LỜI MỞ ĐẦU 1
Phần I: NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÁC LOẠI HÌNH KIỂM TOÁN 3
1.1. Sự hình thành và phát triển của kiểm toán 3
1.2. Khái niệm kiểm toán 5
1.3. Khái quát các cách phân loại kiểm toán. 7
1.4. Phân loại kiểm toán theo hệ thống bộ máy tổ chức 8
1.4.1. Kiểm toán Nhà nước 8
1.4.1.1. Khái niệm 8
1.4.1.2. Đặc trưng của kiểm toán Nhà nước 9
1.4.1.3. Mô hình của kiểm toán Nhà nước 10
1.4.2. Kiểm toán độc lập 14
1.4.2.1. Khái niệm 14
1.4.2.2. Những đặc trưng của kiểm toán độc lập. 14
1.4.2.3. Mô hình của kiểm toán độc lập 16
1.4.3. Kiểm toán nội bộ 18
1.4.3.1. Khái niệm 18
1.4.3.2 Đặc trưng của kiểm toán nội bộ 18
1.4.3.3. Tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ 20
Phần hai: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA BA LOẠI HÌNH KIỂM TOÁN TRÊN TẠI VIỆT NAM 23
2.1. Thực trạng của hoạt động kiểm toán Nhà nước. 23
2.2. Thực trạng hoạt động kiểm toán độc lập 24
2.3. Thực trạng hoạt động kiểm toán nội bộ 24
Phần ba: SO SÁNH VỚI KIỂM TOÁN CỦA MỘT SỐ NƯỚC KHÁC VÀ CÁC BIỆN PHÁP HOÀN THIỆN CÁC BỘ MÁY KIỂM TOÁN VIỆT NAM 24
3.1. So sánh với kiểm toán của một số nước khác 24
3.1.1. Kiểm toán Nhà nước. 24
3.1.2. Kiểm toán độc lập 24
3.1.3. Kiểm toán nội bộ 24
3.2. Các biện pháp hoàn thiện các bộ máy kiểm toán Việt Nam 24
3.2.1. Bộ máy kiểm toán nhà nước 24
3.2.2. Bộ máy kiểm toán độc lập 24
3.2.3. Bộ máy kiểm toán nội bộ 24
KẾT LUẬN 24
42 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2565 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Nghiên cứu về các loại hình kinh tế được phân loại theo bộ máy tổ chức Kiểm toán Nhà nước, Kiểm toán độc lập, Kiểm toán nội bộ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ố nước như Mỹ, Nga, Anh… Với mô hình này, kiểm toán nhà nước trợ giúp đắc lực cho Nhà nước không chỉ ở kiểm tra thực hiện pháp luật mà cả trong việc soạn thảo và xây dựng các sắc luật cụ thể.
Xét về liên hệ nội bộ, cơ quan kiểm toán nhà nước lại có thể liên hệ theo chiều dọc (liên hệ dọc) và theo chiều ngang (liên hệ ngang).
Liên hệ dọc của tổ chức kiểm toán nhà nước có thể khái quát trong hai mô hình chủ yếu:
Mô hình I: Cơ quan kiểm toán nhà nước trung ương có mạng lưới ở tất cả các địa phương. Mô hình này thích hợp với các nước có quy mô lớn, các địa phương phân bố rộng và phân tán, khối lượng tài sản công ở mỗi địa phương lớn và quan hệ phức tạp. Đồng thời mỗi địa phương cũng có khối lượng công sản, tài sản tương đối đồng đều… Tình hình đó đòi hỏi phải có tổ chức kiểm toán nhà nước ngay tại địa phương.
Mô hình II: Cơ quan kiểm toán nhà nước trung ương có mạng lưới kiểm toán ở từng khu vực. Những khu vực này trước hết có khối lượng công sản đủ lớn và thường ở xa trung tâm nên đòi hỏi có tổ chức kiểm toán nhà nước tại thực địa để thực hiện chức năng của kiểm toán nhà nước. Mô hình này thích ứng với những nước có quy mô nhỏ song địa bàn tương đối phân tán. Ở một số nước nhỏ và tương đối tập trung có thể không có liên hệ dọc; cũng có trường hợp liên hệ dọc này thực hiện ngay trong liên hệ ngang bằng cách bố trí kiểm toán một vài khu vực nào đó thành một bộ phận trong bộ phận chuyên môn.
Liên hệ ngang là mối liên hệ nội bộ trong cơ quan kiểm toán cùng cấp (trung ương hay khu vực hoặc địa phương). Liên hệ này có thể trực tuyến hoặc chức năng.
