải huy động vốn trên thị trường liên ngân hàng với mức lãi suất cao chưa từng thấy trong lịch sử như vậy không.Thực trạng trên thị trường liên ngân hàng đã cho chúng ta một bài học lớn trong vấn đề quản lý thanh khoản. Nửa cuối 2008 dưới ảnh hưởng của lạm phát và cuộc khủng hoảng tài chính song ngành NH trong khó khăn vẫn giữ được an toàn hệ thống đổi mới công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh.Vấn đề thanh khoản đã được xem trọng hơn so với thời gian trước vì vậy nhìn chung các ngân hàng đã quản lý thanh khoản tốt hơn so với thời kì trước. 2.2.3.Tình trạng thanh khoản Trong giai đoạn nửa đầu năm 2008 có thể tổng kết rằng các NHTM Việt Nam thiếu hụt thanh khoản rất lớn.Bởi đối với nguồn huy động từ nền kinh tế(tính trên cơ sở tiền gửi dân cư và tổ chức kinh tế) thường chỉ chiếm khoảng 80% tổng vốn huy động, trong khi đó cho vay nền kinh tế thường chỉ chiếm từ 60-72% hoạt động sử dụng vốn.Đối với sử dụng vốn các ngân hàng để tồn quỹ tiền mặt, cho vay các TCTD khác, duy trì số dư tiền gửi tại NHNN, mua trái phiếu chính phủ, tín phiếu NHNN và đầu tư vào các GTCG khác.Với cơ sở trên chúng ta có thể ước tính sự thiếu hụt thanh khoản trong những trung tuần tháng6/2008 như sau: Bảng 1:Tình hình huy động nguồn và sử dụng nguồn của NHTM Việt Nam STT Khối ngân hàng Huy động từ nền kinh tế Cho vay nền kinh tế 31/12/2007 6/6/2008 31/12/2007 9/6/2008 1 Khối NHTMNN 707.03 605* 578.29 560* 2 Khối NHTMCP 346.62 412* 286.2 350* 3 Khối NHLD và nước ngoài 88.12 90* 66.42 82* Nguồn số liệu:Theo thống kê của NHNN (*)Theo ước tính Bảng 2:Ước tính chênh lệch nguồn và sử dụng nguồn của NHTM Việt Nam TT Khối ngân hàng Chênh lệch nguồn và sử dụng nguồn 1 Khối NHTMNN -100 2 Khối NHTMCP -63 3 Khối NH LD và nước ngoài -9 4 Tổng cộng -172 2.3.Đánh giá thực trạng công tác quản lý thanh khoản trong các NHTM ở Việt Nam 2.3.1.Thành tựu trong việc quản lý thanh khoản trong các NHTM ●Đảm bảo tính thanh khoản của nền kinh tế: Sau đợt căng thẳng đầu năm 2008 nhờ những can thiệp bằng chính sách đúng đắn và hiệu quả của NHNN, tình hình thanh khoản trong thời điểm hiện nay tương đối tốt, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng đã giảm, không còn ở mức cao như đầu năm 2008. Tính đến thời điểm cuối 2008 có thể nói các ngân hàng thương mại của Việt Nam đã chống đỡ tốt trước tình hình lạm phát và cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới.Lãi suất huy động và cho vay được hạ xuống đảm bảo cho các doanh nghiệp, cá nhân có thể vay vốn với lãi suất thấp để có thể kinh doanh, vấn đề thanh khoản được các ngân hàng coi trọng và xử lý hiệu quả. Các ngân hàng thoát ra khỏi tình trạng thiếu hụt thanh khoản so với nửa đầu năm 2008. Hiện nay, tình hình thanh khoản của hệ thống Ngân hàng đã được cải thiện hơn so với đầu năm do tình hình lạm phát đang có chiều hướng chậm lại, NHNN đã có các chính sách can thiệp kịp thời để hỗ trợ cho các Ngân hàng gặp khó khăn. Tuy nhiên, do tình hình lạm phát trong nền kinh tế vẫn còn căng thẳng nên chưa thể nói đến khả năng nới lỏng chính sách tiền tệ thắt chặt tính thanh khoản của hệ thống ngân hàn vẫn luôn là mối quan tâm hàng đầu của các nhà quản lý. ●Cùng với việc tính thanh khoản trong các ngân hàng được ổn định hơn thì các doanh nghiệp được vay vốn với chi phí hợp lý.Tình hình chung ở nửa cuối năm 2008 là các ngân hàng rục rịch hạ lãi suất cho vay.BIDV là ngân hàng đầu tiên công bố giảm lãi suất cho vay.BIDV cho hay lãi suất áp dụng đối với khách hàng của BIDV giảm chung 0.2% cho toàn bộ khách hàng của ngân hàng. Riêng các doanh nghiệp trong các ngành hàng được ưu tiên về vốn sẽ được giảm lãi suất 0.6% cho vay ngắn hạn. Các doanh nghiệp này gồm các công ty thực hiện các dự án trọng điểm của Chính phủ, các ngành xăng dầu, xi măng, điện, sắt thép, doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng thiết yếu như dược phẩm, lương thực, thực phẩm, nước sạch, vận tải. Khi vấn đề thanh khoản đã ổn định hơn, các ngân hàng rục rịch hạ lãi suất cho vay là chia sẻ khó khăn của doanh nghiệp và khuyến khích các ngành hàng trong ưu tiên phát triển, các ngành tạo ra cân đối vĩ mô lớn cũng như tăng trưởng của nền kinh tế. Khi tính thanh khoản của các ngân hàng đã ổn định thì nhu cầu thu hút tiền gửi tiết kiệm bằng mọi cách của ngân hàng cũng sẽ giảm. Nhờ vậy lãi suất đầu ra cũng sẽ bớt căng thẳng.Tính đến giữa tháng6/2008 vừa qua, NHNN đã thông báo số dư tiền gửi của các ngân hàng tại NHNN tiếp tục tăng và ở mức tương đối cao. ●Đảm bảo an toàn cho hệ thống: Ngành ngân hàng đã nỗ lực tham mưu và làm nòng cốt không chỉ điều hành chính sách tiền tệ thắt chặt, linh hoạt mà còn đảm bảo tính thanh khoản của nền kinh tế góp phần thiết thực kiềm chế thành công lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và duy trì tăng trưởng của đất nước. Trong bối cảnh khó khăn nhưng các NHTM tiếp tục đảm bảo an toàn hệ thống, tích cực đổi mới ứng dụng công nghệ hiện đại, tăng cường nguồn vốn, bổ sung hoàn thiện thể chế chính sách, cán bộ ngân hàng ngày càng trưởng thành hơn trong năm 2008. 2.3.2.Hạn chế và nguyên nhân 2.3.2.1.Hạn chế ●Sự bùng nổ thành lập hàng loạt các ngân hàng mới gây tâm lý lo ngại về năng lực quản lý của các ngân hàng trong đó có vấn đề về thanh khoản làm ảnh hưởng tới niềm tin của nhân dân Chỉ tính từ nửa cuối

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22163.doc
Tài liệu liên quan