Đề án Những chính sách khuyến khích xuất khẩu gạo của chính phủ, đánh giá và kiến nghị giải pháp

MỤC LỤC

A. LỜI MỞ ĐẦU 3

B. NỘI DUNG 5

I/ TÌNH HÌNH SẢN XUẤT VÀ KINH DOANH LÚA 5

1.1.Những vấn đề chung của sản xuất lúa gạo hiện nay 5

 1.1.1.Thực trạng về các hình thức sản xuất lúa gạo 5

 1.1.2.Sản lượng và năng suất vụ lúa hè thu 6

1.2.Tình hình kinh doanh lúa gạo hiện nay 7

 1.2.1.Hệ thống các doanh nghiệp thu mua lúa gạo 7

 1.2.2.Hoạt động kinh doanh lúa gạo của các doanh nghiệp 8

II/NHỮNG CHÍNH SÁCH KHUYẾN KHÍCH XUẤT KHẨU GẠO 10

 CỦA CHÍNH PHỦ

2.1.Nhóm chính sách vĩ mô 10

 2.1.1 Chính sách ruộng đất 10

 2.1.2. Chính sách về chuyển giao công nghệ khoa học kỹ thuật tiến bộ 11

 2.1.3. Chính sách thuế xuất khẩu gạo 12

2.2.Nhóm chính sách vi mô 14

 2.2.1.Chính sách quy hoạch vùng sản xuất lúa gạo xuất khẩu 14

 2.2.1.1.Sự cần thiết phải quy hoạch vùng sản xuất lúa gạo xuất khẩu 14

 2.2.1.2.Phương hướng quy hoạch vùng sản gạo xuất khẩu 14

 2.2.2.Chính sách tín dụng ưu đãi, bảo hộ cho sản xuất và xuất khẩu gạo 15

 2.2.2.1.Sự cần thiết phải thực hiện giải pháp tín dụng ưu đãi, bảo hộ cho sản 15

 xuất và xuất khẩu gạo

 2.2.2.2.Nội dung của chính sách tín dụng ưu đãi, bảo hộ cho sản 16

 xuất và xuất khẩu gạo

 2.2.3.Chính sách xây dựng cơ sở hạ tầng sản xuất và xuất khẩu gạo 17

 2.2.4.Chính sách thực hiện giải pháp đồng bộ khoa học kỹ thuật cho sản 18

 xuất ở vùng sản xuất gạo xuất khẩu

 2.2.4.1.Giải pháp về giống lúa 18

 2.2.4.2.Giải pháp về phân bón 19

 2.2.4.3.Giải pháp về phòng trừ sâu bệnh cho lúa 20

 2.2.5.Chính sách Marketing trong xuất khẩu gạo 20

 2.2.5.1.Các biện pháp để thích ứng 21

 2.2.5.2.Nâng cao khả năng cạnh tranh trong xuất khẩu 22

 2.2.5.3.Chính sách mở rộng thị trường 22

III/ ĐÁNH GIÁ VÀ KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP 23

3.1.Đánh giá 23

 3.1.1.Những tồn tại trong ngành hàng xuất khẩu gạo hiện nay 23.

 3.1.2.Đánh giá chung và bài học của xuất khẩu gạo 24

 3.1.2.1.Đánh giá chung 24

 3.1.2.1.Bài học về xuất khẩu gạo 25

3.2.Kiến nghị giải pháp 25

 3.2.1.Giải pháp trước mắt 25

 3.2.2.Giải pháp trung hạn và dài hạn 27

C. KẾT LUẬN 28

D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 29

 

 

 

 

 

 

