Đề án Những đặc điểm chung của thị trường EU và các biện pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may của các doanh nghiệp Việt Nam sang thị trường đầy tiềm năng này

MỤC LỤC

Trang

Lời nói đầu 1

Nội dung 5

Chương I: Giới thiệu về thị trường EU và cơ hội xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường EU của các doanh nghiệp Việt Nam 5

I. Thị trường EU. 5

1. Sự hình thành của thị trường EU. 5

2. Nhu cầu và năng lực sản xuất hàng dệt may của EU 6

2.1 Nhu cầu về hàng dệt may của thị trường EU. 6

2.2 Năng lực sản xuất hàng dệt may. 7

II. Nhu cầu nhập khẩu hàng dệt may của EU và cơ hội xuất khẩu hàng dệt may vào EU của các doanh nghiệp Việt Nam. 7

1. Nhu cầu nhập khẩu hàng dệt may của EU. 7

2. Cơ hội xuất khẩu hàng dệt may của các doanh nghiệp Việt Nam vào thị trường EU. 9

Chương II: Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may của các doanh nghiệp Việt Nam sang thị trường EU và các giải pháp thúc đẩy. 14

I. Các quy định pháp luật về hàng dệt may nhập khẩu vào thị trường EU. 14

1. Các quy định về thuế. 15

2. Các quy định phi thuế quan. 17

2.1 Tiêu chuẩn về chất lượng. 18

2.2.Tiêu chuẩn xanh-sạch. 20

2.3 Chính sách chống bán phá giá. 20

2.4.Giấy phép nhập khẩu 20

2.5 Về hạn ngạch nhập khẩu. 21

2.7. Một số vấn đề khác mà các doanh nghiệp cần quân tâm khi “làm ăn” với EU. 24

II. Hệ thống các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường EU. 26

1. Hệ thống các doanh nghiệp Việt Namxuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU. 26

2. Sức cạnh tranh của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam trên thị trường EU. 27

III. Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường EU. 29

1. Tình hình xuất khẩu hàng dệt may trong một số năm gần đây. 29

2. Cơ cấu hàng dệt may xuất khẩu sang thị trường EU. 37

3. Hình thức xuất khẩu 38

IV. Đánh giá tình hình xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU của các doanh nghiệp Việt Nam. 38

1. Những thuận lợi trong săn xuất và xuất khẩu hàng dệt may của các doanh nghiệp Việt Nam. 39

1.1.Thuận lợi về nguồn lao động. 39

1.2. Thuận lợi về giá cả. 39

1.3. Thuận lợi từ phía thị trường EU. 39

2. Những tồn tại trong xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU của các doanh nghiệp Việt Nam. 40

2.1. Về cơ cấu mặt hàng. 40

2.2. Về hình thức xuất khẩu. 40

2.3. Về xây dựng thương hiệu sản phẩm. 41

2.4. Về mẫu mã và chất lượng sản phẩm . 42

2.5 Khó khăn từ phía thị trường EU. 43

2.6. Về đối thủ cạnh tranh. 43

2.7.Thiết bị sản xuất và nguyên phụ liệu. 44

2.8.Tiêu chuẩn xanh- sạch. 45

V. Xu hướng phát triển thị trường dệt may EU và mục tiêu phát triển của Việt Nam. 46

1. Mục tiêu xuất khẩu hàng dệt may của các doanh nghiệp Việt Nam trong những năm tới. 46

2. Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU. 47

2.1. Nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí và bán với giá cả cạnh tranh nhất. 50

2.2 .Giải pháp hoàn thiện hệ thống nghiên cứu và thu thập thông tin về thị trường EU. 52

2.3. Giải pháp mở rộng hệ thống kênh phân phối. 53

2.4.Xây dựng thương hiệu hàng dệt may của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường EU. 56

