MỤC LỤC
Trang
Phần mở đầu 1
I- Nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa. 3
1. Các khái niệm về nguồn nhân lực. 3
2. Sự cần thiết khách quan của việc xây dựng con người Việt Nam trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp, hóa hiện đại hóa. 4
3. Thực trạng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta hiện nay. 4
3.1. Số lượng lao động 4
3.2. Cơ cấu nguồn lao động có nhiều bất cập. 6
3.3. Nguyên nhân gây ra những bất cập. 12
4. Những giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 17
4.1. Những giải pháp chung: 17
4.1.1. Một số quan điểm chỉ đạo phát triển nguồn nhân lực. 17
4.1.2. Từ những đánh giá tổng quát trên, có thể đưa ra phương hướng để nâng cao chất lượng LLLĐ trong thời gian tới như sau: 18
4.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 20
4.2.1 Những giải pháp về việc làm. 20
4.2.2. Tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục, đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 21
4.2.3. Nâng cao chất lượng và hiệu quả sử dụng đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ. 24
4.2.4. Xây dựng con người Việt nam kết hợp với quá trình đổi mới kinh tế xã hội. 25
4.2.5. Nâng cao vai trò lãnh đạo của đảng và hiệu quả hoạt động của nhà nước trong quá trình xây dựng con người. 25
Kết luận 26
Tài liệu tham khảo 27
28 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1613 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
áp ứng được 3000. Cái thiếu của ta là lao dộng kỹ thuật trong khi lại dư thừa lao động phổ thông. Bởi vậy, cơ cấu nguồn lao động không đáp ứng được yêu cầu thị trường trong nước, chưa nói đến yêu cầu tham gia cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Thứ ba, tình trạng thừa thầy thiếu thợ ở mức khá nghiêm trọng. Tức là ngay trong LLLĐ có trình độ chuyên mộ kỹ thuật đã ít lại còn có cơ cấu bất hợp lý. Có thể thấy tình trạng đó ở bảng sau:
Bảng 3: Cơ cấu LLLĐ kỹ thuật ở Việt Nam giai đoạn 1979-1999
1979
1989
1997
1999
Tổng số
100
100
100
100
Công nhân kỹ thuật
68,6
44,9
40,8
30,3
Trung học chuyên nghiệp
21,7
35,2
35,4
36,8
Cao đẳng , đại học
9,7
19,9
23,8
32,9
Nguồn: Thời báo kinh tế, số 13 ngày 31/1/2000
Nhìn vào biểu trên ta thấy, nếu như năm 1979, cơ cấu LLLĐ kỹ thuật của nước ta là tương đối phù hợp với yêu cầu thực hiện CNH, HĐH đất nước (tỷ lệ phổ biến của cơ cấu LLLĐ kỹ thuật của các nước đã thành công trong CNH, HĐH là 1 đại học, cao đẳng/ 4 trung học chuyên nghiệp/10 công nhân kỹ thuật và lúc đó tỷ lệ tương ứng của ta là 1/2, 2/7, 1). Nhưng sau 10 năm (đến năm 1989) tỷ lệ đó chuyển dịch theo hướng lệch đi (1/1, 8/2 ,2), bộc lộ rõ tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ”, đến năm 1997 là 1/1,5/ 1,7 và đến năm 1999 tỷ lệ này càng chệch hướng thêm nữa (1/1,2/0,92), nó gần như “lộn ngược” với các nước khác. Cũng từ biểu trên ta thấy số lao động có trình độ đại học, cao đẳng trở lên từ năm 1979 đến năm 1989 tăng rất nhanh (3,4 lần ), trong thời gian đó số công nhân kỹ thuật lại giảm rất nhanh ( 2,26 lần ). Vì thế, chúng ta đang còn ở trong tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ” rất nghiêm trọng. Theo báo cáo của bộ giáo dục và đào tạo, trong 10 năm (1986-1996), số học sinh học nghề giảm 35%, số giao viên dạy nghề giảm 31%, số trường dạy nghề giảm 41%, trong khi đó có 70-80% số sinh viên tốt nghiệp đại học cao đẳng ra trường không có việc làm, riêng nghành y hiện nay có trên 3000 bác sỹ không có việc làm.
