Mục lục
Lời mở đầu .1
Chương I: Thực trạng xuất khẩu chè của Việt Nam .2
1. Tổng quan về thị trường chè thế giới .2
2. Tình hình xuất khẩu chè của Việt Nam .4
Chương II: Đánh giá năng lực cạnh tranh của chè Việt Nam trên thị trường
thế giới .8
1. Thế mạnh. 8
2. Mặt hạn chế . .11
Chương III: Những biện pháp chủ yếu đẩy mạnh xuất khẩu trong thời gian
tới .16
1.Nâng cao chất lượng của chè Việt Nam trên thị trường thế giới.16
2. Đẩy mạnh xúc tiến thương mại . 20
3. Một số kiến nghị .25
Kết luận .26
28 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1850 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Năng lực cạnh tranh của chè Việt Nam trên thị trường quốc tế và những giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của chè Việt Nam trong thời gian tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
công Việt Nam tương đối rẻ, nếu so với mặt bằng chung của chi phí nhân công trong ngành trên thể giới thì chi phí nhân công của ta thấp hơn. Tuy vậy, nếu so với các cường quốc chè như ấn Độ, Xrilanka, Trung Quốc... thì lợi thế này không còn nữa.
c. Giống và công nghệ
Giống chè cũng là một trong những lợi thế có tính chất quyết định đối với chất lượng chè cũng như khả năng cạnh tranh của chè. Trong khoảng hơn 10 năm trở lại đây, nhờ chương trình chính phủ, liên doanh liên kết, quan hệ quốc tế... chúng ta đã có thêm 36 giống mới, trong đó có nhiều giống đã thể hiện tính ưu việt, đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của thị trường đối tác. Do đó, chè Việt Nam cũng dễ dàng hơn trong mở rộng thị trường và tìm chỗ đứng cho riêng mình. Kết quả là cơ cấu thị trường có sự chuyển dịch, trong đó các thị trường truyền thống hầu như giữ vững một cách ổn định và mở rộng thêm thị trường mới như: Hàn Quốc, Thái Lan, Séc ... Cụ thể: năm 2000, diện tích chè được trồng mới chỉ chiếm 15% tổng diện tích trồng chè cả nước, đến năm 2004, thì chiếm tới 26,7% tổng diện tích chè cả nước. Trong vòng 5 năm từ 2000- 2005, bình quân mỗi năm diện tích trồng chè cả nước từ 90.000 ha năm 2000 lên 122.000 ha năm 2004.
Bên cạnh đó công nghệ chế biến cũng có những chuyển biến khá mạnh. Các công ty liên doanh hợp tác với nước ngoài về sản xuất chè đã thu hút được hàng triệu USD vốn đầu tư, tiếp thu được thiết bị - kĩ thuật công nghệ mới, hiện đại: công nghệ sản xuất CTC (Ấn Độ), công nghệ chè ô long... đã có mặt ở Việt Nam. Ngoài ra, những tiến bộ về bảo trì, mĩ thuật và sự đa dạng về chủng loại, mẫu mã cũng góp phần mở rộng thị trường và thúc đẩy ngành chè phát triển.
d. Chính sách hỗ trợ của Nhà nước và hiệp hội
* Về phía nhà nước:
- Những chính sách của nhà nước đối với thị trường trong nước: cú thể nhận định là sau khi những chớnh sỏch này ra đời và đi vào quỏ trỡnh vận hành, thị trường trong nước đó cú những biến đổi tớch cực tạo điều kiện cho việc tổ chức sản xuất theo hướng xuất khẩu trong điều kiện mới:
+ Chính sách ruộng đất: Những cải cách về ruộng đất trong những năm qua đã phát huy được hiệu quả. Từ năm 1981 đến nay chúng ta có các chính sách ruộng đất như.: chỉ thị 100/ CT/ TW, nghị quyết khoán 10 và đặc biệt là “luật đất đai” và các chính sách khác . Những chính sách này là động lực trực tiếp thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng khai thác lợi thế vùng, hình thành và phát triển các vùng chè tập trung. Nhờ chính sách ruộng đất mà hiệu quả sử dụng đất tăng lên 1,96 lần giai đoạn 1996-2000, diện tích gieo trồng tăng từ 82.000 ha (năm 1999 ) lên 122.000 ha (năm 2004), đưa Việt Nam thành nước đứng đầu thế giới về tốc độ gia tăng diện tích trồng chè.