2.5. Tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại. 58

2.6.Nhóm giải pháp về nguồn cung ứng 59

2.7. Nâng cao sức cạnh tranh. 61

2.8.Giải pháp về tiêu chuẩn xanh-sạch 62

2.9.Các chính sách khác của Chính phủ. 65

Kết luận 67

Tài liệu tham khảo 68

 

doc68 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1685 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Những đặc điểm chung của thị trường EU và các biện pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may của các doanh nghiệp Việt Nam sang thị trường đầy tiềm năng này, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dệt may của Trung Quốc không những đã đe doạ ngành công nghiệp dệt may các nước nhập khẩu lớn mà còn gây ảnh hưởng không nhỏ đến nhiều nước xuất khẩu dệt may khác, trong đó có Việt Nam. 6 tháng đầu năm 2005, xuất khẩu dệt may của Việt Nam liên tục giảm. Giá trị xuất khẩu các mặt hàng quản lý bằng hạn ngạch sang thị trường Mỹ chỉ đạt 783 triệu USD, giảm gần 10% so cùng kỳ năm 2004. Tốc độ tăng trưởng năm 2005 của toàn ngành còn khoảng 10% so với mức 20% của các năm trước. Điều gây sốc lớn lại chính là sự giảm sút kim ngạch xuất khẩu sang thị trường EU và các doanh nghiệp Việt Nam vẫn không thể tận dụng cơ hội xoá bỏ hạn ngạch với EU. III. Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường EU. 1. Tình hình xuất khẩu hàng dệt may trong một số năm gần đây. EU là thị trường xuất khẩu hàng dệt may theo hạn ngạch lớn nhất của Việt Nam. Từ năm 1980, Việt Nam xuất khẩu hàng dệt may sang một số nước thành viên EU như Đức, Pháp, Anh. Xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU đặc biệt phát triển mạnh mẽ kể từ khi có Hiệp định buôn bán hàng dệt may. Cụ thể, sau khi hiệp định này được ký ngày 15/12/1992 và có hiệu lực vào năm 1993, từ chỗ hầu như bị cấm vận, nhóm hàng này của Việt Nam xuất khẩu vào EU đến năm 1999 đạt 555,1 triệu USD và năm 2000 tăng lên 609 triệu USD. Tháng 3/2000 Việt Nam đã tiến hành đàm phán với EU tăng khối lượng lên 4324 tấn, đơn vị sản phẩm tăng 15 triệu, đạt mức tăng 25%, giá trị sản phẩm tăng khoảng 120 triệu tăng 20% so với năm 1999. Hiệp định buôn bán hàng dệt may từ khi có hiệu lực (1993) được thực hiện cho đến nay đã nhiều lần được gia hạn và điều chỉnh tăng hạn ngạch. Theo hiệp định này, hàng năm Việt Nam được xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường EU với lượng hàng 21.939 đến 23.000 tấn. Cùng với ưu đãi ngày càng nhiều của phía EU dành cho Việt Nam trong hiệp định buôn bán hàng dệt may sửa đổi, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường EU tăng nhanh. Tận dụng những ưu đãi về nhiều mặt của EU kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU không ngừng tăng: Năm 1993 đạt 259 triệu USD, năm 1995 đạt 350 triệu, USD năm 1998 đạt 650 triệu. Trong đó xuất khẩu sang thị trường Đức chiếm 49,9% kim ngạch, Anh chiếm 9,4%, Pháp chiếm 10,8%, Tây Ban Nha 5,1%, Bỉ 6,1%… Năm 2004 tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam đạt khoảng 4 tỷ USD trong đó thị trường EU chiếm gần 1/4 tổng kim ngạch tăng 6% so với năm 2003. Trong 9 tháng đầu năm kim ngạch xuất khẩu sang EU đạt hơn 608 triệu USD. Đức là quốc gia nhập khẩu nhiều nhất chiếm 27% tổng kim ngạch tiếp đến là Anh tăng 54% đạt 105 triệu USD chiếm 17% tổng kim ngạch, Thuỵ Điển đạt 13 triệu USD . Mức độ sụt giảm kim ngạch trên thị trường các nước thành viên EU là khá thấp. Đây là một tín hiệu tốt cho thấy hàng dệt may Việt Nam đã dần chiếm được lòng tin của người tiêu dùng Châu Âu. Ngày 1/1/2005 EU đã thực hiện