Thứ tư, LLLĐ là chủ yếu trong cơ cấu lao động trong ngành. Sự nghiệp CNH đã được tiến hành vài thập kỷ song cho đến nay nền kinh tế nước ta vẫn còn mang nặng dấu ấn một nền kinh tế thuần nông, thể hiện rõ trong cơ cấu nguồn lao động theo ngành. Năm 1993, lao động nông nghiệp chiếm tới 71%, trong khi đó lao động công nghiệp chỉ chiếm 12% và dịch vụ 17% trong tổng LLLĐ xã hội. Năm 1998, cơ cấu lao động theo ngành đã có những chuyển biến tích cực, nhưng so với yêu cầu còn rất chậm: lao động nông nghiệp giảm còn 66% và lao động công nghiệp, dịch vụ tăng lên 13% và 21%.So với một số nước trong khu vực, cơ cấu LLLĐ của nước ta như vậy là còn rất lạc hậu. Chẳng hạn, năm 1997, tỷ trọng lao động nông nghiệp của Mianma giảm xuống còn 51,8%, Malayxia còn 14,8%, Indonexia còn 39,2%, Phillipin 37,2%, Thái Lan 49,2%.
Để có nền kinh tế tiên tiến, hiệu quả vấn đề không chỉ đơn thuần thay đổi cơ cấu ngành kinh tế, mà quan trọng hơn là thay đổi cơ cấu lao động, cơ cấu dân số. Hiện tại vẫn còn khoảng gần 70% lao động nằm trong khu vực I (nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản) và 80% dân số sống ở vùng nông thôn thì việc thực hiện CNH, HĐH rất không dễ dàng. Điều này cho thấy tính phức tạp của việc chuyển từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu sang một nền kinh tế có vóc dáng hiện đại, và cũng phải biết từ bỏ tham vọng đốt cháy giai đoạn để tránh những bệnh do hình thức mà ra.
Từ năm 1980 đến năm 1997, dân số tăng 1,3 lần, lao động tăng 1,7 lần, riêng lao động trong nông nghiệp là 1,75 lần nhưng diện tích trồng trọt là 1,38 lần. Do đó, diện tích gieo trồng tính bình quân năm 1997 giảm đi. Vì vậy, cần phải tăng mạnh năng suất lao động trong nông nghiệp để cải thiện tình hình.
Thứ năm, thiếu cân đối trong cơ cấu lao động theo vùng lãnh thổ. Hiện nay, tỷ trọng lao động ở hai vùng đồng bằng Sông Hồng và đồng bằng Sông Cửu Long cao nhất nước (20,5% và 21,7% tổng LLLĐ xã hội). Trong khi đó vùng Tây Nguyên rộng lớn, LLLĐ chỉ có 4%, vùng duyên hải Miền Trung10,4% và Đông Nam Bộ 12,7%. Sự mất cân đối này không chỉ gây nên khó khăn cho vấn đề công ăn việc làm mà còn ảnh hưởng xấu đến phát triển kinh tế xã hội cũng như an ninh quốc phòng của quốc gia.
Thứ sáu, chuyển dịch cơ cáu lao động diễn ra rất chậm theo nghành kinh tế. Vai trò của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh thực ra không dừng lại ở chỗ nó chiếm bao nhiêu phần trăm trong GDP mà ở chỗ nó thu hút đến trên 80% LLLĐ xã hội (bảng 4 và 5):
Bảng4: Thay đổi lao động trong khu vực nhà nước1990-1995
1990
1991
1992
1993
1994
1995
Tổng số lao động(nghìn)
30286
30994
31815,2
32718
33663,9
34589,6
Khu vực nhà nước
3415,7
3135,7
2975,2
2960,4
2928,3
3053,1
Tỷ trọng(%)
11,3
10,1
9,4
9,0
8,7
8,8
Tăng, giảm9nghìn)
-280
-160,5
-14,8
-32,1
124,8
Nguồn: Niên giám thống kê
Bảng 5: Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế
Đơn vị: %
1994
1995
1996
1997
(1)
(2)
(1)
(2)
(1)
(2)
(1)
(2)
Tổng số
33,664
8,70
34,950
8,83
35,792
8,77
33,994
8,83
Khu vực I
Nông nghiệp và Lâm nghiệp
Thuỷ sản
71,68
69,99
1,69
1,24
1,23
1,68
69,74
68,00
1,74