+ Chính sách giá: Nhà nước chuyển đổi chính sách và cơ chế điều hành từ trực tiếp quyết định tỷ giá hối đoái sang điều hành theo cơ chế thị trường, giá cả được hình thành theo quan hệ cung cầu, do người mua, người bán tự thoả thuận và quyết định. Đây là động lực thúc đẩy sản xuất, mở rộng thị trường xuất khẩu.
+Chính sách xuất khẩu: Chính sách xuất khẩu đã rất thông thoáng. Nhà nước đã ban hành chính sách và cơ chế điều hành hoạt động xuất khẩu một cách ổn định, cởi mở rõ ràng cho cả một giai đoạn 5 năm (Nghị định 44/2001/NĐ - CP ngày 2/8/2001, quyết định 46/2001/ QĐ - TTg ngày 4/4/2001 và các thông tư hướng dẫn). Ngoài ra, Nhà nước còn sử dụng nhiều công cụ hỗ trợ khác phù hợp với thông lệ quốc tế như: hạn ngạch thuế quan, thưởng xuất khẩu, miễn, giảm thuế, ưu đãi tín dụng trong đầu tư... Đây là một động lực cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh chè.
- Những chính sách của Nhà nước với thị trường của nước ngoài ( hay còn gọi là chính sách thị trường): Chính sách thị trường của nước ta đã từng hoạt động thương mại vào quỹ đạo hợp tác nhiều mặt, song phương, đa phương với các nước , các tổ chức quốc tế và khu vực, tạo thêm thế và lực, thêm khả năng và cơ hội cho hoạt động xuất nhập khẩu. VD: Hiệp đinh Việt- Mĩ, hoạt động trong ASEAN, nỗ lực để gia nhập WTO...
* Về hiệp hội chè Việt Nam (VITAS)
Trong những năm gần đây VITAS đã kiến nghị với các ngành và địa phương, đồng thời ráo riết thực hiện các giải pháp nâng cao uy tín và vị thế chè Việt Nam, trong đó có giải pháp mang tính đột phá là xây dựng thương hiệu chè Việt Nam. Đây là những bước đi đúng đắn nâng cao uy tín cho chè Việt Nâm không chỉ trong nước mà còn ở ngoài nước, tạo tiền đề cho chè của ta có điều kiện thâm nhập thị trường mới và đứng vững trên thị trường truyền thống.
Tóm lại, với những thế mạnh đặc trưng của chè Việt Nam đã nói ở trên đã tạo ra được những ưu thế cạnh tranh cho chè Việt Nam. Tuy nhiên cùng với thế mạnh hay những lợi thế so sánh cạnh tranh, vẫn còn có những bất cập song song tồn tại buộc ngành chè phải đối mặt và có những giải pháp cấp bách.
2. Mặt hạn chế
Có thể nói chè Việt Nam đã có được những thành tựu hết sức ngạc nhiên, tuy nhiên Việt Nam vẫn chưa có đủ khả năng chi phối thị trường chè thế giới. Đó là do hạn chế ở các mặt :
Một là, lực lượng lao động: do đặc điểm của chè là được tập trung trồng chủ yếu ở 3 vùng lớn: Trung du, vùng núi và Tây nguyên, do vậy bản thân các doanh nghiệp phải đối mặt rất nhiều khó khăn. Đầu tiên đó là vấn đề kỹ thuật canh tác, chăm sóc cây chè. Những người nông dân trồng chè đa phần không có trình độ hay mức độ am hiểu về cây chè rất thấp. Do đó kỹ thuật canh tác, chăm sóc, thu hái chè thường không đúng tiêu chuẩn hay không theo bất kỳ một quy chuẩn nào gây ảnh hưởng chất lượng sản phẩm chè chế biến. Ngoài ra, khi các cơ sở chế biến với quy mô nhỏ mua chè tưoi với giá cao hơn giá của các nhà máy, doanh nghiệp thì họ sẵn sàng phát vỡ cam kết trong khi các nhà máy, doanh nghiệp hỗ trợ cho người nông dân giống, phân bón, kỹ thuật, bao tiêu sản phẩm... Và vì thế buộc các doanh nghiệp phải thu mua chè búp tươi ở những nơi khác để đáp ứng nguồn nguyên liệu cho sản xuất. Nên chất lượng chè xuất khẩu thường không đồng đều, ảnh hưởng tới uy tín của chè Việt Nam và của bản thân doanh nghiệp.