Trong liên hệ trực tuyến tổng kiểm toán trưởng (hoặc phó tổng kiểm toán được uỷ nhiệm) trực tiếp chỉ huy các hoạt động của kiểm toán nhà nước. Liên hệ trực tuyến có ưu điểm bảo đảm lệnh của Tổng kiểm toán trưởng được chuyển trực tiếp đến các kiểm toán viên, bảo đảm điều hành nhanh nhạy và thông tin ngược xuôi kịp thời. Tuy nhiên, mô hình này chỉ thích hợp trong điều kiện quy mô kiểm toán và số lượng nhân viên kiểm toán không quá lớn.
Trong liên hệ chức năng quyền điều hành công việc được phân thành nhiều khối, mỗi khối lại chia thành nhiều cấp khác nhau. Mô hình này thích hợp với bộ máy kiểm toán có quy mô lớn.
Ngoài mối liên hệ trong bộ máy, liên hệ giữa việc thực hiện các chức năng kiểm toán với bộ máy kiểm toán cũng hình thành những mô hình tổ chức kiểm toán nhà nước khác nhau. Trong việc thực hiện chức năng xác minh, thông thường kiểm toán nhà nước chỉ thực hiện xác minh bảng khai tài chính và nghiệp vụ của các đơn vị thuộc khu vực công cộng. Công việc xác minh các vụ việc cụ thể do khiếu tố hoặc phát giác bất thường, thông thường do các tổ chức thanh tra đảm nhận. Tuy nhiên, ở một số nước cả những công việc thanh tra này cũng được thống nhất trong tổ chức kiểm toán nhà nước. Trong việc bày tỏ ý kiến, thông lệ phổ biến là các cơ quan kiểm toán nhà nước chỉ thực hiện chức năng tư vấn kể cả kiến nghị giải quyết thực trạng tài chính, pháp lý, thậm chí cả khởi thảo và tham gia xây dựng luật pháp.
Như vậy, cơ quan kiểm toán nhà nước chứa đựng rất nhiều mối liên hệ về tổ chức phụ thuộc và đặc điểm của đối tượng, của phạm vi, của khác thể kiểm toán, tuỳ thuộc vào đặc điểm tổ chức bộ máy nhà nước và hàng loạt quan hệ khác bên trong và bên ngoài hệ thống kiểm toán.
1.4.2. Kiểm toán độc lập
1.4.2.1. Khái niệm
Kiểm toán độc lập là một hoạt động đặc trung của kinh tế thị trường. Đây là các tổ chức kinh doanh dịch vụ kiểm toán và tư vấn theo yêu cầu của khách hang. Ở các nước sớm phát triển theo cơ chế thị trường, kiểm toán độc lập đã hành nghề trước khi có những chuẩn mực chung (về kiểm toán viên) và chuẩn mực chuyên ngành (về công tác kiểm toán). Cho đến nay trên thế giới đã có hàng trăm ngàn tổ chức kiểm toán độc lập hoạt động trong lĩnh vực kiểm toán và tư vấn tài chính.
1.4.2.2. Những đặc trưng của kiểm toán độc lập.
- Chủ thể kiểm toán: Người thực hiện kiểm toán độc lập là các kiểm toán viên độc lập. Kiểm toán viên độc lập thường có hai chức danh:
Kiểm toán viên: Thường đã tốt nghiệp đại học và sau bốn năm làm thư ký (hoặc trợ lý) kiểm toán và tốt nghiệp thi tuyển kiểm toán viên (quốc gia hoặc quốc tế) để lấy bằng (chứng chỉ) kiểm toán viên. Trên thực tế, phải có khả năng độc lập thực hiện công việc kiểm toán cụ thể.
Kiểm toán viên chính: là người đã từng qua kiểm toán viên và qua kỳ thi nâng bậc. Về chuyên môn họ phải có khả năng tổ chức một nhóm kiểm toán viên tiến hành những công việc kiểm toán có quy mô lớn.
Những kiểm toán viên độc lập được hành nghề trong một tổ chức hoặc với văn phòng tư tuỳ thuộc điều kiện cụ thể do pháp luật quy định.
- Hiệp hội kiểm toán viên độc lập: Hiệp hội kiểm toán viên độc lập tập hợp các kiểm toán viên độc lập nhằm tăng cường quan hệ hợp tác, hướng dẫn và bồi dưỡng nghiệp vụ kể cả về nhận thức cũng như kinh nghiệm thực tế của họ. Đây là hình thức phát triển không chỉ trong phạm vi quốc gia mà cả quốc tế.