1,21
1,20
1,48
69,22
67,48
1,74
1,04
1,03
1,49
68,78
67,07
1,70
1,01
1,00
1,35
Khu vực II
CN khai thác
CN chế biến
SX và PP điện, khí đốt và nước
Xây dựng
12,93
0,34
9,26
0,44
2,89
22,79
73,33
19,07
32,21
27,25
13,25
0,60
9,33
0,44
2,88
22,93
49,08
18,56
35,15
29,78
12,93
0,59
9,19
0,43
2,72
23,37
46,48
19,09
39,46
30,18
12,52
0,57
8,90
0,41
2,64
24,73
52,6
19,38
38,56
34,65
Khu vực III
Thương nghiệp và sửa chữa
Khách sạn, nhà hàng
Vận tải, kho bãi, thông tin
Tài chính và tín dụng
Hoạt động và KHCN
Kinh doanh tài sản và tư vấn
QLNN, ANQP, BHXH
Giáo dục và đào tạo
Y tế và cứu trợ xã hội
Hoạt động VHTT
Hoạt độngdảng, đoàn thể
Phục vụ cá nhân và cộng đồng
15,39
6,56
0,51
1,65
0,35
0,12
0,16
0,59
2,67
1,04
0,31
0,23
1,02
31,62
8,98
17,77
34,43
41,88
65,86
56,72
91,99
75,55
44,25
28,27
68,15
4,00
17,02
5,46
1,46
2,26
0,37
0,11
0,16
1,13
2,81
0,81
0,27
0,28
1,65
29,07
10,51
6,83
24,96
37,66
69,79
51,72
52,00
73,01
58,52
33,83
56,32
2,71
17,85
0,63
1,54
2,39
0,35
0,11
0,21
1,14
2,78
0,82
0,72
0,28
1,66
28,16
9,61
7,27
24,49
39,66
81,63
44,21
53,10
74,49
57,24
33,72
54,91
2,78
18,70
7,22
1,40
2,31
0,34
0,11
0,21
1,11
2,70
0,80
0,26
0,27
1,61
26,95
7,68
7,19
23,00
41,78
79,63
44,13
57,60
77,75
58,51
34,72
64,66
3,68
Nguồn: Tính toán từ niên giám thống kê
(1):Tổng số lao động: Triệu người, cơ cấu lao động là % trong tổng số
(2): Tỷ lệ lao động trong khu vực nhà nước trong tổng số lao động của mỗi ngành kinh tế
Bảng 4 cho ta thấy lao động trong khu vực nhà nước chỉ chiếm 10% trong tổng số lao động đang làm việc. Năm 1990, tỷ trọng đó là 11,3%, năm1994 còn 10,1% và năm 1995 còn 8,8%và duy trì ở mức đó cho đến nay (nhưng trong tương lai sẽ còn giảm). Theo số liệu thống kê thì từ năm 1991 đến năm1994, khu vực nhà nước đã đưa ra gần nửa triệu lao động và chính khu vực ngoài quốc doanh đã tiếp nhận phần lớn số lao động này.
Ta hãy xét bảng 5 ở trên để thấy được cơ cấu lao động và quá trình phân bổ lại lực lượng lao động trong nền kinh tế từ năm 1994 đến năm 1997. Khu vực I chiếm 70% lao động đang làm việc, khu vực II chỉ chiếm vào khoảng 13% và còn lại là khu vực dịch vụ trên dưới 17%. Lao đông trong khu vực I có xu hướng giảm, khu vực II gần như không thay đổi và khu vực III có chiều hướng gia tăng, nhưng nói chung sự thay đổi là không đáng kể, qqua trình phân bổ lại lực lượng lao động giữa các ngành kinh tế lớn vẫn chưa diễn ra, khu vực I vẫn còn quá lớn và hầu hết là ngoài quốc doanh. Khu vực nhà nước chiếm tỷ trọng lớn và hầu như bao trumg ở những ngành công nghiệp, những ngành đòi hỏi có trình độ kỹ thuật và đào tạp tốt. Có hay không sự trùng hợp về lao động từ khu vực nhà nước chảy sang khu vực tư nhân từ năm 1991 đến năm 1994 làm cho tỷ lệ tăng trưởng cao, và khi khu vực nhà nước thu hút lao động trở lại thì qúa trình tăng trưởng bị giảm sút là điều còn theo dõi và phân tích về sau này. Từ bảng trên cho thấy trong khu vực ngoài quốc doanh hầu hết là nông nghiệp và những ngành nghề đơn giản, trình độ kỹ thuật thấp, ít được đào tạo, vì thếviệc phân bổ lại lực luợng lao động trong thời gian tới sẽ hết sức khó khăn.