doc29 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4353 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Những chính sách khuyến khích xuất khẩu gạo của chính phủ, đánh giá và kiến nghị giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đất. Đỉnh cao của quá trình đổi mới chính sách ruộng đất là sự triển khai trên thực tế, theo đó người nông dân sẽ được thực hiện năm quyền ( quyền sử dụng, quyền chuyển nhượng, quyền chuyển đổi, quyền thế chấp, quyền cho thuê). Tuy nhiên, điểm bất cập là trong quá trình triển khai luật đất đai năm 1993 vẫn còn nhiều vương mắc, nhiều sự thay đổi trong sử dụng đất đai vẫn còn nằm ngoài sự kiểm soát của nhà nước. Do vậy, chính sách về ruộng đất đã tập trung vào hoàn thiện một số vấn đề sau đây: trước hết, là hoàn thành cơ bản thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đai cho các đối tượng, trong đó có đất ruộng trồng. Vướng mắc là công việc này mới chỉ được thực hiện ở một số nơi như Hà Nội, Hải Phòng, … còn lại ở rất nhiều tỉnh hoạt động này diễn ra chậm chạp thậm chí cán bộ không có thái độ tốt trong việc thực hiện những yêu cầu này. Tiếp đó là giới hạn khinh phí cho việc làm các thủ tục giao đất. Thứ đến, là thể chế hóa ngày càng sâu rộng 5 quyền của người được giao đất. Trong đó nên hướng dẫn người được giao đất cần làm những thủ tục gì? ở đâu? Thứ ba, là Nhà Nước cần phân cấp rõ ràng trong việc theo dõi sự vận động đa dạng và phức tạp các quan hệ đất đai, đưa việc quản lý đất đai vào nền nếp. 2.1.2.Chính sách về chuyển giao công nghệ khoa học kỹ thuật tiến bộ Hàng năm, ngân sách nhà nước dành khoản kinh phí để hỗ trợ các doanh nghiệp và người sản xuất có hợp đồng tiêu thụ nông sản: áp dụng, phổ cập nhanh các loại giống mới, tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới trong bảo quản, chế biến nông, lâm, thủy sản, đầu tư mới, cải tạo, nâng cấp các cơ sở sản xuất và nhân giống cây trồng, giống vật nuôi, đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, giáo dục..nhằm phổ cập nhanh tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới, thông tin về thị trường, giá cả đến người sản xuất. Các vùng sản xuất hàng hóa tập trung có hợp đồng tiêu thụ nông sản được ưu tiên triển khai và hỗ trợ về công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư. ( nguồn từ số 80/2002/ QD – TTg ngày 24 tháng 06 năm 2002). Có thể thấy tiến bộ khoa học kỹ thuật tập trung vào bốn khâu : Giống, phân bón, phòng trừ sâu bệnh, bảo quản sản phẩm. Với các loại giống lúa mới thường xuyên thay giống sản xuất đại trà cho nông dân. Khi thay giống mới, những khó khăn thường nảy sinh là: kỹ thuật canh tác như thế nào? Làm thế nào để nông dân nắm bắt kịp thời các yêu cầu kỹ thuật canh tác của giống mới? Vấn đề giá cả của giống mới thường khá cao, nếu không có sự hỗ trợ về giá thì nông dân thường sẽ đắn đo khi sử dụng giống mới. Đây có thể coi là điểm còn hạn chế của chính sách này. Chính sách mới hiện nay là cho nhập khẩu phân bón đã gây một số khó khăn như với các loại phân bón thông dụng, kỹ thuật sử dụng thường ít, có khó khăn và vấn đề là số loại phân bón mới thường có khó khăn về giá bán: giá bán cao hơn khả năng tài chính của nông dân. Khâu bảo vệ thực vật cũng thường vướng ở các kỹ thuật mới, phương tiện mới, giải pháp mới. Ở đây ngoài vấn đề giá cả, cần làm sao cho nông dân nắm vững kỹ thuật sử dụng và giảm bớt chi phí về thời gian sức lực, tài chính. Trong khâu bảo vệ thóc gạo còn vướng về công nghệ và thiết bị. Xong cũng không thể phủ nhận những thuận lợi mà chính sách này đã tạo ra đó là về điều kiện chuyển giao công tiến bộ khoa học kỹ thuật đến nông dân sản xuất lúa gạo: phần lớn các vùng lúa gạo tập trung và xuất khẩu đều ở đồng