- Khách thể kiểm toán:
Khách thể của kiểm toán độc lập thường bao gồm:
Các doanh nghiệp và xí nghiệp tư (kể cả cá công ty trách nhiệm hữu hạn).
Các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài.
Các liên doanh giữa cá tổ chức trong và ngoài nước.
Các hợp tác xã và doanh nghiệp cổ phần.
Các chương trình, dự án nguồn kinh phí từ bên ngoài Ngân sách nhà nước…
- Lĩnh vực kiểm toán: Kiểm toán độc lập chủ yếu tiến hành cá cuộc kiểm toán tài chính. Ngoài ra, tuỳ theo yêu cầu của khách hang, kiểm toán độc lập có thể tiến hành các cuộc kiểm toán nghiệp vụ, tiến hành các dịch vụ tư vấn…
1.4.2.3. Mô hình của kiểm toán độc lập
Mô hình kiểm toán độc lập là tổ chức của các kiểm toán viên chuyên nghiệp kinh doanh dịch vụ kiểm toán và các dịch vụ khác có liên quan. Là tổ chức kinh doanh, một đơn vị kiểm toán độc lập phải thực hiện các nghĩa vụ và có quyền lợi như các tổ chức kinh doanh khác. Hơn nữa, kinh doanh dịch vụ kiểm toán là kinh doanh một nghề chuyên sâu nên phải có kiểm toán viên đủ điều kiện hành nghề. Do đó chỉ có những người có chững chỉ kiểm toán viên và đủ điều kiện hành nghề khác nhau mới được phép tổ chức các đơn vị kinh doanh dịch vụ này. Thông thường với dịch vụ kiểm toán, bộ máy này có thể thực hiện các dịch vụ khác có liên quan như kế toán, thuế, tư vấn, tài chính, tin học… Để thực hiện các loại dịch vụ này, các tổ chức kiểm toán độc lập có quan hệ với khách hang tự nguyện hoặc bắt buộc theo quy định của pháp luật.
Bộ máy kiểm toán độc lập có hai mô hình cơ bản là văn phòng kiểm toán tư và công ty kiểm toán.
Văn phòng kiểm toán tư được hình thành bởi một hoặc vài kiểm toán viên độc lập để kinh doanh dịch vụ kiểm toán và các dịch vụ khác liên quan. Đồng thời, người lập văn phòng phải có bằng (chứng chỉ) kiểm toán viên độc lập và có đủ điều kiện hành nghề khác. Các văn phòng tư (kể cả các công ty kiểm toán có quy mô nhỏ) được tổ chức theo phương thức trực tuyến và loại hình tập trung.
Ưu điểm của loại hình này là phát huy tính năng động cao của bộ máy kiểm toán, rất thích ứng với nhu cầu kiểm toán và tư vấn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như nhu cầu đại lý thuế (thu nhập) cho nhà nước.
Tuy nhiên, ở mô hình này, các văn phòng chỉ thực hiện giới hạn các dịch vụ và sức cạnh tranh của mỗi tổ chức kiểm toán cũng hạn chế. Bên cạnh đó, sự hợp tác, tự bồi dưỡng kinh nghiệm nghiệp vụ giữa các kiểm toán viên cũng hạn chế. Do đó, khi thành lập văn phòng, kiểm toán viên độc lập phải có năng lực khá toàn diện và có trình độ chuyên môn vững. Đến khi số lượng các văn phòng và công ty nhỏ nhiều đòi hỏi phải tăng cường hoạt động của HIệp hội kiểm toán viên độc lập.
Công ty kiểm toán (quy mô lớn) là bộ máy tổ chức kiểm toán độc lập với số lượng lớn các kiểm toán viên độc lập (hàng chục ngàn kiểm toán viên trong một công ty). Đây là những công ty quốc gia hoặc quốc tế.
Các công ty kiểm toán này thực hiện nhiều loại dịch vụ trên địa bàn rộng lớn (có thể hang trăm dịch vụ cụ thể). Do đó chúng được tổ chức theo loại hình phân tán và điều hành theo phương thức chức năng hoặc kết hợp. Cụ thể mỗi công ty thường có nhiều văn phòng bố trí ở nhiều vùng trong nước (công ty quốc gia) hoặc nhiều văn phòng ở nhiều nước khác nhau (công ty quốc tế). Trong các công ty này, từng văn phòng cụ thể hoặc văn phòng khu vực có thể có quyền tự chủ như một công ty con và có thể được hạch toán độc lập. Mỗi văn phòng riêng hoặc văn phòng khu vực cũng kinh doanh nhiều loại dịch vụ và có thể được tổ chức thành các bộ phận chức năng riêng biệt.