Thứ bẩy, năng suất lao động của nước ta còn rất thấp. Năng suất lao động xã hội có thể hiểu là lượng GDP do một lao động làm ra trong năm. Chúng ta có thể thấy mối quan hệ giữa lao động và vốn đầu tư qua bảng sau đây:
Bảng 6: Năng suất lao động và trang bị vốn đầu tư cho lao động
GDP(triệu đồng)/1 LĐ
Vốn ĐT(triệu đồng)/1 LĐ
1995
1996
1997
1995
1996
1997
Chung trong nền kinh tế
5,65
5,97
6,25
1,68
1,89
2,14
Kinh tế nhà nước
25,67
27,79
29,27
6,72
9,73
11,66
Nguồn: Tính toán từ thống kê
Tính theo giá cố định năm 1994, năng suất lao động xã hội năm 1995 là 5,65 triệu đồng, năm 1996 là 5,97 triệu đồng và năm 1997 là 6,25 triệu đồng. Nghĩa là có sự gia tăng liên tục năng suất lao động trung bình của toàn xã hội nhưng bức tranh năng suất trong từng ngành lại rất khác nhau: năng suất thấp và hầu như không tăng trong khu vực I với ngành nông nghiệp và thuỷ sản; ở khu vực III có năng suất khá cao nhưng không có gia tăng trong các năm 1995-1997. Kinh tế nhà nước với các ngành công nghiệp, dịch vụ có mức năng suất cao và tăng nhanh qua các năm, nhưng ở khu vực I, khu vực lao động của ngoài quốc doanh thì lại có năng suất rất thấp và sự gia tăng không đáng kể. Nguyên nhân chính là vốn đầu tư cho một lao động ở khu vực II, III cao hơn so với khu vực I và ở khu vực I hầu như không tăng qua các năm 1995-1997 về mức vốn đầu tư cho một lao động.
3.3. Nguyên nhân gây ra những bất cập.
Thứ nhất, do có sự suy giảm đáng kể đào tạo nghề (ĐTN) dài hạn, mất cân đối với đào tạo nghề ngắn hạn. Điều này có nguồn gốc từ những nỗ lực chưa đủ mức của chính ngành giáo dục và đào tạo.
Bảng 7: Số học sinh của các trường nghề và vốn đầu tư qua các niên học 1986-1997
Năm
Số học sinh đi học(nghìn người)
Đầu tư
Trung học CN
Dạy nghề
Tỷ đồng
% GDP
Năm có nhiều học sinh nhất
1986
1987
1988
1989
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
147(1979/1980)
126,6
123,3
115,8
107,5
101,3
104,7
92,3
97,8
108,1
116,4
116,1
124,6
171(1984/1985)
119,7
102,0
118,4
92,4
60,3
57,6
68,7
74,7
58,7
69,9
102,5
439
748
1495
2321
3414
4722
5500
7150
1,0
1,0
1,4
1,7
2,0
2,1
2,1
2,1
Nguồn : Niên giám thống kê
Trong giai đoạn 1990-1998, tổng đầu tư từ ngân sách cho giáo dục gia tăng liên tục, tỷ lệ đầu tư cho từng cấp giáo dục riêng lẻ kể cả ĐTN giảm. Năm 1994, chi phí choĐTN là 11% tổng ngân sách nhà nước dành cho giáo dục (mức chi phí này ở các nước khác là 25% ). Hơn nữa, phần chi cho giáo dục từ ngân sách nhà nước chiếm phần lớn trong chi phí cho ĐTN. Sự suy giảm các chương trình ĐTN dài hạn thể hiện rất khác nhau tong từng loại hình và chuyên ngành đào tạo. NHìn chung, năm 1992-1993 là năm có số học sinh đi học thấp nhất. SSự suy giảm mạnh nhất diễn ra ở các nhóm ngành nông-lâm-thuỷ sản và sư phạm đối với loại hình trung học chuyên nghiệp; và ở nhóm ngành xây dựng, cơ khí đối với loại hình ĐTN. đối chiếu thực trạng này với tình hình mở rộngviệc làm trong nửa đầu thập niên 90 cho thấy, ĐTN dài hạn đã suy giảm trong khi cơ hội việc làm gia tăng, số học sinh giảm mạnh nhất trong chuyên ngành dịch vụ, nơi có tốc độ gia tăng việc làm nhanh nhất. Thực tế này đang đặt ra nhiều vấn đề nổi cộm đối với hệ thống ĐTN. Theo Bộ Giáo dục và đào tạo, có nhiều nguyên nhân, song chủ yếu do sự thích ứng chậm của hệ thống ĐTN đối với nền kinh tế nhiều thành phần, cả về chất lượng đào tạo lẫn cơ cấu ngành đào tạo; sự nghèo nàn của đội ngũ giáo viên và trang thiết bị cũng làm suy giảm đáng kể năng lực của các trường nghề. Phần lớn các trường nghè hiện nay chỉ đáp ứng được dưới 50% như cầu về hạ tầng “trường sở”, trang thiết bị, phòng thí nghiệm, sách giáo khoa, xưởng thực hành.