bằng, hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật bước đầu được hình thành cơ bản, trình độ dân trí của nông dân các vùng trồng lúa nói chung khá cao. Khó khăn cơ bản cho quá trình chuyển giao là khả năng kinh tế của hộ nông dân rất eo hẹp, địa bàn sản xuất lúa gạo lại trải rộng. Với đặc điểm của tiến bộ khoa học kỹ thuật ở từng khâu như trên, với điều kiện thuận lợi và khó khăn cơ bản như vậy, để có thể chuyển nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật đến hộ nông dân trước hết cần có sự hỗ trợ về tài chính của Nhà Nước. Mức độ hỗ trợ cho chuyển giao khoa học kỹ thuật đến hộ nông dân có thể khá lớn, song lợi ích thu được qua sản xuất và xuất khẩu gạo sẽ còn to lớn gấp bội. Ngoài ra hệ thống khuyến nông là vô cùng quan trọng, và đặc biệt là đa dạng hóa các kênh thông tin về tiến bộ khoa học kỹ thuật đến hộ nông dân. 2.1.3.Chính sách thuế xuất khẩu gạo Để trả lời cho câu hỏi liệu có nên đánh thuế xuất khẩu gạo hay không và đánh với mức nào, cần phải xem xét các mục tiêu thuế xuất khẩu, trong đó đánh thuế xuất khẩu gạo của ta có những mực tiêu nào? Thứ nhât, đánh thuế xuất khẩu là để lợi dụng thế mạnh độc quyền trên thị trường quốc tế, tăng thu cho ngân sách bằng cách đẩy chi phí về thuế cho người tiêu dùng nước ngoài gánh chịu. Với lượng gạo xuất khẩu của ta hàng năm đạt hơn 10% thị phần thế giới thì chưa thể là độc quyền xuất khẩu gạo trên thế giới. Vậy mục tiêu này là không thể được trong việc đánh thuế xuất khẩu gạo của ta. Thứ hai, đánh thuế xuất khẩu là để điều chỉnh cơ cấu hàng xuất khẩu. Mặt hàng gạo của ta không nằm trong danh mục hàng hóa hạn chế xuất khẩu thời gian qua. Vậy đây cũng không phải là mục tiêu của đánh thuế xuất khẩu gạo. Thứ ba, đánh thuế xuất khẩu để ổn định cung cầu trên thị trường nội địa. Thông qua việc đánh thuế xuất khẩu để giảm bớt lợi nhuận của người xuất khẩu, từ đó giảm bớt lượng xuất khẩu. Đây cũng là một trong các mục tiêu mà chính sách đánh thuế xuất khẩu gạo của ta đạt được Vì vậy mà mới đây Thủ tướng chính phủ đồng ý về nguyên tắc đề nghị của Bộ Tài Chính về việc áp dụng thuế tuyệt đối các mặt hàng gạo xuất khẩu trong tháng 6/2008. Đề nghị này đã được đưa ra từ lâu. Theo TS Đào Thế Anh, giám đốc trung tâm nghiên cứu và phát triển hệ thống nông nghiệp: áp dụng thuế xuất khẩu gạo trong thời điểm hiện nay là hợp lí. Việc áp dụng thuế xuất khẩu gạo vừa mang lại nguồn thu cho nhà nước, vừa có kinh phí để hỗ trợ nông dân sản xuất. Về lâu dài, thu thuế xuất khẩu sẽ tạo được sự “công bằng” giữa gạo trong nước và gạo xuất khẩu, bởi lâu nay doanh nghiệp tiêu thụ gạo trong nước vẫn phải nộp thuế giá trị gia tăng 5%. Hơn nữa, hạn ngạch chỉ có thể quản lý hữu hiệu khối lượng lượng gạo xuất khẩu, nhưng ít có tác dụng điều tiết giá trong nước, trong khi thuế xuất khẩu lại có tác dụng điều tiết thị trường trong nước. Khi giá nội địa đang cao, một mức thuế xuất khẩu cao sẽ khuyến khích nông dân và thương nhân bán lương thực vào nội địa để khỏi phải chịu thuế xuất khẩu, nhờ đó làm giảm giá lương thực trong nước. Khi giá đã xuất ở mức chấp nhận được thì thuế cũng được giảm để tận dụng cơ hội xuất khẩu ra bên ngoài. Rõ ràng có thể thấy được những lợi ích to lớn mà chính sách này mang lại. Ví dụ mới đây chính phủ đã quy định gạo có giá xuất khẩu dưới 800USD/ tấn sẽ không phải chịu thuế tuyệt đối xuất khẩu. Gạo xuất khẩu trên mức này sẽ bị đánh thuế từ 800 000 đồng/ tấn trở lên cụ thể nếu xuất khẩu gạo giá từ 800USD/tấn đến dưới 900 USD/tấn sẽ áp mức thuế tuyệt đối 800.000 đồng/tấn; từ 900 USD đến dưới 1000 USD?tấn sẽ là 1,2 triệu đồng/tấn; từ 1000 USD/ tấn đến dưới 1100 USD/tấn là 1,5 triệu đồng/tấn và nhiều mức khác nữa… Xong trên thực tế chính sách này cũng