Hai là, vùng nguyên liệu: Khi xu thế chè trên thế giới phát triển, các cơ sở sản xuất và chế biến chè phục vụ xuất khẩu ở trong nước mọc lên ồ ạt, đến nay con số này là trên 600 cơ sở. Tuy nhiên, các cơ sở sản xuất chế biến này hầu hết lại ở dạng hộ gia đình, cơ sở sản xuất mini, doanh nghiệp nhỏ nên không tự chủ được vùng nguyên liệu. Mặt khác, diện tích trồng chè qua các năm có tăng nhưng tốc độ tăng diện tích không theo kịp tốc độ tăng về cơ sở sản xuất. Nguyên liệu phục vụ sản xuất không đáp ứng đủ công suất của các nhà máy và cơ sở chế biến. Do đó dẫn đến cuộc chiến đẩy giá nguyên liệu lên cao. Các doanh nghiệp phải tranh mua nguyên liệu để đáp ứng công suất của máy móc, nhà xưởng; dù phải chịu mua với giá cao song chất lượng nguyên liệu lại không đi kèm theo đó. Doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn.
Ba là, công nghệ : Công nghệ là yếu tố quyết định tới 20% chất lượng sản phẩm, vậy mà công nghệ chế biến chè của nước ta còn rất lạc hậu. Ngoài một số doanh nghiệp lớn và một số doanh nghiệp có sự đầu tư của nước ngoài (Phú Bền - 100% vốn đầu tư của Bỉ, Phú Đa - liên doanh giữa Tổng Công ty chè Việt Nam và Irắc) có dây truyền chế biến đồng bộ, hiện đại, hoạt động tốt, còn có rất nhiều doanh nghiệp và cơ sở chế biến nhỏ cũng tham gia sản xuất chè xuất khẩu. Những cơ sở này thiết bị vừa thiếu, vừa không đồng bộ, là yếu tố chủ yếu làm giảm chất lượng và giảm uy tín chè xuất khẩu của Việt Nam. Dù công nghệ chế biến trong những năm gần đây đã được chú trọng, đầu tư đáng kể nhưng vẫn còn chậm, chưa theo kịp được với công nghệ tiên tiến của thế giới, và không đảm bảo những yêu cầu tối thiểu về quy trình chế biến và vệ sinh.
Bốn là, thị trường nhập khẩu: Như đã nói ở trên, thị trường nhập khẩu chè của Việt Nam trong những năm qua đã được phát triển, có xu hướng bắt đầu tiếp cận vào được các thị trường tiêu thụ chè lớn của thế giới như EU, Nhật Bản, Pakistan, Mỹ, Nga, Pakistan, Iran… đây là tín hiệu đáng mừng. Tuy nhiên cũng có những thị trường đã từng nhập khẩu chè của nước ta nhưng gần đây lại không nhập khẩu như Tây Ban Nha, Yemen, Paragoay... Tính đến tháng 7 năm 2005, trong khi doanh nghiệp thâm nhập thêm được 9 thị trường mới, xuất khẩu tăng 254 tấn (tương đương 315.200 USD) thì lại để mất 13 thị trường, giảm 784 tấn (tương đương 1.000.000 USD). Điều này cho thấy thị trường nhập khẩu chè của Việt Nam chưa thật sự ổn định, chè của chúng ta dường như mới chỉ biết cách "vào" mà chưa đứng vững được trên thị trường các nước nhập khẩu.
Năm là, khuyết tật của sản phẩm: Có thể nói đây chính là nguyên nhân chủ yếu làm cho giá xuất khẩu của ta luôn thấp hơn các nước khác. Đó là những khuyết tật về giống, chè không đồng loại, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật về mẫu mã, bao bì.