việc dỡ bỏ hạn ngạch đối với hàng dệt may Việt Nam đây có thể coi là một thuận lợi lớn. Tuy nhiên tình hình xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU lại có dấu hiệu sụt giảm. Đặc biệt là 4 tháng đầu năm kim ngạch xuất khẩu sang EU giảm 15% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó một số thị trường chính giảm đáng kể như Đức giảm 20,6%, Pháp và Tây Ban Nha giảm 30%, I-ta-lia giảm 39%. Đến tháng 5 xuất khẩu hàng dệt may sang EU mới lấy lại được đà tăng trưởng. Theo báo cáo thì 6 tháng đầu năm 2005 xuất khẩu sang EU chỉ tăng 3,6% so với cùng kỳ 2004 và đạt 348 triệu USD. Bảng 7: Giá trị xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường EU qua các năm. Đơn vị: Triệu USD Năm 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Giá trị 1150 1503 1450 1746 1893 1975 2710 3630 4385,6 5140 Nguồn: Tổng cục thống kê và bộ thương mại. Bảng 8:Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang EU Đơn vị : Triệu USD Năm Xuất khẩu vào EU Tăng (%) So với tổng kim ngạch 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 298 355 428 460 546 605 609 607 551,9 600 633 820 19,2 19,1 20,6 7,5 18,7 10,8 7,4 -7,9 -9,8 11,11 6 30 54,2 47,3 37,2 34,1 40,4 35,96 35,7 _ _ _ _ _ Nguồn: Tổng cục hải quan và bộ thương mại Trong tháng 1/2006, kim ngạch xuất khẩu tăng so với cùng kỳ năm 2005 nhưng lại giảm so với thỏng 12/2005. Năm 2006, theo Thông tư liên tịch của Bộ Thương mại - Bộ Công nghiệp số 18/2005/TTLT/BTM-CN ngày 21/10/2005 hướng dẫn giao và thực hiện hạn ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang EU năm 2006 quy định: kể từ ngày 1/1/2006 - 30/6/2006 liên Bộ sẽ cấp visa tự động cho tất cả 25 chủng loại mặt hàng dệt may. Như vậy, có thể nói cơ chế điều hành hạn ngạch dệt may năm 2006 là rõ ràng, thông thoáng, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp chủ động trong việc ký kết hợp đồng năm 2006. Mức độ sụt giảm kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường EU, thậm chí tới mức báo động ở một số thị trường lớn như Anh, Đức, Pháp, đó làm cho giới chuyên môn lo ngại mục tiêu xuất khẩu 5,2 tỷ USD của ngành dệt may trong năm nay sẽ khó vượt qua nếu không có những giải pháp quyết liệt ngay từ bây giờ. Trong quý I xuất khẩu hàng dệt may sang EU đã giảm 8% so với cùng kỳ năm ngoái, riêng thị trường Đức đã giảm tới 37,3%, Anh đã giảm 26%, Pháp đã giảm 20%. Một số chủng loại hàng dệt may trước đây vốn là thế mạnh chủ lực của Việt Nam nhưng nay cũng giảm tới 30-40%. Thực trạng này đã làm cho nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ có vốn đầu tư nước ngoài đứng trước nguy cơ thiếu đơn hàng. Nguyên nhân chính của tình trạng này là do các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đang vấp phải sự cạnh tranh khốc liệt của hàng dệt may Trung Quốc có giá rẻ và mẫu mã phong phú hơn. Bên cạnh đó việc Trung Quốc đã được dỡ bỏ hạn ngạch vào các thị trường trong khi Việt Nam vẫn phải chịu hạn ngạch cũng là rào cản lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam. Tại thị trường EU, hàng dệt may Việt Nam đã được bãi bỏ hạn ngạch, nhưng kim ngạch xuất khẩu cũng không tăng như dự báo ban đầu bởi Việt Nam vẫ bị áp đặt thuế nhập khẩu lên tới 12%. Xét về yếu tố chủ quan, với những điểm yếu cố hữu như sức cạnh tranh yếu, khả năng đáp ứng đơn hàng chậm, mẫu mã đơn giản, nguyên phụ liệu phải nhập khẩu nhiều, các doanh nghiệp Việt Nam khó lòng có thể cạnh tranh được với cả hàng dệt may của một số nước trong khu vực như: Inđônêxia, Lào, Campuchia- những nước được EU xem xét bãi