còn nhiều bất cập. Đó là các doanh nghiệp nhà nước đang được nhiều ưu đãi về thuế xuất khẩu, về sử dụng vốn nhà nước, nhưng chưa tham gia thực sự vào điều tiết thị trường và đã bỏ lửng thị trường trong nước. Nếu đánh thuế xuất khẩu mà doanh nghiệp không đàm phán được giá với nhà nhập khẩu- khả năng này cao- dĩ nhiên sẽ quay sang hạ giá thu mua, ép nông dân để bảo đảm lợi nhuận cho mình. Như vậy, về lâu dài chỉ nên nhân rộng việc cho tư nhân đầu thầu xuất khẩu gạo, tự chịu trách nhiệm trong kinh doanh để góp phần củng cố lại hệ thống thu mua, phân phối, gián tiếp giúp nông dân bán lúa với giá cao hơn. Như vậy nên sử dụng chính sách áp dụng thuế xuất khẩu là chính sách về lâu về dài là tốt hơn cả so với hạn ngạch. Có lẽ các doanh nghiệp xuất khẩu gạo cũng sẽ ủng hộ chính sách này hơn là hạn ngạch. Xong từ cái mất và cái được của chính sách đánh thuế xuất khẩu gạo mà chúng ta cần phải có sự điều chỉnh cho phù hợp với từng giai đoạn. 2.2.Nhóm chính sách vi mô. 2.2.1.Chính sách quy hoạch vùng sản xuất lúa gạo xuất khẩu 2.2.1.1.Sự cần thiết phải quy hoạch vùng sản xuất lúa gạo xuất khẩu. Trong nền kinh tế thị trường, các hoạt động kinh tế chủ yếu được điều tiết bởi cơ chế thị trường. Sản xuất và xuất khẩu gạo cần thiết phải thực hiện quy hoạch vùng sản xuất lúa gạo cho xuất khẩu vì những lý do sau: Thứ nhất, đó là do yêu cầu phải đáp ứng kịp thời nhu cầu của thị trường thế giới về số lượng, chủng loại gạo, tránh được tình trạng không đủ hoặc dư thừa một loại gạo nào đó so với nhu cầu. Sự không đáp ứng đủ hoặc dư thừa nhu cầu là do tính tự phát trong bố trí sản xuất lúa ở trong nước, sự tự bố trí đó do không nắm được tổng thể các thông tin về thị trường nên đã sản xuất loại thừa, loại thiếu. Dù là thừa hay thiếu loại gạo nào đều làm giảm hiệu quả kinh tế của sản xuất và xuất khẩu gạo. Vì lẽ đó, Nhà Nước với tư cách là người đại diện cho lợi ích chung của đất nước, với hệ thống cơ quan chức năng của mình, sẽ đủ điều kiện để quy hoạch sản xuất lúa gạo theo vùng một cách hợp lý, đảm bảo lợi ích cho cả người sản xuất nông nghiệp cũng như toàn xã hội. Thứ hai, việc quy hoạch vùng sản xuất lúa gạo xuất khẩu là căn cứ quan trọng nhất tạo nguồn hàng chủ động, làm cơ sở kinh tế để ký kết các hợp đồng xuất khẩu gạo. đáp ứng tốt nhu cầu của từng thị trường cụ thể. Đó cũng là cơ sở để Nhà Nước có thể có kế hoạch hóa được các hoạt động sản xuất và xuất khẩu gạo. Có thể nói quy hoạch vùng sản xuất gạo xuất khẩu là một trong những điều kiện quan trọng để thích ứng tốt với thị trường nước ngoài về số lượng và đặc biệt là chất lượng, công cụ cạnh tranh số một nhằm nâng cao chữ tín với khách hàng quốc tế. Thứ ba, việc này là cơ sở để Nhà nước giao và quản lý hạn ngạch xuất khẩu gạo, tránh được tình trạng mua bán gạo vòng vèo, gây rối loạn kinh tế trong nước. Đồng thời nó là căn cứ để Nhà Nước có thể phân công, phân cấp cho thị trường cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu gạo. Thứ tư là cơ sở thực tiễn để Nhà nước có hướng đầu tư đúng đắn trong việc triển khai các thành tựu mới của khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp. Và bảo đảm phối hợp đồng bộ các hoạt động sản xuất, chế biến, bảo quản, vận chuyển từ người sản xuất đến cảng xuất khẩu, góp phần giảm chi phí, tăng cường khả năng cạnh tranh trên thương trường quốc tế. 2.2.1.2. Phương hướng quy hoạch vùng sản xuất gạo xuất khẩu: Trước hết cần lưu ý rằng việc quy hoạch sản xuất gạo cho xuất khẩu chỉ có thể trở thành hiện thực khi có những đảm bảo chắc chắn sản phẩm sau khi sản xuất ra sẽ nhanh chóng có người mua và hơn nữa mua với giá cả hợp lý, mà theo giá đó những người sản xuất có lợi nhuận thỏa đáng, nhưng đảm bảo đó là vấn đề rất