Đầu tiên đó là yếu tố giống, Đây là yếu tốt quyết định tới 50% chất lượng chè làm ra vậy mà hiện nay Việt Nam vẫn canh tác trên những nông trường chè của những năm 50, 60 với những giống chè chưa được cải tạo, chất lượng không còn phù hợp hay nói cách khác có sự xuống cấp về chất lượng.
Mặt khác, việc sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật, Nhà nước vẫn chưa có biện pháp quản lý hữu hiệu. Bởi vậy, sản phẩm chè có dư lượng thuốc trừ sâu vượt quá hạn mức cho phép vẫn xảy ra, có không ít thị trường từ chối nhập hàng của ta khi qua khâu phân tích kiểm dịch. Đây là một trở ngại rất lớn cho chè Việt Nam khi thâm nhập và muốn đứng vững ở thị trường có yêu cầu rất khắt khe về vệ sinh an toàn thực phẩm.
Cuối cùng về mẫu mã, bao bì sản phẩm. Bao bì, mẫu mã hay nhãn mác sản phẩm có ý nghĩa quan trọng trong việc giúp các doanh nghiệp thâm nhập được thị trường. Thực tế thị trường đã chứng minh chỉ có những sản phẩm có mẫu mã thu hút, hấp dẫn mới có thể thúc đẩy việc tiêu thụ. Nhưng các doanh nghiệp Việt Nam dường như lại rất thờ ơ với vấn đề này, mẫu mã bao bì còn đơn điệu, chưa hấp dẫn, không tạo được sự thu hút đối với thị trường nhập khẩu.
Tổng hợp của những khuyệt tật trên sẽ dẫn đến sản phẩm có chất lượng thấp, khả năng cạnh tranh kém trên thị trường quốc tế và kéo theo giá xuất khẩu thấp.
Sáu là, đa dạng sản phẩm: Chè của Việt Nam trong những năm qua đã tăng về chủng loại nhưng vẫn chưa đa dạng được các sản phẩm chè. Chè xuất khẩu chủ yếu ở dạng sơ chế, bán thành phẩm (các nước nhập khẩu để chiết xuất). Nên giá xuất khẩu thường không cao. Theo một nghiên cứu mới đây nhất về thị trường Nhật Bản, một quốc gia có nhu cầu tiêu dùng chè khá cao, ở nước này có rất nhiều sản phẩm liên quan tới chè như kẹo chè, bỏng chè, kẹo cao su chè... cho thấy những sản phẩm liên quan đến rất phong phú. Nhật bản đã thành công trong việc đa dạng giá những sản phẩm liên quan tới chè tức là đã thành công trong việc tạo ra giá trị gia tăng cho chè từ đó nâng cao giá trị cây chè. Đây là một hướng đi mà chè Việt Nam phải xem xét trong chiến lược phát triển của ngành trong thời gian sắp tới. Đa dạng hoá sản phẩm ngoài việc thông qua các sản phẩm hữu hình còn phải thông qua sản phẩm vô hình để tạo giá trị gia tăng cho cây chè. Đó chính là dịch vụ sau chè thông qua các quán chè để tạo dựng chỗ đứng trong lòng người tiêu dùng. Vậy mà ở thị trường các nước nhập khẩu hay thậm chí ở ngay trong thị trường nội địa người ta vẫn thấy vắng bóng các quán trà mang hương vị thuần Việt. Trong khi đó, ngay tại Việt Nam mấy năm gần đây người tiêu dùng của ta lại rất quen thuộc với cách uống trà của Đài Loan (trà uống liền có pha hương vị). Các doanh nghiệp Việt Nam đã không chủ động tạo vị thế cạnh tranh cho sản phẩm của mình.
Bảy là, lợi thế canh tranh: Điểm mạnh trong lợi thế so sánh của chè Việt Nam hiện nay chưa được xác định rõ ràng để tận dụng triệt để lợi thế đó trong quá trình cạnh tranh trên thương trường quốc tế mà chủ yếu cạnh tranh đối đầu qua giá. Ngược lại, tại các nước sản xuất chè khác đều tìm cho mình lợi thế riêng để cạnh tranh, chẳng hạn Kenya có lợi thế về sản xuất chè rời CTC có chất lượng cao, Xrilanka tập trung sản xuất chè Orthodox chất lượng cao và chè thành phẩm có hàm lượng giá trị gia tăng cao, Trung Quốc gần như chiếm độc quyền trên thị trường chè xanh thế giới... Trong khi Việt Nam, một nước có truyền thống về cây chè và nghề làm chè lại không tìm được lợi thế để cạnh tranh. Chúng ta xuất khẩu một lượng lớn nhưng lại không có khả năng buộc người tiêu dùng phải phụ thuộc vào mình, trái lại với Kenya, một nước có khối lượng xuất khẩu chỉ bằng 1/10 của ta, lại có thể chi phối được thị trường chè ở Đông Phi và thế giới.