Do quy mô lớn phân tán và cơ cấu tổ chức phức tạp nên các công ty lớn đòi hỏi trình độ tổ chức phối hợp cao của các nhà quản lý, đòi hỏi khả năng chuyên môn cao và toàn diện của kiểm toán viên và lãnh đạo công ty, đòi hỏi đầu tư lớn cả về chuyên gia, kinh nghiệm và tiền vốn… Tuy nhiên cũng do vậy mà mỗi công ty khi đã hình thành và tồn tại, luôn luôn có tiềm năng lớn, đang hoàn tất nhiều loại dịch vụ có quy mô lớn trong khoảng thời gian ngắn và có sức cạnh tranh lớn trên thị trường.
1.4.3. Kiểm toán nội bộ
1.4.3.1. Khái niệm
Kiểm toán nội bộ hình thành và phát triển xuât phát từ những lý do khách quan của nhu cầu quản lý, của bản thân các đơn vị và tổ chức kinh tế. Do vậy kiểm toán nội bộ là bộ máy thực hiện chức năng kiểm toán nội bộ trong phạm vi đơn vị, phục vụ nhu cầu quản lý nội bộ đơn vị. (Giáo trình lý thuyết kiểm toán)
1.4.3.2 Đặc trưng của kiểm toán nội bộ
- Chủ thể kiểm toán:
Kiểm toán nội bộ được thực hiện bởi các kiểm toán viên nội bộ. Họ thường là những người làm nghề kiểm toán không chuyên nghiệp, có thể là những kế toán viên giỏi, những nhà quản lý có kinh nghiệm, những kỷ thuật viên có hiểu biết về những lĩnh vực có liên quan đến kiểm toán đặc biệt là các loại hình công nghệ, các quy trình kỹ thuật, các định mức… Tuy nhiên những người này cũng cần có trình độ nghiệp vụ tương xứng, có thể được đào tạo qua trường. Hơn nữa, trong nhiều trường hợp, kiểm toán viên nội bộ cũng có thể là kiểm toán viên chuyên nghiệp như những giám định viên trong hệ thống kiểm toán ở Tây Âu, các kiểm toán viên chuyên nghiệp trong các doanh nghiệp nhà nước và các đơn vị công cộng (có quy mô lớn) hoặc các chuyên gia được các hội đồng quản trị sử dụng trong uỷ ban kiểm toán.
- Hiệp hội kiểm toán viên nội bộ:
Ở một số nước hoặc từng khu vực, các kiểm toán viên nội bộ tự nguyện tập hợp vào các hiệp hội kiểm toán viên nội bộ nhằm trao đổi kinh nghiệm và bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm toán nội bộ. Hiệp hội này lần đầu tiên được lập ra ở Pháp từ năm 1965 và sau đó trở thành Viện nghiên cứu của kiểm toán viên và kiểm toán viên nội bộ của Pháp (IFAC) vào năm 1973. Tuy nhiên, trong điều kiện kiểm toán nội bộ phát triển sang các lĩnh vực mới: kiểm toan quy tắc, hiệu năng, hiệu quả,… và đội ngũ kiểm toán viên nội bộ cũng phát triển đến cả những nhà quản lý, các nhà kỹ thuật… thì yêu cầu bồi dưỡng này cần được tăng cường và làm phong phú, đa dạng cho phù hợp với yêu cầu và điều kiện cụ thể.
- Khách thể kiểm toán:
Khách thể của kiểm toán nội bộ có thể bao gồm:
Các bộ phận cấu thành trong đơn vị
Các hoạt động, các chương trình, dự án cụ thể trong đơn vị
Các cá nhân trong đơn vị.
- Lĩnh vực kiểm toán:
Lĩnh vực kiểm toán chủ yếu của kiểm toán nội bộ là kiểm toán hoạt động của các bộ phận trong doanh nghiệp. Các hoạt động mà kiểm toán nội bộ tiến hành bao gồm:
Rà soát lại hệ thống kế toán và các quy chế kiểm toán nội bộ có liên quan, giám sát sự hoạt động của các hệ thống cũng như tham gia hoàn thiện chúng
Kiểm tra các thông tin tác nghiệp, thông tin tài chính bao gồm việc rà soát lại các phương tiện đã sử dụng để xác định, tính toán, phân loại và báo cáo những thông tin này, kiểm tra chi tiết các nghiệp vụ, cá số dư và các bước công việc.