Thứ hai, do quy mô đào tạo ở các trường trung học, dạy nghề quá nhỏ, trên 50% các trường có quy mô đào tạo dưới 500 học sinh/năm. Quy mô nhỏ là lý do chính làm cho chi phí đào tạo trên một đơn vị đào tạo cao. Trước sức ép của nhu cầu đào tạo thực tế, nhiều trường rơi vào tình trạng quá tải.
Thứ ba, từ lâu nay, chúng ta hầu như đào tạo rất ít cho đào tạo nghề. Từ năm 1995 đến năm 1995, tỷ trọng đầu tư cho giáo dục đào tạo từ ngân sách Nhà nước tăng từ 11% lên 13% ( từ mức 1094 tỷ đồng lên 1600 tỷ đồng ) nhưng số tiền này chủ yếu được rót vào cho hệ đại học, cao đẳng, phổ thông, còn các trường dạy nghề không được CHLB Đức và Hàn Quốc trang bị cho một số thiết bị hiện đại. Đã thế, đầu tư cho đào tạo nghề lại rất phân tán và không đúng hướng. Do nhiều năm không được đầu tư nên số trường ĐTN giảm từ 512 trường năm 1991 xuống 400 trường năm 1998. Trường sở và nơi ăn, ở của học sinh dột nát nhiều, số lượng người học giảm một nửa. Trang thiết bị dạy nghề lạc hậu cũ kỹ, nhiều trường hoàn toàn dùng thiết bị của 50 năm trở về trước.
Thứ tư, về quản lý thì hầu như phân tán và buông lỏng. Sau ngày sáp nhập Tổng cục dạy nghề và Bộ Giáo dục và đào tạo, các cơ sở dạy nghề phải tự túc về nội dung, chương trình và phương tiện đào tạo, phải chạy lo tìm đủ môn sinh, hàng loạt trường phải chấp nhận tuyển gần như 100% người nộp đơn dự tuyển. Do đó chất lượng đào tạo kém.
Trong khi đó thì hệ đại học dưới dạng khầu hiệu “đa dạng hoá ngành, cấp học và hình thức học”, cùng với cách đào tạo theo kiều “mì ăn liền” của cá nhân và tổ chức khắp nơi nhảy ra kinh doanh lĩnh vực đào tạo làm cho các trường ĐTN vắng lạnh một cách dễ sợ.
Cái buông lỏng nữa là Nhà nước không có quy định bắt buộcvề nội dung đào tạo, chương trình và thời gian đào tạo và kiểm tra việc thực hiện, kể cả với một số trường đã từng có một thời thực hiện khá nghiên ngặt. Một số người đi học thực chất chỉ là lấy bằng cấp chứ không phải lấy kiến thức.
Thứ năm, chất lượng đội ngũ giáo viên còn bất cập. Tình trạng quá tải đã gây thiếu giáo viên cả về tương đối và tuyệt đối. Điều này làm cho không ít nơi giáo viên không có thời gian để nghiên cứu, bổ sung kiến thức thường xuyên và tình trạng “chạy sô” khá phổ biến.Nhưng theo một đánh giá của Bộ Giáo dục và đào tạo thì đội ngũ giáo viên đã có chất lượng tốt hơn trước đây. Chỉ số của sự đánh giá chất lượng cao hơn này gồm có: thâm niên giảng dạy trung bình cao hơn, và số có bằng đại học và sau đại học nhiều hơn trước đây. Song thực chất, chỉ số này chưa đủ để phản ánh toàn diện chất lượng giáo viên. Số năm thâm niên trung bình cao có thể cảnh báo một xu hướng già hoá, lớp trẻ ít quan tâm đến việc trở thành giáo viên ở các trường ĐTN. Đồng thời các chỉ số về chuyên môn cụ thể cho các môn học ngành nghề hiện nay đang thấp hơn nhiều so với các bộ môn cơ bản. Như vậy, điểm yếu vẫn đang tập trung ở các trường kỹ thuật ngành nghề.