Tám là, sự liên kết trong nội bộ ngành: Trong nội bộ ngành chè của Việt Nam chưa có sự phối kết hợp chặt chẽ nên Hiệp hội chè Việt Nam chưa phát huy được hết vai trò của mình. Hiệp hội chè chưa có chiến lược quảng bá về hình ảnh chè Việt Nam trong lòng người tiêu dùng nước ngoài, chúng ta mới chỉ dừng lại ở việc xây dựng logo chè Việt Nam, tham gia các Hội chợ và các Hội nghị về chè ở thế giới. Ngược lại với các Hiệp hội chè các nước như Xrilanka, Kenya..., với sự hỗ trợ của Nhà nước, họ tiến hành quảng cáo rất rầm rộ nhằm nâng cao hình ảnh chè của nước mình, dọn đường và tạo điều kiện thuận lợi cho các Công ty tiếp cận và thâm nhập thị trường lớn như Nga, Đông Âu, Mỹ... Đây cũng là một trong những khó khăn lớn của chè Việt Nam khi thâm nhập vào thị trường thế giới.
Chín là, hiệu quả các giải pháp của Nhà nước: Mặc dù các cơ chế, chính sách vừa qua đã bổ sung, cởi mở và rất thông thoáng, gần như không còn vướng mắc đáng kể nhưng so với yêu cầu vẫn còn những bất cập đặc biệt trong lĩnh vực quy hoạch, kế hoạch và tài chính. Các giải pháp đưa ra chủ yếu là các giải pháp ngắn hạn, mang tính chất xử lý tình thế. Thông thường khi phải đối mặt với tình trạng thị trường khó khăn hoặc chất lượng sản phẩm xuống cấp thì xuất hiện hàng loạt các giải pháp với mục tiêu chủ yếu làm giảm bớt sự căng thẳng của thị trường, nâng cao chất lượng sản phẩm. Các giải pháp có tính chất dài hạn như cải tạo giống, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển cơ sở hạ tầng... được thực hiện với tốc độ chậm. Ngoài ra, các giải pháp lại tập trung chủ yếu nhằm vào hỗ trợ đầu ra, trong khi đầu vào của sản phẩm còn rất nhiều vấn đề cần quan tâm (chủng loại, chất lượng, đa dạng hoá sản phẩm, cơ cấu giá thành... tóm lại là tất cả những yếu tố liên quan đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường quốc tế). Do đó các giải pháp phần nào còn mang tính thụ động, không thể hiện được hiệu quả cao, gây ảnh hưởng tới nền kinh tế.
Từ những bất cập trên chúng ta có thể đưa ra kết luận ngành chè cả nước đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn. Những bất cập đó có những tác động tiêu cực tới năng lực cạnh tranh của chè Việt Nam trên thị trường quốc tế, các nước chỉ xem Việt Nam là một nước sản xuất ngoại biên, khi mà Việt Nam đứng thứ 7 thế giới về xuất khẩu. Đây thực sự là một khủng hoảng của ngành công nghiệp chè bất cứ nước nào trên thế giới trong thời đại ngày nay. Việt Nam sẽ phải có những giải pháp để giải quyết triệt để những bất cập trên một cách không chậm trễ khi mà Việt Nam chuẩn bị gia nhập WTO trong thời gian tới đây.