Kiểm tra tính hiệu quả, sự tiết kiệm và hiệu suất của các hoạt động kể cả các quy định không có tính chất tài chính của doanh nghiệp.
Ngoài ra, kiểm toán nội bộ cũng tiến hành các nội dung kiểm toán tuân thủ để xem xét việc chấp hành các chính sách, quy định của doanh nghiệp.
Kiểm toán nội bộ có mục đích là thông qua kiểm toán để cải tiến và hoàn thiện các hoạt động ở các đơn vị, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động, hiệu quả sử dụng vốn và hiệu quả cuối cùng của hoạt động kinh doanh và hoạt động sản xuất, khắc phục những khâu yếu, giúp thủ trưởng đơn vị phát hiện, ngăn chặn và xử lý các gian lận và sai sót trong hoạt động quản lý của đơn vị.
Tuy kiểm toán nội bộ được tổ chức độc lập với những bộ phận được kiểm tra, nhưng kiểm toán nội bộ là một bộ phận của đơn vị, không thể độc lập hoàn toàn với đơn vị đó được. Vì vậy, các báo cáo của kiểm toán nội bộ dù được chủ doanh nghiệp tin tưởng song không có giá trị pháp lý ở bên ngoài
1.4.3.3. Tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ
Bộ máy kiểm toán nội bộ là hệ thống tổ chức của các kiểm toán viên do đơn vị tự lập ra theo yêu cầu quản trị nội bộ và thực hiện nề nếp, kỷ cương quản lý.
Để tổ chức và quản lý hoạt động kiểm toán nội bộ trong bộ máy lãnh đạo cao nhất của đơn vị phải cử ra những người phụ trách công việc này. Theo yêu cầu đó, thông thường một uỷ ban kiểm toán được lập ra do một tập thể thường bao gồm 3 thành viên hội đồng quản trị phụ trách. Trong trường hợp cần thiết, hội đồng quản trị có thể quyết định thuê các chuyên gia kiểm toán tham gia hoặc tư vấn cho uỷ ban.
Uỷ ban kiểm toán, vừa có trách nhiệm trong tổ chức hoạt động kiểm toán nội bộ (nội kiểm), vừa có trách nhiệm tạo lập mối quan hệ với chủ thể kiểm toán tài chính từ bên ngoài (ngoại kiểm). Trong trường hợp không có hội đồng quản trị, chủ đầu tư hoặc người được uỷ quyền phụ trách sẽ chỉ đạo công tác kiểm toán. Người thực hiện kiểm toán nội bộ là những kiểm toán viên trong đơn vị hoặc chuyên gia (giám định viên kế toán) từ bên ngoài. Từ đó có thể có hai mô hình cơ bản là hội đồng hay bộ phận kiểm toán nội bộ và giám định viên kế toán (hoặc giám sát viên nhà nước).
Hội đồng hay bộ phận kiểm toán nội bộ là mô hình phổ biến đặc biệt ở các nước Bắc Mỹ. Thành viên của bộ phận này là các kiểm toán viên nội bộ. Số lượng và cơ cấu các thành viên tuỳ thuộc vào quy mô của đơn vị, vào nhiệm vụ kiểm toán nội bộ cụ thể trong từng thời kỳ. Hội đồng có nhiệm vụ thực hiện tất cả các công việc do uỷ ban kiểm toán giao cho kể cả việc xây dựng hoặc hoàn thiện quy chế kiểm toán nội bộ (nếu có), tổ chức thực hiện đều đặn và có hiệu lực quy chế đã ban hành và cả công việc đột xuất khác.
Mô hình này có nhiều ưu điểm và rất thích hộp với các doanh nghiệp có quy mô lớn. Tuy nhiên, điều kiện tiên quyết để phát huy ưu việt này là chất lượng đội ngũ kiểm toán viên nội bộ.
Giám định viên kế toán (hoặc giám sát viên nhà nước) là mô hình ứng dụng phổ biến ở các xí nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp có quy mô nhỏ. Trong trường hợp này, người thực hiện kiểm toán có thể là kiểm toán viên chuyên nghiệp.