bỏ thuế nhập khẩu. Một nguyên nhân nữa làm kim ngạch xuất khẩu của ngành giảm sút là cung cách điều hành hạn ngạch của các cơ quan quản lý còn chậm chạp, thiếu linh hoạt. Điển hình là quy chế chuyển nhượng hạn ngạch mặc dù đã được thủ tướng thông qua từ tháng 2 nhưng cho tới đầu tháng 4 mới được liên Bộ Thương mại, Công nghiệp ban hành, làm nhiều doanh nghiệp bị lỡ mất cơ hội có thể giành được đơn hàng này. Trong nhiều năm qua ngành dệt may Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng xuất khẩu tương đối cao – bình quân 20%/năm. Tuy nhiên kể từ khi các nước thành viên WTO được bãi bỏ hạn ngạch thì tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm sút. Sở dĩ đạt được tốc độ tăng trưởng trên là do ngành dệt may Việt Nam có một số lợi thế như: nguồn lao động dồi dào, khéo tay, chi phí lao động chưa cao; các doanh nghiệp Việt Nam đã xây dựng và giữ được chữ tín trong kinh doanh với nhiều nhà nhập khẩu lớn trên thế giới. Tuy nhiên ngành dệt may Việt Nam vẫn còn rất nhiều yếu tố bất lợi mà lại có rất ít lợi thế cho sự phát triển bền vững, đặc biệt là các ngành công nghiệp phụ trợ chưa phát triển tương xứng. Điều đó góp phần lý giải tại sao các doanh nghiệp Việt Nam vẫn phải chấp nhận gia công xuất khẩu là chính (chiếm tới 70-80% kim ngạch), hình thức thương mại bán sản phẩm chiếm tỷ trọng rất khiêm tốn. Do thiếu công nghiệp phụ trợ nên ngành dệt may Việt Nam gần như phụ thuộc vào thị trường thế giới cả xuất khẩu lẫn nhập khẩu. Cho đến thời điểm này ngoài lợi thế lao động ra, còn lại đều phải nhập khẩu với tỷ lệ lớn như: 100% máy móc thiết bị, phụ tùng; 100% xơ sợi hoá học; 90% bông xơ thiên nhiên chủ yếu nhập từ Mỹ; 70% vải các loại; 67% sợi dệt. Nhập khẩu các loại phụ liệu như chỉ may, khoá kéo... cũng chiếm từ 30% đến 70% tổng nhu cầu. Đây là một trong những điểm yếu nhất làm hạn chế khả năng cạnh tranh quốc tế của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam so với các cường quốc xuất khẩu dệt may như: Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan… Nếu so sánh cùng thời điểm này những năm trước, tỷ lệ thực hiện ở các Cat “nóng” thường rất cao, vượt 90% tổng nguồn. Ngoài phần vay mượn, chuyển nhượng của doanh nghiệp khác, các đơn vị có năng lực xuất khẩu lớn còn phải vay mượn thêm tiêu chuẩn của năm sau để giải quyết hàng xuất khẩu vào cuối năm. Cùng với những ưu đãi nóu trên, EU mở rộng có thể đặt ra nhiều thách thức mới cho quá trình phát triển và mở rộng quan hệ kinh tế, thương mại và đầu tư giữa Việt Nam với các nước trong khu vực thị trường rộng lớn này. Nổi lên là tự do hóa thương mại thông qua việc giảm dần thuế quan, tăng cường sử dụng các công cụ phi thuế hợp lệ đối với hàng nhập khẩu như hàng rào kỹ thuật, tiêu chuẩn vệ sinh, bảo vệ môi trường, sản phẩm từ mọi xuất xứ đều được cạnh tranh bình đẳng ở trong cùng điều kiện thương mại quốc tế. Đặc biệt, từ ngày 31-12-2004, Hiệp định thương mại về dệt - may (ATC) kết thúc, dỡ bỏ hạn ngạch dệt - may giữa các thành viên WTO, trong khi nước ta chưa trở thành thành viên của tổ chức này đã và đang là thử thách lớn đối với các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam đi EU. Như chúng ta đã biết, một trong những nhân tố tăng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt - may sang EU vì có cộng thêm kim ngạch xuất khẩu của các nước EU mới. Xuất khẩu hàng có hạn ngạch chiếm khoảng 90%, không có hạn ngạch khoảng 10% tổng kim ngạch xuất khẩu đi EU. Nhín chung, thị trường có hạn ngạch như EU, Hoa Kỳ, Ca-na-đa và Thổ Nhĩ Kỳ chiếm 70%, thị