CHƯƠNG III: NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO
NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CHẩ VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
Căn cứ vào phạm vi tác động của các giải pháp đến mặt hàng chè, có thể phân chia giải pháp thành hai loại: giải pháp hỗ trợ đầu vào và giải pháp hỗ trợ đầu ra. Mỗi loại giải pháp đều có tác dụng trực tiếp đến khả năng cạnh tranh của chè. Hiện nay có nhiều quan điểm cho rằng nên tập trung mạnh vào hỗ trợ đầu vào thường có tác dụng dài hơn, tăng cường khả năng cạnh tranh lâu bền hơn cho sản phẩm, trong khi những biện pháp hỗ trợ đầu ra lại chủ yếu là những giải pháp về mặt thị trường tiêu thụ các sản phẩm đã sẵn có. Do vậy, mỗi giải pháp đều có tầm quan trọng riêng. Nhưng trong những năm qua các giải pháp đầu vào dường như ít được quan tâm nên việc xử lý đầu ra thường bị động. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, xin nhấn mạnh sự cần thiết tăng cường đầu tư cho các giải pháp đầu vào, kết hợp đồng thời với việc tiếp tục thực hiện các giải pháp đầu ra để có những giải pháp có sự giải quyết đồng bộ từ gốc đến ngọn đối với mặt hàng chè của Việt Nam.
1. Nâng cao chất lượng của chè Việt Nam trên thị trường quốc tế
Trong tình hình cung - cầu trên thị trường thế giới ngày nay, sự "được, mất" thị trường tiêu thụ hoàn toàn phụ thuộc vào sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu. Thực tế phát triển nền kinh tế thị trường ngày càng củng cố và làm sâu sắc vấn đề có tính quy luật này. Nhiều nước trên thế giới ngày nay cũng đã và đang tích cực hướng sự đầu tư của Chính phủ vào việc tăng cường sức cạnh tranh cho sản phẩm. Với nước ta đương nhiên giải pháp này cũng đặt ra yêu cầu khác. Trong bối cảnh giá chè xuất khẩu của Việt Nam luôn luôn thấp hơn giá xuất khẩu bình quân của thế giới mà nguyên nhân chủ yếu là do chất lượng chè không cao (đa phần phẩm cấp chè ở mức cuối A, B hay thuậm chí là C và D) thì biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm là một tất yếu. Tuy vậy muốn nâng cao chất lượng chè xuất khẩu của Việt Nam, phải có những giải pháp đồng bộ kèm theo.
* Quy hoạch vùng nguyên liệu sản xuất, chế biến chè
Nếu chỉ hiểu quy hoạch vùng nguyên liệu sản xuất dưới góc độ vùng sản xuất chè tập trung thì có lẽ Việt Nam đã làm được điều này. Mà ở đây chúng ta còn phải quan tâm đến vấn đề quy hoạch giống chè. Một thực tế, các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay vẫn sản xuất, chế biến chè trên cơ sở vùng nguyên liệu của nông trường cũ những năm 50, 60 và trong một khoảng thời gian dài cây chè bị khai thác kiệt sức, làm cho chè bị xuống cấp nghiêm trọng. Song song với việc gia tăng diện tích các chè mới thì việc cải tạo giống chè cũ phải được thực hiện không chậm trễ. Tuy nhiên, chính sách cải tạo giống trên một diện tích lớn là một chính sách dài hạn, đòi hỏi phải có sự hỗ trợ rất tích cực từ phí Bộ Nông nghiệp. Giải quyết biện pháp này phải bắt đầu từ sự phân bổ đầu tư có lộ trình cho giống cây trồng ở cả các doanh nghiệp, địa phương và Trung ương.
Một điểm quan trọng nữa cần được quan tâm khi quy hoạch vùng chè đó là chúng ta phải tạo dựng được mối liên kết giữa người trồng chè và cơ sở chế biến, có như vậy mới tránh được tình trạng "tranh mua", đẩy giá nguyên liệu phục vụ sản xuất lên cao. Với việc xây dựng Hội sản xuất, doanh nghiệp sẽ có điều kiện liên hệ chặt chẽ với người trồng chè hay thậm chí với cả những doanh nghiệp cùng ngành. Do đó, các doanh nghiệp sẽ thuận lợi hơn trong việc thu mua nguyên liệu, hay có những phản ứng kịp thời trước những biến động về nguyên liệu.