Mô hình này rất thích hợp với các xí nghiệp công, các doanh nghiệp có quy mô nhỏ không cần biên chế kiểm toán viên nội bộ. Nó phát huy được thế mạnh nghề nghiệp của các chuyên gia giỏi. Tuy nhiên trong trường hợp này chi phí kiểm toán thường cao do phải thuê nhân viên. Mặt khác, do công việc kiểm toán nội bộ cũng do số ít chuyên gia có trình độ cao đảm nhiệm nên cân chú trọng đảm bảo tính khách quan trung thực của kiểm toán viên bằng các phương pháp bổ sung như kiểm tra chéo, định kỳ thay đổi nơi làm việc của các kiểm toán viên, tăng cường trách nhiệm của kiểm tra bên ngoài…
Phần hai
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA BA LOẠI HÌNH KIỂM TOÁN TRÊN TẠI VIỆT NAM
2.1. Thực trạng của hoạt động kiểm toán Nhà nước.
Từ ngày 11 tháng 7 năm 1994, kiểm toán Nhà nước được chính thức thành lập theo nghị định 70/CP của chính phủ với chức năng “xác định tính đúng đắn của tài liệu, số liệu kế toán, báo cáo quyết toán của các cơ quan nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, các đơn vị kinh tế nhà nước và các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội sử dụng ngân sách nhà nước cấp” (trích điều 1 của nghị định 70/CP). Do vậy kiểm toán nhà nước có những đặc trưng như sau:
Về cơ cấu tổ chức: Kiểm toán nhà nước là cơ quan chuyên môn về kiểm tra tài chính nhà nước do quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Kiểm toán nhà nước được tổ chức và quản lý tập trung thống nhất, gồm bộ máy điều hành, kiểm toán nhà nước chuyên ngành, kiểm toán nhà nước khu vực và các đơn vị sự nghiệp. Ở thời điểm hiện tại, địa vị pháp lý của kiểm toán nhà nước còn chưa cao do Kiểm toán nhà nước chưa có vị trí trong luật gốc (Hiến pháp) và chưa có luật hay pháp lệnh về kiểm toán nhà nước. Điều này đã gây trở ngại không nhỏ cho tổ chức và hoạt động của cơ quan Kiểm toan hiện nay: một mặt, tổ chức bộ máy của kiểm toán nhà nước không đảm đương được hết chức năng kiểm tra nền tài chính công, mặt khác lại có sự chống chèo, trùng lắp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thanh tra, kiểm tra các đơn vị kinh tế cơ sở. Tuy nhiên, đội ngũ cán bộ, công chức kiểm toán viên nhà nước ở nước ta đều được đào tạo có hệ thống trong đó cán bộ có trình độ tốt nghiệp đại học trở lên chiếm tỷ lệ là 91,6%, đặc biệt đội ngũ kiểm toán viên (KTV) 100% đều tốt nghiệp đại học trở lên. Cán bộ được tuyển dụng đều đảm bảo tiêu chuẩn về nghiệp vụ chuyên môn, phẩm chất đạo đức, nhiệt tình, tâm huyết, có tinh thần trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ. Nhiều cán bộ ngoài việc thực hiện tốt nhiệm vụ còn dành thời gian theo học các lớp chuyên môn nghiệp vụ và các kiến thức bổ trợ khác như ngoại ngữ, vi tính, theo học các khoá đào tạo thạc sĩ, đại học bằng hai.
Về đối tượng kiểm toán: Là tất cả các cơ quan nhà nước, các đơn vị hành chính sự nghiệp, các đơn vị kinh tế nhà nước và các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội sử dụng kinh phí do ngân sách nhà nước cấp. được chia làm hai loại:
Loại 1: Các đối tượng bắt buộc kiểm toán – là các cơ quan nhà nước và các đơn vị có sử dụng 50% vốn nhà nước trở lên.
Loại 2: Các đối tượng kiểm toán được lựa chọn - là các đối tượng có sử dụng một phần ngân sách nhà nước.
Về tiêu chí kiểm toán: Thực hiện theo 4 tiêu chí sau: tính chính xác, tính tuân thủ, tính kinh tế, tính hiệu quả của đối tượng kiểm toán. Cụ thể báo cáo kiểm toán của kiểm toán nhà nước xác nhận về tính đúng đắn, trung thực của báo cáo tài chính, báo cáo quyết toán ngân sách, đánh giá tính tuân thủ pháp luật, tính kinh tế , tính hiệu lực. tính hiêụ quả trong quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước.( khoản 1 điều 9).