trường không hạn ngạch chiếm 30% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, trong đó xuất khẩu đi EU đạt gần 800 triệu USD, chiếm 18,4% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, tăng 40% so với năm 2003, xuất khẩu hàng dệt - may năm 2004 đạt kim ngạch cao, vượt kế hoạch đặt ra. Theo Hiệp định hàng dệt - may (ATC) từ 1-1-2005 các nước thành viên Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) là các quốc gia nhập khẩu hàng dệt - may phải ngừng áp dụng hạn ngạch đối với hàng dệt - may nhập khẩu từ các nước thành viên WTO khác. Việt Nam bị giới hạn số lượng bằng quota sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh không bình đẳng và nguy cơ bị mất dần khách hàng, thị phần có thể xảy ra. Đó sẽ là một điều bất lợi đối với xuất khẩu dệt - may Việt Nam bởi các nhà nhập khẩu sẽ tìm kiếm nguồn hàng cung cấp ổn định ở những nước không bị hạn ngạch do họ chủ động được số lượng, như vậy nguồn cầu về mặt hàng dệt - may của Việt Nam sẽ bị giảm đi, sẽ có nguy cơ mất dần thị phần do các nhà nhập khẩu sẽ di chuyển đơn đặt hàng đến các nước xuất khẩu không bị áp đặt hạn ngạch nữa. Điều đó nghĩa là nhịp độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt - may sang các thị trường truyền thống có áp đặt hạn ngạch khó có thể duy trì như hiện nay. Vừa qua, Việt Nam đã áp dụng việc bãi bỏ lệ phí hạn ngạch xuất khẩu hàng dệt - may sang thị trường EU và Ca-na-đa, đây là một thuận lợi để các doanh nghiệp xuất khẩu đi EU giảm chi phí trong xuất khẩu hàng hóa. Doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu hàng hóa sang EU nên chý ý kinh nghiệm của ngành dệt - may Đông Nam Á chuẩn bị chiến lược cho thời kỳ hậu ATC. Kế hoạch về một lộ trình ràng buộc pháp lý đang được đặt ra để tăng sức mạnh cho ngành dệt - may Đông Nam Á vì ngành này đang chuẩn bị cho sự cạnh tranh quyết liệt trong thị trường toàn cầu hóa. Trước đây các thành viên ASEAN đã đồng ý kiến nghị xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với hàng dệt - may từ năm 2007 ở Thái-lan, Singapore, Malaysia, Indonesia, Philippines, Brunei và ở các nước thành viên mới và kém phát triển là Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia và Myanmar sẽ được xáa bỏ vào năm 2010. Kế hoạch cũng nhằm tạo ra một "éường xanh" cho xe vận chuyển hàng dệt - may không bắt buộc phải dừng để kiểm tra tại biên giới. Mục đích của đề nghị nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh của ngành dệt - may nhằm đối phó với những thách thức trong bối cảnh thỏa thuận về dệt - may trên cơ sở Hiệp định về hàng dệt - may (ATC) của Tổ chức Thương mại thế giới hết hiệu lực vào cuối năm 2004 - Hiệp định này được ký năm 1995. Đối với các doanh nghiệp nhỏ, sự cạnh tranh sẽ là gay gắt giữa sản phẩm sản xuất trong nước với sản phẩm sản xuất từ các nước khác trong khu vực về các mặt sau : +Về chất lượng, đối với một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực thường gặp những trở ngại chính là quy định khắt khe về chất lượng sản phẩm, về quy định an toàn thực phẩm của các nước hay khu vực xuất khẩu. Thêm nữa, chủng loại hàng Việt Nam chưa đa dạng, đa số vẫn là hàng xuất khẩu thô chưa qua tinh chế, khả năng nắm bắt thị hiếu tiêu dùng của các doanh nghiệp còn yếu. Cụ thể như trong năm 2003, hàng Việt Nam nhập vào thị trường EU chỉ chiếm một tỉ lệ khiêm tốn như trà 1,8% thị phần, đồ gỗ chế biến 1% thị phần, rau quả chiếm tỉ lệ không đáng kể,…      +Về giá thành, do nguyên liệu trong nước không đủ cung ứng nhu cầu sản xuất nên phải nhập khẩu nguyên liệu từ nước