quan trọng có tính quyết định cho việc thực thi các phương án quy hoạch trong thời kỳ kế hoạch hóa tập trung. Một số nguyên nhân của tình trạng đó là do lợi ích của nông dân trong vùng không được đảm bảo thỏa đáng khi sản xuất theo quy hoạch. Trong nền kinh tế thị trường, các phương án quy hoạch dù tốt đến mấy cũng sẽ không thành hiện thực nếu lợi ích của người sản xuất không được đảm bảo. Về hướng tiến hành quy hoạch vùng sản xuất gạo xuất khẩu, nên đi theo một số hướng cụ thể sau đây: Đối với đồng bằng Sông Cửu Long: đây là vùng lúa trọng điểm số một của cả nước ta. Trong tương lai đây vẫn là vùng sản xuất lúa gạo cho xuất khẩu chủ yếu của nước ta. Với vùng này nên tiếp tục quy hoạch phát triển sản xuất các loại lúa gạo thông thường, năng suất cao, để có được sản lượng gạo thông thường xuất khẩu lớn. Tuy nhiên, dù là vùng sản xuất lúa gạo thông thường cho xuất khẩu, vẫn cần thiết phải phấn nâng cao phẩm cấp gạo. Để nâng cao phẩm cấp gạo xuất khẩu ở vùng này, khi quy hoạch sản xuất lúa và quy hoạch tổng thể, cần chú ý quy hoạch hệ thống cơ sở hạ tầng cho sản xuất nông nghiệp, cho chế biến công nghiệp lúa gạo. Các nội dung đó phải được tiến hành quy hoạch đồng bộ. Ngoài ra ở vùng này nên tiến hành thí nghiệm việc khu vực hóa một số giống lúa chất lượng cao có thể nhập nội. Đối với đồng bằng Sông Hồng: đây là vùng lúa trọng điểm thứ hai của cả nước ta. Tuy nhiên vùng này có những mặt hạn chế về số lượng gạo xuất khẩu do đất chật người đông, đất canh tác không được bổ sung độ phì nhiêu tự nhiên. Bù lại vùng này có những ưu thế về chất đất, nguồn nước, thời tiết khí hậu rất thuận lợi cho phát triển các giống lúa đặc sản chất lượng cao như: tám hương, …đó là các sản phẩm nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường gạo cao cấp của thế giới. Trong xu thế nhu cầu gạo của thị trường thế giới đang hướng tới các loại gạo có hương vị tự nhiên đậm đà, chất lượng cao, thì việc quy hoạch vùng phát triển sản xuất các loại lúa gạo sản truyền thống để xuất khẩu là rất cần thiết. Ngoài ra tiến hành thí điểm khu vực hóa các giống lúa nhập nội có chất lượng cao, năng suất khá của một số nước trong khu vực. Điều đó làm phong phú thêm chủng loại gạo cao cấp cho xuất khẩu, khai thác tốt hơn lợi thế của vùng này trong sản xuất và xuất khẩu gạo. 2.2.2.Chính sách tín dụng ưu đãi, bảo trợ cho sản xuất và xuất khẩu gạo 2.2.2.1.Sự cần thiết phải thực hiện giải pháp tín dụng ưu đãi, bảo trợ cho sản xuất và xuất khẩu gạo. Sở dĩ đặt vấn đề cần thực hiện giải pháp này để thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu gạo vì: Thứ nhất, nông dân là những người sản xuất gạo cho xuất khẩu nhưng khá đông trong số họ đang thuộc tầng lớp nghèo của xã hội. Nhưng hộ gia đình xếp loại trung bình ở nông thôn cũng thường xuyên thiếu vốn sản xuất. Hơn nữa để có sản phẩm lúa gạo xuất khẩu, nhiều khi phải tuân thủ quy trình kỹ thuật sản xuất ngặt nghèo và tốn kém, đặc biệt là với các loại lúa đặc sản chất lượng cao. Trong tình hình đó, để có gạo xuất khẩu rõ ràng cần phải có sự hỗ trợ về vốn từ bên ngoài đối với nông dân. Thứ hai, trong các hình thức hỗ trợ vốn cho nông dân thì hình thức tín dụng là có nhiều ưu điểm nhất. Bởi lẽ tính chất bắt buộc phải hoàn trả vốn sẽ buộc người vay phải năng động, sáng tạo tìm cách để kinh doanh đạt hiệu quả cao, khác với các khoản hỗ trợ cấp cho không, mà những khoản này khi sử dụng người được trợ cấp có thói quen ý lại, đầu tư sử dụng tiền trợ cấp gặp chăng hay chớ. Thứ ba, sản xuất nông gạo phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, đặc biệt trong điều kiện môi trường tự nhiên đang bị xấu thì thiên tai càng nhiều hơn làm cho kết quả sản xuất nông nghiệp thêm bấp bênh