Các lĩnh vực kiểm toán: Ngân sách, tài sản nhà nước, khu vực công cộng, thuế, công trình công ích…
Với chức năng của mình kiểm toán Nhà nước đã góp phần nâng cao chất lượng, độ tin cậy của hệ thống tài chính kế toán, chỉ ra các sai phạm yếu kém các sơ hở trong quản lý tài chính giúp Nhà nước, các đơn vị hiểu rõ hơn thực trạng công tác quản lý tài chính, tuân thủ và chấp hành pháp luật, kỷ luật tổ chức, sử dụng và bảo vệ nguồn lực quốc gia, nguồn vốn của nhà nước. Thông tin và kết luận của KTV nhà nước đã cung cấp cho Chính phủ, Quốc hội được dùng làm căn cứ ra các quyết định ở tầm vĩ mô và giám sát các hoạt động tài chính, phân bổ và sử dụng ngân sách nhà nước.
Tuy nhiên, kết quả trên còn ở mức khiêm tốn, chưa đáp ứng yều cầu của chính phủ và quốc hội. Kiểm toán chưa khẳng định một cách thật đầy đủ, khách quan về mức độ tin cậy của số liệu kế toán. Điều này là do chất lượng kiểm toán nhà nước còn có nhiều bất cập vì:
Chưa có sự phân định rõ ràng về trách nhiệm và quyền hạn, sự phân công và cơ chế phối hợp giữa các vụ cơ quan chức năng của KTNN với KTNN chuyên ngành và khu vực trong việc quản lý họat động kiểm toán từ khâu lập kế hoạch kiểm toán đến khâu lập báo cáo kiểm toán, phát hành báo cáo kiểm toán và kiểm tra thực hiện kết luận và kiến nghị kiểm toán, nhất là khâu khảo sát, lập kế hoạch kiểm toán.
Thiếu thông tin cần thiết để kiểm tra, soát xét chất lượng công tác khảo sát lập kế hoạch kiểm toán. Chủ yếu dừng lại ở kiểm tra việc xác định thời gian kiểm toán và lựa chọn đơn vị được kiểm toán, thiếu căn cứ để kiểm tra xem xét về mục tiêu, nôi dung kiểm toán.
Kiểm tra, kiếm soát chất lượng kiểm toán chủ yêú dựa trên dự thảo báo cáo kiểm toán, chưa có đủ nhân lực và thông tin cần thiết để kiểm tra nguồn số liệu, tài liệu làm căn cứ lập báo cáo kiểm toán.
Trình tự,thủ tục tiến hành kiểm toán, soát xét còn rườm rà, trùng lắp, khâu sau chưa có khả năng kiểm tra, loại bỏ sai sót ở khâu trước.
2.2. Thực trạng hoạt động kiểm toán độc lập
Ở nước ta, từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà Nước, các hoạt động đa dạng và nền kinh tế đòi hỏi phải có dịch vụ tốt. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nền kinh tế, ngày 13/05/1991 Bộ Tài Chính thành lập hai công ty kiểm toán đầu tiên là Công ty Kiểm Toán Việt Nam (VACO) và Công ty dịch vụ tư vấn tài chính kinh tế và kiểm toán (AASC) .
Hình thức tổ chức của các công ty Kiểm Toán ở Việt Nam bị chi phối bởi hình thức sở hữu công ty. Cụ thể:
Đối với các công ty kiểm toán là doanh nghiệp nhà nước, tổ chức phụ thuộc vào cơ chế quản lý của nhà nước đối với các doanh nghiệp nhà nước trong đó giám đốc - người đứng đầu công ty do cơ quan thành lập (Bộ Tài chính, UBNDTP) bổ nhiệm. Các cấp quản lý bao gồm trưởng phòng, phó phòng. Trong ban giám đốc có giám đốc và các phó giám đốc. Nếu công ty có chi nhánh hoặc các đại diện ở các địa phương khác sẽ có giám đốc, phó giám đốc chi nhánh, trưởng phòng, phó phòng tại chi nhánh và trưởng đại diện văn phòng đại diện. Cách thức tổ chức tại các công ty này theo chức danh và cơ cấu hành chính. Số lượng các cấp quản lý phụ thuộc vào quy mô, cơ cấu tài chính của công ty. Số lượng các cấp quản lý phụ thuộc vào quy mô, cơ cấu tổ chức của công ty. Trách nhiệm công việc và tổ chức hoạt động theo chức danh quản lý. Ban giám đốc và kế toán trưởng thuộc biên chế của Nhà nước và là đại diện chủ sở hữu của nhà nước tại công ty. Các nhân viên khác kể cả các cấp quản lý đều có hợp đồng lao động với công ty.