ngoài, ngoài ra một số mặt hàng chủ yếu dùng để sản xuất, lắp ráp thành phẩm từ trong nước có mức thuế nhập khẩu cao, làm cho sản phẩm có giá thành tăng so với sản phẩm nhập. Cụ thể, đối với hàng điện tử lắp ráp trong nước, chính sách thuế nhập khẩu đối với linh kiện điện tử vẫn còn bất hợp lý, làm cho giá thành hàng điện tử lắp ráp trong nước không cạnh tranh nổi với hàng nhập nguyên chiếc. +Về quảng cáo, tiếp thị cạnh tranh: Hiện nay thị trường hàng hoá có tính cạnh tranh rất cao, do vậy các doanh nghiệp mới thành lập thường phải đầu tư nhiều tài chính cho vấn đề quảng cáo, tiếp thị sản phẩm. Việc quy định khống chế chi phí quảng cáo, tiếp thị không được quá 10% trong tổng chi phí được phép khấu trừ này, cũng làm cho doanh nghiệp có những khó khăn nhất định trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển sản xuất, kinh doanh.      Ngoài ra trong lĩnh vực quảng cáo trực quan, ngoài trời, cho đến nay vẫn chưa có văn bản quy định, hướng dẫn cụ thể. Riêng tại TP.HCM, quyết định 108/UB của UBND TP.HCM sau 2 năm thực hiện được đánh giá có những điểm chưa phù hợp, tạo ra sự phá rào của một số doanh nghiệp hoạt động dịch vụ quảng cáo, hoặc tạo ra khó khăn về giấy phép để thực hiện nhu cầu thiết yếu này.   +Về những bất hợp lý trong quy trình thực hiện chính sách thuế và hải quan: Vấn đề chậm hoàn thuế cho doanh nghiệp cũng có những điều phải nói. Nhiều doanh nghiệp tiến hành thực hiện quy trình hoàn thuế, đó phải qua những khâu thủ tục nhiêu khờ, thời gian kéo dài cả nửa năm hoặc hơn nữa, không đúng với thời gian quy định. Việc gian lận của một số ít doanh nghiệp cũng làm ảnh hưởng đến quy trình này, trong khi các cơ quan chức năng chưa có những biện pháp hiệu quả hơn để khắc phục. Sự khó dễ của cơ quan Hải Quan cũng là trở ngại đáng kể đối với doanh nghiệp, nhất là trong hoạt động giám định hàng hoá xuất nhập khẩu, áp mã thuế. +Về tình trạng doanh nghiệp nợ thuế bỏ trốn: Tình trạng này không chỉ xảy ra ở TP.HCM . Nhưng tính riêng TP.HCM việc các doanh nghiệp nợ thuế dây dưa hoặc bỏ trốn lên đến gần 400 tỷ đồng. Những biện pháp khắc phục của ngành Hải quan, Thuế, cảnh sát kinh tế chỉ là tạm thời để thu hồi thuế. 2. Cơ cấu hàng dệt may xuất khẩu sang thị trường EU. Cơ cấu hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang thị trường chủ yếu tập trung vào một số nhóm mặt hàng chính. Nhóm những sản phẩm chủ lực này chiếm hơn 70% giá trị kim ngạch. Trong đó bao gồm các sản phẩm như: áo jắckét chiếm 51,7%, sơ mi chiếm 11%, quần âu chiếm 5%, T-shirt và polo shirt chiếm 3,4%, áo len và áo dệt kim chiếm 3,9%. Các sản phẩm đòi hỏi kỹ thuật phức tạp, chất lượng cao như: váy, comple, các bộ quần áo vettông Việt Nam chưa sản xuất được hoặc sản xuất với tỉ lệ nhỏ. Áo Jackét là mặt hàng dệt may xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang EU. Trong 3 quý đầu năm nay, xuất khẩu mặt hàng này đó tăng 8,5% so với cựng kỳ, đạt 134,6 triệu USD, chiếm 28% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU. Trong đó xuất khẩu sang Đức đạt 2,6 triệu chiếc, trị giá 45,3 triệu USD; xuất sang Anh tăng tới 15,4% về lượng và 19% về trị giá, đạt 1,7 triệu chiếc. 