với những rủi ro khó có thể dự báo trước. Trong tình hình đó, việc thực thi chính sách bảo trợ cho sản xuất nông nghiệp nói chung và cho sản xuất lúa gạo xuất khẩu nói riêng là rất cần thiết. Bảo trợ sản xuất, giúp cho sản xuất ổn định là cơ sở để đảm bảo nguồn hàng xuất khẩu. Ngược lại khi thị trường biến động bất lợi cần bảo trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu gạo. Bảo trợ cho khâu xuất khẩu là để các doanh nghiệp xuất khẩu tiêu thụ sản phẩm cho nông dân, bảo đảm cho sản xuất không bị suy giảm ở vụ sau, năm sau. 2.2.2.2.Nội dung của chính sách tín dụng ưu đãi và bảo trợ sản xuất và xuất khẩu gạo. Trong quyết định của Thủ tướng chính phủ số 80/2002/ QD – TTg ngày 24 tháng 06 năm 2002, đã đưa ra những yêu cầu rất rõ ràng: “ đối với tín dụng thương mại, các ngân hàng thương mại đảm bảo nhu cầu vay vốn cho người sản xuất và kinh doanh đã tham gia ký hợp đồng theo lãi suất thỏa thuận với điều kiện và thủ tục thuận lợi. Người sản xuất, kinh doanh được thế chấp bằng tài sản hình thành từ vốn vay để vay vốn ngân hàng được vay vốn bằng tín chấp và vay theo dự án sản xuất kinh doanh có hiệu quả”. Mới đây hưởng ứng các quyết định đó, các ngân hàng đã đưa ra nhiều ưu đãi trong việc vay vốn đối với các doanh nghiệp thu mua lúa gạo: Thống đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam Nguyễn Văn Giàu đưa ra thông tin “mức lãi suất cho vay thấp nhất sẽ được áp dụng đối với doanh nghiệp thu mua lúa gạo và cá tra” tại buổi giao ban trực tuyến tại Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ngày 19/8, cụ thể mức lãi suất sẽ là 19,9%/năm thay vì 21%/năm trước đây. Trong trường hợp những doanh nghiệp kinh doanh lương thực thu mua gạo theo chỉ tiêu do hiệp hội lương thực Việt Nam thông báo nhưng chưa ký được hợp đồng xuất khẩu gạo thì được xem xét cho vay tạo nguồn vốn trước khi ký hợp đồng xuất khẩu. Đó là việc tạo ra thuận lợi của chính sách vì nó đã tạo nguồn vốn cho người nông dân cũng như các doanh nghiệp trong việc thu mua lúa gạo trong điều kiện vốn là yếu tố có tính chất quyết định. Có thể thấy được việc nhà nước tạo điều kiện cho người nông dân và các doanh nghiệp thu mua lúa gạo được vay vốn là rất hợp lý và rõ ràng xong trên thực tế thì lại nảy sinh nhiều mâu thuẫn là tục thủ cho vay rất phức tạp, nhiều khâu, nhiều công đoạn. Trong khi đó do tính thời vụ cấp bách, sự tăng giá liên lục của các yếu tố đầu vào như phân bón, giống, …đã buộc người nông dân phải đi vay nóng ở thị trường tín dụng chợ đen với lãi suất cao. Đó là một điểm còn hạn chế mà chính sách không lường hết được. Vậy để cho vay kịp thời đến các hộ nông dân, đòi hỏi các ngân hàng, một mặt phải hoàn thiện lại các thủ tục cho vay, mặt khác phải nâng cao trình độ nghiệp vụ của mỗi cán bộ ở cơ sở. Điều đó đảm bảo ngân hàng vừa thực hiện cho vay kịp thời, vừa không làm giảm khả năng hoàn nợ của khách hàng vay. Hơn nữa cần tăng khả năng cung ứng vốn ở thị trường tiền tệ nông thôn, đồng thời tăng khả năng giám sát mục đích vay tiền, khả năng thanh toán của các hộ nông dân, đẩy lùi thị trường chợ đen, cần phải tạo điều kiện cho các qũy tín dụng nhân dân hình thành và phát triển ở nông thôn, hơn ai hết, họ rất hiểu về hoàn cảnh của từng hộ trong thôn xóm. Đó là cơ sở để cho phép thực hiện các món cho vay kịp thời, có khả năng hoàn trả, nhưng với lãi suất không cao như ở thị trường chợ đen. 2.2.3.Chính sách xây dựng cơ sở hạ tầng sản xuất và xuất khẩu gạo Theo quy định thì vùng sản xuất nguyên liệu tập trung gắn với cơ sở chế biến, tiêu thụ nông sản hàng hóa có hợp đồng tiêu thụ nông sản hàng hóa được ngân sách nhà nước hỗ trợ một phần về đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng( đường giao thông, thủy lợi, điện … ), hệ thống chợ bán buôn, kho bảo quản, mạng lưới thông tin thị trường, các cơ sở kiểm định chất lượng nông sản hàng hóa.