Thứ sáu, nhu cầu ĐTN phần lớn còn mang tính tự phát, thiếu qui hoạch đồng bộ với nhu cầu của nền kinh tế. Các chỉ tiêu đào tạo của bộ chủ quản còn quá lệ thuộc vào kinh phí, chưa theo nhu cầu thực tế của nền kinh tế, có nơi, có lúc còn mang nặng tư tư tưởng “xin-cho”, cấp phát đơn thuần. Do áp lực từ phía người lao động mà gần đây ĐTN ngắn hạn nổi lên như một hình thức mới để bù đắp cho sự suy giảm ĐTN dài hạn và sự thiếu hụt trầm trọng công nhân kỹ thuật. Số học sinh theo học các khoá ngắn hạn tăng 8 lần trong 10 năm từ 1986-1996. Sự thu hẹp các khoá ĐTN dài hạn còn chứa đựng xu thế “sao nhãng” các nghề đòi hỏi đào tạo công phu, chi phí đào tạo cao. Qua khảo sát 421.500 người được ĐTN gần đây, chỉ có 0,5 % thuộc ngành cơ khí, 2,4% thuộc ngành điện.
Thêm vào đó sự phân bố các trung tâm ĐTN rất không đồng đều theo địa lý cũng như theo nhu cầu sử dụng. Phần lớn các trung tâm tập trung ở thành thị, trong khi lại rất vắng bóng ở các vùng nông nghiệp, nông thôn, nơi đang cần có những người nông dân được đào tạo bài bản để hội nhập nền nông nghiệp nước nhà với thế giới. Hơn nữa, không có sự bổ sung kịp thời những lao động có đào tạo cho nông nghiệp thì quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn khó mà đạt kết quả như mong muốn.
Tính tự phát và thiếu qui hoạch đồng bộ một thời gian dài đã gây ra tình trạng mất cân đối nghiêm trọng về nguồn lực, trong khi kinh nghiệm của các nước trên thế giới là duy trì cơ cấu bậc học “tháp hình chuông” thì ở nước ta, số học sinh vào đại học thường vượt quá nhiều lần so với học sinh các trường nghề.
Thứ bảy, có cả lý do từ tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm. Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị tuy đã giảm từ 12% năm1989 xuống 6% năm1996, nhưng lại tăng lên 8-10% năm 1998 và 1999. Tại nông thôn, tỷ lệ thiếu việc làm là từ 25% đến 35% và nhóm bất lợi là độ tuổi từ 15-24. Có một nghịch lý là trong khi tỷ lệ thất nghiệp cao thì thị trường lao động lại không cung cấp đủ nhu cầu cho doanh nghiệp, nghĩa là có tình trạng vừa thừa vừa thiếu. Lao động thiếu không chỉ ở trình độ lành nghề mà còn ở trình độ kỹ thuật cấp trung. Nếu ở các khu vực kinh tế phát triển hơn, sự thiếu hụt lao động có thể nhìn thấy rõ trong các ngành kinh tế đang mở rộng, thì ở khu vực nông thôn sự thiếu hụt lục lượng lao động có kỹ năng khó nhìn thấy hơn và khó đánh giá hơn. Các khu vực kinh tế kém phát triển ở các vùng nông thôn rộng lớn đang cần những nhóm lao động hạt nhân, năng động để tạo ra phong trào làm kinh tế giỏi.
Thứ tám, hệ thống đãi ngộ và việc làm hiện nay chưa khuyến khích lao động làm việc tại nông thôn. Nhiều con em vốn từ nông thôn, đã qua đào tạo, dù khong có việc làm cũng cố ở lại thành thị chờ cơ hội. Thực tế này không chỉ làm xói mòn các kiến thức đã được đào tạo và lãng phí nguồn lực, mà còn tạo xu thế kém phát triển lâu dài ở các vùng nông thôn rộng.