3. Hình thức xuất khẩu Hình thức xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU được các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam sử dụng chủ yếu là hình thức xuất khẩu qua trung gian và gia công. Trong đó gia công chiếm tỷ trọng gần 80%. Theo phương thức này các doanh nghiệp dệt may Việt Nam nhập nguồn nguyên liệu bán thành phẩm của các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu nước ngoài (chủ yếu là Hàn Quốc, Singapo, Đài Loan, EU) để chế biến thành phẩm rồi giao lại cho họ để nhập khẩu vào thị trường EU. Hình thức này đem lại hiệu quả kinh tế rất nhỏ do các doanh nghiệp chỉ nhận được phí gia công và phụ thuộc hoàn toàn vào đơn đặt hàng gia công của nước ngoài. IV. Đánh giá tình hình xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU của các doanh nghiệp Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của các doanh nghiệp Việt Nam vào EU tăng với tốc độ bình quân khá cao, trung bình 20%/năm. Xuất khẩu của Việt Nam sang EU chiếm tỷ trọng trung bình gần 18% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 1995-2003. Việt Nam đó phát huy được lợi thế so sánh của mình trong việc tập trung xuất khẩu mặt hàng có thế mạnh này vào thị trường các nước EU. Vai trò của ngành dệt may đã góp phần không nhỏ trong việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Và cũng nhờ đẩy mạnh xuất khẩu hàng công nghiệp mà tiến trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngày càng nhanh, đặc biệt là sự thay đổi lớn trong cơ cấu công nghiệp – nông nghiệp – dịch vụ. Xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU các doanh nghiệp chúng ta có một số thuận lợi và khó khăn sau: 1. Những thuận lợi trong săn xuất và xuất khẩu hàng dệt may của các doanh nghiệp Việt Nam. 1.1.Thuận lợi về nguồn lao động. Việt Nam là một quốc gia có dân số đông khoảng 88 triệu người và chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Người dân Việt Nam vốn kiên trì, khéo tay, rất quen với các ngành thủ công truyền thống. Vì thế Việt Nam có nguồn lao động dồi dào rất phù hợp với ngành công nghiệp dệt may đòi hỏi số lượng lao động lớn và trình độ không cao. Bên cạnh đó Việt Nam là một quốc gia đang phát triển nên giá thuê nhân công tương đối thấp so với mặt bằng chung khu vực và thế giới, đây là cơ sở chính tạo ra lợi thế cạnh tranh cho hàng dệt may Việt Nam. 1.2. Thuận lợi về giá cả. Trên cơ sở nguồn lao động dồi dào với giá rẻ hàng dệt may Việt Nam có điều kiện rất tốt để hạ giá thành sản phẩm. Thực tế các doanh nghiệp dệt may Việt Nam thời gian qua đã tích cực tận dụng thế mạnh này để cạnh tranh với sản phẩm dệt may từ các quốc gia khác như Trung Quốc, ấn Độ… 1.3. Thuận lợi từ phía thị trường EU. Trước đây hàng dệt may Việt Nam xuất sang thị trường EU bị áp dụng một mức hạn ngạch nhất định. Điều này gây cản trở rất cho doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Mỗi năm các doanh nghiệp này chỉ được xuất sang EU một lượng hàng dệt may nhất định tuỳ theo lượng hạn ngạch mà thị trường EU cấp cho các doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên vào ngày 1-1-2005 EU đã dỡ bỏ hạn ngạch đối với hàng dệt may Việt Nam đây là điều kiện vô cùng thuận lợi cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam có năng lực sản xuất lớn tăng sản lượng xuất khẩu sang thị trường này. Bên cạnh đó trong hiệp định khung hợp tác Việt Nam- EU thì EU đã dành cho Việt Nam được hưởng quy chế tối huệ quốc (MFN) và đặc biệt là thuế quan phổ cập (GSP), điều này thực sự có ý nghĩa khi Việt Nam chưa gia nhập WTO. Hiệp định này còn tạo điều kiện cho Việt Nam có cơ hội tiếp cận thị trường EU đến mức cao nhất và dành cho Việt Nam những điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu hàng hoá vào EU. 2. Những tồn tại trong xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU của các doanh nghiệp Việt Nam. Khả năng mở rộng và phát triển xuất khẩu của Việt Nam sang EU là rất