( nguồn từ số 80/2002/ QD – TTg ngày 24 tháng 06 năm 2002). Cụ thể chính sách này được thực hiện như sau: Thứ nhất, cơ sở hạ tầng trong khâu sản xuất nông nghiệp. Khi nói đến cơ sở hạ tầng nông nghiệp nói chung và sản xuất lúa gạo nói riêng, trước tiên cần quan tâm đến hệ thống thủy lợi. Nhờ chính sách này mà về cơ bản chúng ta đã kiến tạo được hệ thống kênh mương tưới tiêu nước phục vụ sản xuất lúa gạo tương đối hoàn chỉnh, xong hiện nay các hệ thống này đã quá cũ và đang xuống cấp, đặc biệt một số nơi còn lúng túng trong việc quản lý, khai thác và tu bổ hệ thống công trình thủy lợi đã có. Trong thời gian tới, theo kinh nghiệm của một số địa phương, để nâng cao hiệu quả khai thác và không ngừng tu bổ nâng cấp hệ thống thủy lợi đã có, nên tiến hành tư nhân hóa các công trình thủy lợi nội đồng. Hình thức phổ biến mà nhiều địa phương áp dụng là tổ chức đầu thầu các công trình thủy lợi nhỏ. Quá trình đó đã phục vụ tưới tiêu nước tốt hơn, ngăn chặn tình trạng xuống cấp của các công trình, từng bước nâng cấp công trình đã được đấu thầu. Ngoài hệ thống kênh mương nội đồng đã có, Nhà nước cần tiếp tục đầu tư mới một số công trình thủy lợi đầu mối, hệ thống hồ đập thủy lợi…nhằm tăng cường năng lực sản xuất lúa gạo. Thứ hai, cơ sở hạ tầng trong các khâu sau thu hoạch lúa gạo. Hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ các khâu sau thu hoạch lúa gạo đã được chú ý đến trong vài năm gần đây. Nhưng do nhiều nguyên nhân, nên hệ thống đó vẫn cò xa mới đáp ứng được yêu cầu giảm tổn thất sau thu hoạch, nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu. Đây là điểm bất cập mà chính sách này chưa đề cập để giải quyết nó. Đặc biệt ở vùng đồng bằng sông Cửu Long- nơi sản xuất trên 50% sản lượng thóc của cả nước, hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật sau thu hoạch còn thiếu trầm trọng. Nếu chúng ta giảm được 30% tổn thất sau thu hoạch so với mức tổn thất hiện nay, thì sẽ thu được sản lượng từ 810 đến 850 ngàn tấn thóc. Ngoài ra còn có thể nâng cao đáng kể chất lượng gạo xuất khẩu mà kết quả đó đưa lại thu nhập cũng tương đương hàng trăm ngàn tấn thóc. Hiện nay, 3 khâu có tổn thất cao nhất là: phơi sấy, bảo quản, xay sát. Tổn thất ở 3 khâu này chiếm tới 70% tổng lượng tổn thất sau thu hoạch. Do đó, thời gian tới, cần tập trung hoàn thiện các yếu tố sau: một là có hệ thống phơi, sấy thóc sau thu hoạch vì thực tế chủ yếu chúng ta làm khô thóc bằng ánh nắng mặt trời để giảm độ ẩm của thóc. Hai là có công nghệ bảo quản thóc trên cơ sở áp dụng công nghệ và thiết bị bảo quản kín gạo trắng, gạo lật và một số chế phẩm vi sinh, các chế phẩm từ thực vật có tác dụng diệt côn trùng mà không gây độc hại cho người và gia súc. Ba là nâng cao hệ thống xay sát gạo. Hệ thống này chúng ta đã có nhiều vượt bậc so với trước kia, nếu có thể trong tương lai chúng ta sẽ cố gắng tiếp cận được với công nghệ xay xát trên thế giới. 2.2.4.Chính sách thực hiện giải pháp đồng bộ khoa học kỹ thuật cho sản xuất ở vùng sản xuất gạo xuất khẩu. Ở các vùng sản xuất gạo cho xuất khẩu, việc triển khai các tiến bộ khoa học kỹ thuật phải được tiến hành một cách đồng bộ, nhằm nâng cao hiệu quả của toàn bộ quá trình sản xuất. Những giải pháp kỹ thuật cần tiến hành đồng bộ bao gồm: 2.2.4.1. Giải pháp về giống lúa Đây là giải pháp cần đi trước một bước kể cả trong nghiên cứu triển khai và trong việc áp dụng vào thực tiễn, nhằm tạo ra những tiền đề cơ bản cho các giải pháp kỹ thuật khác phát huy hiệu quả, đồng thời tạo tiền đề cải tiến cơ cấu sản xuất nông nghiệp. Hiện tại chúng ta đã có nhiều