Thứ chín, hiệu quả đầu tư giáo dục của nước ta còn thấp, Chính phủ đã đặt mục tiêu nâng tỷ lệ lao động được đào tạo tới 25% lực lượng lao động và nâng cáap các chương trình đào tạo, cung cấp các trang thiết bị, tài liệu giảng dạy mới và theo sát hơn các công nghệ mới. Tuy nhiên, mục tiêu chung ấy phải được chi tiết hoá thành các chỉ tiêu cụ thể để có tính khả thi khi triển khai. Khi đưa ra các mục tiêu như vậy, cần được tính đến các mối quan hệ về lợi ích -chi phí. Song đến nay tỷ lệ thu hồi đối với đầu tư giáo dục là rất thấp. Gần đây, tài liệu của nước ta và của ngân hàng thế giới lưu ý rằng hầu hết các khoản đầu tư cho giáo dục ỏ Việt Nam có tỷ lệ thu hồi thấp, trong đó đầu tư cho ĐTN tỏ ra là một khoản đầu tư đặc biệt kếm hiệu quả. Tỷ lệ thu hồi vốn đầu tư từ góc độ cá nhân ở cả ĐTN lẫn giáo dục đại học không thoả mãn kiểm nghiệm 10%. Trong khi ngay các nước thu nhập thấp khác có mức thu hồi trung bình là 10,6%. Điều này chúng tỏ hiệu quả đầu tư giáo dục ở nước ta còn quá thấp.
4. Những giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
4.1. Những giải pháp chung:
- Tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới sâu rộng hơn, huy động sức mạnh tổng hợp của mọi thành phần kinh tế, tranh thủ mọi nguồn vốn đầu tư cho các ngành kinh tế mũi nhọn. Đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá trong đó ưu tiên cho công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông thôn và vùng kinh tế biển làm cho kinh tế của tỉnh phát triển nhanh, vững chắc.
- Chỉ đạo thực hiện tốt các chương trình hỗ trợ trực tiếp cho người dân như: chăm sóc bảo vệ sức khoẻ nhân dân, chăm sóc sức khoẻ sinh sản và dịch vụ kế hoạch hoá gia đình, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài… tạo điều kiện cho người dân nói chung và nguồn nhân lực, LLLĐ của tỉnh khoẻ về thể chất, có trình độ chuyên môn kỹ thuật có nhiều công việc tự tạo được việc làm và tìm được việc làm trong nước và xuất khẩu lao động.
- Phát triển nguồn nhân lực về số và chất lượng phải gắn với việc sử dụng nguồn nhân lực để phát huy hiệu quả, phát triển nguồn nhân lực để phục vụ cho yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá của tỉnh và phục vụ cho chương trình xuất khẩu lao động.
4.1.1. Một số quan điểm chỉ đạo phát triển nguồn nhân lực.
- Chất lượng nguồn nhân lực giữ vai trò quyết định sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta.
Giáo dục đào tạo giữ vai trò quyết định đến chất lượng nguồn nhân lực. Giáo dục đào tạo có nhiệm vụ nâng cao dân chí, đào tạo nhân lực bồi dưỡng nhân tài.
Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục và tạo điều kiện phát triển tài năng.
Phát triển nguồn nhân lực gắn với nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội, tiến bộ khoa học – công nghệ và sự nghiệp củng cố an ninh quốc phòng.
Phát triển nguồn nhân lực là sự nghiệp chung của Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Phát triển nguồn nhân lực phải tính đến sự hội nhập quốc tế và khu vực trên cơ sở kế thừa và giữ vững những tinh hoa văn hóa dân tộc.
4.1.2. Từ những đánh giá tổng quát trên, có thể đưa ra phương hướng để nâng cao chất lượng LLLĐ trong thời gian tới như sau:
Thứ nhất, về quy môvà mức độ, ở Việt Nam mặc dù đẫ có mục tiêu đạt 25% LLLĐ qua đào tạo song mục tiêu này không được gắn trực tiếp với tỷ lệ của các cấp đào tạo. Tính đến các yếu tố như, nguồn lực hạn hẹp, chi phí cao của các cấp ĐTN ở bậc sau trung học và khả năng tạo việc làm của nền kinh tế, Việt Nam cần khuyến khích ĐTN cấp trung học. Hiện tại cần lưu ý một số yếu tố thuận lợi cho việc mở rộng giáo dục ĐTN cấp trung học như sau: Một là, với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, giới trẻ trở nên thực tế và định hướng thị trường nhanh nhạy hơn. Do vậy, yếu tố thu nhập chứ không phải các yếu tố khác quyết định tham gia vào chương trình đào tạo này hay chương trình đào tạo khác. Hai là, hệ thống tiền lương hiện nay duy trì sự khác biệt quá nhỏ giữa lao động chân tay với lao động trí óc, không tạo ra sự khác biệt lớn giữa sự lựa chọn giáo dục phổ thông, với mục tiêu nhất thiết là phải vào cho được đại học với lựa chọn vào trưòng dạy nghề. Ngoài ra, mở rộng ĐTN còn giúp lớp trẻ có lựa chọn nghề sớm ngay khi họ tốt nghiệp trung học. Điều giúp cho giảm áp lực vào các cuộc tuyển sinh đại học và tiết kiệm chi phí, giúp cho học sinh tránh được cú sốc tinh thần khi thi trượt. Sự hướng nghiệp sớm còn giúp họ yên tâm với sự lựa chọn từ đầu của mình. Nhờ đó, khi có việc làm theo đúng chuyên môn đào tạo họ nỗ lực làm việc tốt hơn và cho năng suất lao đôngj cao hơn, khắc phục được tình trạng “thừa thầy thiếu thợ”.