* Đa dạng hoá sản phẩm phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của thị trường nhập khẩu
Thực trạng cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chè của Việt Nam buộc chúng ta phải tập trung nghiên cứu đa dạng chủng loại, chế phẩm chè. Việt Nam không chỉ xuất khẩu chè bán thành phẩm mà tiến tới phải chủ yếu xuất khẩu chè thành phẩm, không chỉ xuất khẩu những loại chè đen mảnh CTC, chè xanh... mà chúng ta còn phải xuất khẩu chè ướp hoa, chè hoà tan, chè chữa bệnh và bồi bổ cơ thể. Có như vậy chúng ta mới tạo ra giá trị gia tăng cho cây chè, nâng cao giá trị xuất khẩu đồng thời bắt kịp được xu thế tiêu dùng các loại chè này ở trên thế giới. Tuy nhiên trong quá trình phát triển các loại chè mới, doanh nghiệp đặc biệt chú trọng tới lợi thế cạnh tranh của bản thân mình (thị trường, bạn hàng nhập khẩu, bí quyết kỹ thuật chế biến...) để lựa chọn hướng đi thích hợp.
Bên cạnh đó việc đa dạng các loại mẫu mã bao bì cho sản phẩm cũng được chú trọng, quan tâm. Các doanh nghiệp ngoài việc sử dụng phương pháp đóng gói chè theo túi, phải phát triển các hình thức bao bì mới như chè đóng hộp, chè túi lọc... tạo sự thuận lợi cho người tiêu dùng, thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm.
* Công bố rộng rãi tiêu chuẩn ngành, nhà máy và giới hạn chất hoá học
Đây là một biện pháp có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao chất lượng chè, để chè Việt Nam đồng đều về phẩm cấp, không lẫn loại. Hiệp hội chè Việt Nam VITAS giữ vai trò quyết định, là cơ quan đứng ra nghiên cứu, ban hành những tiêu chuẩn ngành như tiêu chuẩn phân loại chè búp, vận chuyển, bảo quản, héo chè, lên men... Để từ đó các doanh nghiệp, cơ sở chế biến, người trồng chè có những định hướng rõ ràng, nhất định trong khâu thu hái, chế biến chè. Hơn nữa việc công bố tiêu chuẩn ngành còn giúp các doanh nghiệp xây dựng hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm, khi mà trong điều kiện nay rất ít doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001-2000 đặc biệt là hệ thống quản lý chất lượng HACCP.
Trong quá trình công bố các tiêu chuẩn ngành, hiệp hội chè Việt Nam nên chú trọng vào tiêu chuẩn giới hạn chất hoá học, vệ sinh an toàn thực phẩm.ở đây đó chính là các yếu tố như phân bón, thuốc bảo vệ thực vật. Chỉ khi nào chè của Việt Nam tuân thủ các nguyên tắc về chế độ chăm sóc, giảm thiểu tối đa dư lượng thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật thì chè của ta mới vượt qua được các rào cản kỹ thuật của những nước phát triển (Anh, Hà Lan, Mỹ...) thâm nhập vào các thị trường này.
* Tiến hành điều tra, cấp phép cho những cơ sở chế biến chè đạt tiêu chuẩn
Với hơn 600 cơ sở chế biến chè lớn nhỏ ồ ạt mọc lên khắp cả nước, gây nên tình trạng mất cân bằng giữa vùng nguyên liệu và cơ sở chế biến thì giải pháp là rất cần thiết. Trong đó Nhà nước giữ vai trò quyết định tiến hành điều tra nguyờn liệu, cơ sở chế biến trên phạm vi cả nước. Đối với những doanh nghiệp chè đăng ký kinh doanh, chế biến chè thì phải có giấy chứng nhận về nhà xưởng đủ tiểu chuẩn, nguyên liệu ổn định, đây là điều kiện tiên quyết để cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép kinh doanh. Đối với những doanh nghiệp đã đăng ký kinh doanh, có vùng nguyên liệu nhưng nhà xưởng, máy móc chưa đủ tiêu chuẩn thì phải tập trung nâng cấp chậm nhất 6 tháng kể từ khi có xác nhận của Nhà nước. Tuy nhiên để thực hiện giải pháp này một cách có hiệu quả, Nhà nước cần thành lập tổ chức giám định với nòng cốt là Hiệp hội chè Việt Nam VITAS để đứng ra chịu trách nhiệm đối với những chứng nhận về nhà xưởng, nguyên liệu.