trung tâm nghiên cứu về giống lúa có năng suất và chất lượng tốt mà phù hợp với điều kiện thời tiết ở từng vùng để tránh các loại sâu bệnh hại lúa khi gieo trồng. Có thể thấy rằng trong các giải pháp thâm canh sản xuất lúa, giải pháp về giống đã đạt được nhiều thành công nhất. Chúng ta đã có những bước tiến nhanh và vững chắc trong lĩnh vực này. Thời gian tới cần tiếp tục theo hướng cơ bản mà ta đã và đang tiến hành về công tác giống. Tuy nhiên để có thể đạt kết quả cao hơn trong lĩnh vực này, cần hoàn thiện một số khía cạnh sau đây: Một là, xúc tiến nhanh việc bình tuyển các loại giống lúa đặc sản của các địa phương, từ đó hình thành quỹ gen về giống lúa chất lượng cao để xuất khẩu. Hai là, hoàn thiện hệ thống quản lý nhà nước về giống lúa theo hướng: rút ngắn thời gian từ khâu thử nghiệm ra sản xuất đại trà, đồng thời vẫn giữ được độ an toàn khi đưa các giống mới ra sản xuất đại trà. Ba là, hình thành hệ thống nhân giống lúa thích hợp để thường xuyên thay giống lai tạp bằng giống thuần cho nông dân, do phần lớn các giống lúa mới đều bị xuống cấp nhanh, dễ bị lai tạp. Bốn là, mỗi vùng, tỉnh, huyện cần nghiên cứu để xác định được cơ cấu giống lúa, chủng loại lúa thích hợp với nhu cầu của thị trường ngoài nước. 2.2.4.2.Giải pháp về phân bón Đây là giải pháp kỹ thuật cần phải tiến hành đồng bộ với giải pháp về giống lúa. Vì rằng, phần lớn các loại giống lúa mới, kể cả một số giống lúa đặc sản đều chịu được cường độ thâm canh cao thậm chí chúng còn đỏi hỏi phải được gieo trồng, trong điều kiện đó các loai giống lúa mới có thể đạt hiệu quả kinh doanh cao. Hướng giải quyết công tác phân bón cho sản xuất lúa trong các năm tới nên chú trọng những điểm chính như sau: Trước hết, trong vài ba thập kỷ tới chúng ta cần thiết và có thể vẫn duy trì việc sử dụng các loại phân hữu cơ truyền thống bón lúa( phân lợn, phân trâu bò….). Tính cần thiết của hướng này thể hiện ở chỗ: yêu cầu kỹ thuật canh tác lúa phải có phân hữu cơ bón cùng với loại phân vô cơ. Hơn nữa, đây là loại phân có giá thành rẻ hơn rất nhiều so với các loại phân vô cơ được bán trên thị trường và tương đối sẵn có ở hầu hết các vùng trồng lúa gạo. Giá thành rẻ rất phù hợp với khả năng kinh tế của nông dân, vừa giảm được chi phí sản xuất lúa, vừa năng cao chất lượng gạo và khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam trên thị trường quốc tế. Tính khả thi của hướng này thể hiện ở chỗ: sử dụng loại phân chuồng bón ruộng lúa không sợ gây ô nhiễm môi trường, không làm bẩn sản phẩm. Trong khi đó các loại phân vô cơ trên thị trường có nhiều loại phân kém chất lượng, khi bón có không mang lại hiệu quả thậm chí gây ô nhiễm môi trường và sản phẩm. Nhà nước đã có nhiều biện pháp hơn để thắt chặt quản lý các doanh nghiệp sản xuất phân bón, nhằm kiểm soát chất lượng các loại phân vô cơ và khuyến khích bà con sử dụng phân hữu cơ cho sản xuất để tiết kiệm chi phí mà lại có hiệu quả cao hơn. Thứ hai, ngay từ bây giờ chúng ta nên đặt vấn để và chuẩn bị điều kiện chuyển dịch cơ cấu phân bón giữa các loại phân hóa học với phân hữu cơ công nghiệp và phân vi sinh theo hướng tăng dần tỉ trọng hai loại phân bón phân vi sinh và phân hữu cơ công nghiệp. Vì các nước phát triển họ đang có hướng chuyển dịch từ sử dụng mức độ cao phân hóa học sang sử dụng các loại phân vi sinh và phân hữu cơ công nghiệp là chủ yếu. Thứ ba, cần tăng cường sản xuất và nhập khẩu các loại phân bón hóa học tổng hợp. Bằng cách đó vừa để nâng cao hiệu quả sử dụng, vừa chống lối bón phân đơn điệu của nông dân ta: chỉ bón phân đạm, coi nhẹ các loại phân lân, kali và các yếu tố vi lượng khác. Đây là cách đi t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24944.doc
Tài liệu liên quan