Thứ hai, trong khi khuyến khích mở rộng ĐTN, các nhà hoạch định chính sách cần lưu ý đến giới hạn tối ưu của nó, ở giai đoạn phát triển hiện nay vốn dựa chủ yếu vào ngành sử dụng nhiều lao động và tổ chức lao đôngj theo phương pháp Tay-lo thì việc mở rộng ĐTN thung học đồng nghĩa với việc tiết kiệm nguồn lực trong nước và giảm chi phí cơ họi cho học sinh. Việc mở rộng ĐTN nên được xem như một quá trình luôn có sự điều chỉnh và sự điều chỉnh này cũng cần tính tới khả năng, việc mở rộng thái quá ĐTN trung học cũng có thể dẫn tới một thực tế ngoài mong đợi, khi nền kinh tế đi vào con đường hội nhập với nền kinh tế toàn cầu và thực hiện mô hình tổ chức linh hoạt, đòi hỏi phải có những công nhân đa chức năng.
Thứ ba, để tiết kiệm nguồn lực và thời gian, cần sắp xếp lại và nâng cấp các trường ĐTN sẵn có, khuyến khích luồng học sinh vào để khắc phục quy mô nhỏ, vốn là nguyên nhân quan trọng dẫn đến chi phí đơn vị cao trong ĐTN hiện nay. Đồng thời tiến hành các thay đổi cần thiết trong các chương trình học và phân ngành đào tạo sao cho có thể phản ánh được các thay đổi trong cơ cấu ngành nghề trong hệ thống làm việc.Cần chuyển khỏi đào tạo nghề chuyên môn hẹp và đi theo hướng đào tạo rộng hơn trong ĐTN. Cần tăng cường kiểm soát chất lượng và tạo cơ hội cho học sinh được chuyển đổi giữa các lựa chọn trung học phổ thông và trung học nghề. Sau khi cac strường nghề hiện thời được nâng cấp và đạt được quy mô hợp lý, mới xem xét mở rộng trường mới.
Thứ tư, có chính sách cụ thể quan tâm thực sự tới sự phát triển bền vững của ĐTN. Khác với giáo dục đại học, ĐTN không dễ có một vị thế cao trong xã hội. Vị thế xã hội đáng mong ước của ĐTN bao quát hai khía cạnh: Một là, sự kính trọng và uy tín của cấp giáo dục này trong nhận thức của người dân. Những thái độ và giá trị của người dân dành cho ĐTN là rất quan trọng vì chúng cho phép tái sản xuất quá trình đào tạo, nói cách khác cho phép quá trình đào tạo được liên tục. Hai là, các giá trị của ĐTN cần được thể hiện trong hệ thống việc làm, chế độ đãi ngộ. Điều đó có nghĩa là đầu tư cá nhân vào ĐTN (dưói hình thức tiền của lẫn thời gian) phải được phản ánh rõ trong việc làm và thu nhập.
Thứ năm, xây dựng một hệ thống ĐTN ưu tiên phát triển nông nghiệpvà nông thôn, tự tạo việc làm và kỹ năng kinh doanh nhỏ. Với yêu cầu sử dụng lao động cũng như cuộc cải cách nông nghiệp trong những năm 80, hệ thống ĐTN dường như tụt lại phía sau so với hệ thống việc làm. Do đó, LLLĐ thiếu việc làm ở nông thôn tương đối cao. Hậu quả là luồng di cư từ nông thôn ra thành thị diễn ra mạnh, làm tăng thêm số người nghèo đói ở thành thị cùng với áp lực môi trường và nhiều tiêu cực khác. Nguyên nhân có nhiều nhưng yếu tố không thể bỏ qua là thiếu ĐTN. Nếu hệ thống ĐTN nhấn mạnh khả năng tự tạo việc làm kết hợp với các giải pháp chính sách hỗ trợ kinh doanh nhỏ sẽ giúp cải thiện đáng kể tình hình.
Phát
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35704.doc