Đối với các công ty kiểm toán vốn nước ngoài: Các công ty này đều thuộc các công ty kiểm toán quốc tế, do vậy về cơ cấu tài chính giống như các công ty quốc tế. Tuy nhiên vì là công ty được thành lập theo luật đầu tư nước ngoài ở Việt Nam, thuộc hình thức công ty TNHH nên về tổ chức hành chính ở các công ty này vẫn có chức danh Giám đốc và là đại diện pháp lý của công ty về các vấn đề hành chính của các cơ quan chức năng cũng như trong các hoạt động KT. Mặc dù vậy trong hoạt động điều hành của công ty sẽ theo hệ thống quản lý của công ty mẹ.
Đối với các công ty TNHH trong nước: hình thức sở hữu tư nhân, Giám đốc công ty là chủ sở hữu, người theo pháp luật phải có chứng chỉ Kiểm toán viên và sẽ chịu trách nhiệm trước pháp luật đối với mọi hoạt động của công ty.
Hoạt động của các tổ chức kiểm toán độc lập ởViệt Nam:
Công ty kiểm toán 100% vốn nước ngoài chuyên phục vụ các khách hàng là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các dự án quốc tế. Khách hàng của nó là các khách hàng lớn, có công ty mẹ ở nước ngoài.
Công ty kiểm toán là doanh nghiệp nhà nước có khách hàng đa dạng:
--> doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
--> dự án quốc tế
--> doanh nghiệp nhà nước
--> công ty TNHH
--> công ty tư nhân
--> công ty cổ phần
--> công ty nà nước
Lĩnh vực hoạt động của kiểm toán độc lập chủ yếu là kiểm toán báo cáo tài chính. Ngoài ra, theo yêu cầu cầu của khách hàng, kiểm toán độc lập còn có thể thực hiện các cuộc kiểm toán tuân thủ hoặc tiến hành các dịch vụ tư vấn tài chính khác.
Trải qua 15 năm hoạt động và phát triển, hoạt động kiểm toán độc lập đã đạt được những thành công khá cơ bản và đáng khích lệ.
Một là: Nhận thức về vai trò, vị thế của kiểm toán độc lập ngày càng được khẳng định trong nền kinh tế thị trường tại Việt Nam.
Từ loại hình hoạt động chưa hề có ở Việt Nam, ngày nay kiểm toán độc lập đã được xã hội thừa nhận như một nhu cầu tất yếu, góp phần duy trì và phát triển nghề nghiệp kiểm tóan, kế toán Việt Nam.Hoạt động kiểm toán độc lập đã góp phần tích cực trong việcđánh giá, kiểm tra, xác nhận tình trạng tài chính của doanh nghiệp.
Hai là: Hoạt động kiểm toán độc lập đã góp phần tạo lập môi trường đầu tư thông thoáng, thuận lợi, thúc đẩy đầu tư, đặc biệt đầu tư từ nước ngoài.
Ba là: Đã hình thành đội ngũ KTV hành nghề chất lượng ngày càng nâng cao. Từ năm 1994 đến nay, Bộ Tài chính tổ chức 11 kỳ thi tuyển KTV quốc gia, đã công nhận và cấp chứng chỉ KTV cho 1234 người. Hiện trong số này có hơn 120 người đạt trình độ quốc tế, có chứng chỉ KTV quốc tế, chiếm 10% KTV cả nước.
Bốn là: Kiểm toán phát triển nhanh cả về chất và lượng. Đến nay cả nước có gần 200 công ty dịch vụ kế toán và kiểm toán bao gồm có công ty nhà nước, công ty có 100% vốn nước ngoài (là các công ty kiểm toán lớn của thế giới), công ty hợp danh, công ty cổ phần, và phần lớn là các công ty trách nhiệm hữu hạn.
Năm là: Với tư cách là hoạt động dịch vụ trong lĩnh vực tài chính, kiểm toán độc lập đã góp phần tăng trưởng kinh tế và phát triển thị trường dịch vụ tài chính, tiền tệ mở cửa và hội nhập. Tổng doanh thu của các công ty kiểm toán hoạt động ở Việt Nam hàng năm đã tăng đáng kể, tạo hàng nghìn chỗ làm việc cho các sinh viên mới tốt nghiệp. Thị trường dịch vụ kế toán và kiểm toán đã hình thành, sẵn sàng gia nhập thị trường khu vực và thế giới.
Tuy nhiên bên cạnh những thành tích đã đạt được vẫn còn tồn tại những vấn đề cần giả
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nghiên cứu về các loại hình kinh tế được phân loại theo bộ máy tổ chức Kiểm toán Nhà nước, Kiểm toán độc lập, Kiểm toán nội bộ.DOC