* Gắn biểu tượng thương hiệu quốc gia chè cho những sản phẩm đạt chất lượng
Xây dựng logo chè Việt Nam là một bước đi đúng đắn của ngành chè cả nước để nâng cao hình ảnh của sản phẩm ở thị trường trong và ngoài nước. Tuy nhiên cùng với việc quảng bá sản phẩm thông qua thương hiệu thì phải coi thương hiệu, logo chè là một giải pháp kiểm soát chất lượng trước khi đưa sản phẩm ra thị trường tiêu thụ. Phải tạo cho người tiêu dùng cả trong lẫn ngoài nước có khái niệm "logo chè Việt Nam - chất lượng cao". Do đó ngoài việc Hiệp hội chè có những văn bản hướng dẫn về quyền được sử dụng logo này thì bản thân các doanh nghiệp cũng phải tự mình nhận thức việc gắn logo chè Việt Nam cho sản phẩm mình làm ra là quyền lợi và nghĩa vụ của doanh nghiệp. Quyền lợi đó là chè sẽ được nâng cao uy tín chất lượng trên thị trường, còn nghĩa vụ đó là doanh nghiệp phải có những biện pháp đảm bảo chất lượng chè đã được gắn logo để tránh làm giảm uy tín chung của chè Việt Nam trên thị trường thế giới.
* Tạo điều kiện nâng cao đời sống của người trồng chè
Đây là một biện pháp vừa có ý nghĩa xã hội, vừa có ý nghĩa kinh tế. Một mặt giúp người nông dân cải thiện cuộc sống khó khăn của mình vì đa phần những người dân trồng chè đều sống ở vùng miền núi, Trung du, tạo sự cân bằng về thu nhập trong xã hội. Mặt khác thông qua hình thức cho vay tín chấp, hay xây dựng các xí nghiệp công ích hỗ trợ người nông dân về phân bón, giống,... để đầu tư vào trồng trọt, canh tác. Do đó, việc thực hiện các chính sách trên nông trường diễn ra thuận lợi hơn, khi mà nâng cao chất lượng sản phẩm chè được bắt đầu từ nông trường. Hơn thế nữa còn tạo lòng tin của người trồng chè vào doanh nghiệp, tạo mối liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp - người trồng chè, tránh được tình trạng bất ổn định về nguyên liệu sản xuất.
Với những giải pháp trên, Nhà nước và doanh nghiệp có điều kiện để giải quyết vấn đề "đầu ra đi từ gốc" sẽ vững chắc hơn. Nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra sức cạnh tranh ngày càng mạnh trên thị trường thế giới là một trong những yếu tố kinh doanh quan trọng bậc nhất, không chỉ đáp ứng yêu cầu kinh doanh trước mắt của thực tại chè Việt Nam mà còn phục vụ cho cả chiến lược kinh doanh lâu dài.
2. Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại
Không giống nhóm biện pháp trên, nhóm biện pháp hỗ trợ đầu vào nâng cao chất lượng chè xuất khẩu thì ở nhóm biện pháp này lại hỗ trợ đầu ra cho sản phẩm chè, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm. Đây là khâu quyết định tới việc chè Việt Nam có thâm nhập và đứng vững trên thị trường các nước nhập khẩu nhưng hiện nay đây lại là khâu yếu của Việt Nam (cả phía Hiệp hội chè và doanh nghiệp). Do đó chúng ta phải có hàng loạt giải pháp để đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại.
* Củng cố và tiếp tục phát triển các thị trường nhập khẩu truyền thống, tìm cách thâm nhập thị trường mới.
Để giữ được thị trường truyền thống và vào được thị trường mới, đây quả là điều không dễ dàng gì đối với bất cứ ngành sản xuất nào. Do vậy phải có nhiều biện pháp đề ra để hỗ trợ cho giải pháp này.
Thứ nhất, nắm vững xu thế phát triển về quy mô và chuyển dịch cơ cấu tiêu thụ chè trên thị trường ngoài nước, trước hết là những thị trường trọng điểm để xác định và tổ chức nguồn hàng. Giải pháp này xuất phát từ lý luận "cầu" quyết định "cun
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35768.doc