lớn, vấn đề đặt ra là Việt Nam cần phải nhanh chóng giải quyết những tồn tại và khắc phục các mặt hạn chế để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang EU phát triển tương xứng với tiềm năng kinh tế và đáp ứng nhu cầu nhập khẩu của thị trường EU. Một số mặt hạn chế mà các doanh nghiệp dệt may của nước ta gặp phải trong quá trình xuất khẩu sang thị trường EU là: 2.1. Về cơ cấu mặt hàng. Cơ cấu hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường EU còn rất đơn điệu, quy mô còn rất nhỏ. Các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may Việt Nam chủ yếu tập trung vào những mặt hàng quen thuộc dễ thu lợi nhuận. Nhóm những sản phẩm này chiếm tới hơn 70% giá trị kim ngạch. Các sản phẩm đòi hỏi kỹ thuật phức tạp, chất lượng cao như: váy, comple, các bộ quần áo vettông Việt Nam chưa sản xuất được hoặc sản xuất rất ít. Điều này khiến sản phẩm dệt may Việt Nam chưa đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng EU. 2.2. Về hình thức xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu hàng dệt may từ Việt Nam sang EU dự đoán có 10 năm kinh nghiệm, nhưng chủ yếu vẫn là xuất khẩu qua các doanh nghiệp trung gian của Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan... Hơn nữa, cho đến nay phần lớn các nhà sản xuất hàng dệt may của Việt Nam chủ yếu vẫn làm gia công cho nước ngoài nên chưa hiểu rõ được các thị trường cụ thể, chưa có nhiều khách hàng truyền thống và chưa xác định được mặt hàng truyền thống ở EU... Hình thức xuất khẩu hàng dệt may của các doanh nghiệp Việt Nam sang thị trường EU được các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam sử dụng chủ yếu là xuất khẩu thông qua gia công (chiếm tỷ trọng gần 80%). Theo phương thức này các doanh nghiệp dệt may Việt Nam nhập nguồn nguyên liệu bán thành phẩm của các doanh nước ngoài để chế biến thành phẩm rồi giao lại cho họ để nhập khẩu vào thị trường EU. Hình thức này đem lại hiệu quả kinh tế rất thấp do các doanh nghiệp chỉ nhận được phí gia công và phụ thuộc hoàn toàn vào đơn đặt hàng gia công của nước ngoài dẫn đến tình trạng rất thụ động trong sản xuất. 2.3. Về xây dựng thương hiệu sản phẩm. Hiện nay có rất ít doanh nghiệp dệt may Việt Nam xây dựng được thương hiệu cho sản phẩm của mình trên thị trường EU cũng như thị trường thế giới. Các nhãn hiệu sản phẩm dệt may của Việt Nam hầu như không được người tiêu dùng biết đến. Trong khi người tiêu dùng Châu Âu rất chú trọng đến thương hiệu sản phẩm. Họ thường gắn những thương hiệu nổi tiếng với sự đảm bảo về uy tín và chất lượng. Vì thế xây dựng thương hiệu cho mình là điều kiện không thể thiếu đối với bất cứ doanh nghiệp xuất khẩu dệt may nào muốn kinh doanh trên thị trường EU. Việc quảng bá sâu rộng đồng loạt, thương hiệu của các hàng hóa này bao gồm các thị trường trong nước và thị trường quốc tế là công việc hết sức quan trọng nhằm thu hút sự chú ý của người tiêu dùng. Đối với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam vẫn chưa nhận thức đúng vấn đề này ngoài những nguyên nhân chủ quan do chính doanh nghiệp thì còn rất nhiều những nguyên nhân khách quan khác mà bản thân các doanh nghiệp không giải quyết nổi đó là những rào cản trong xây dựng, bảo hộ thương hiệu hiện nay, là các chính sách thuế, giải quyết tranh chấp quyền sở hữu công nghiệp và công tác hỗ trợ xúc tiến thương mại cho doanh nghiệp ở nước ngoài,… mà những vấn đề này thuộc lĩnh vực quản lý của Nhà nước.  Việc bó khung chi phí quảng cáo đó ảnh hưởng đến khả năng mở rộng thị trường của doanh nghiệp do khung chi phí quảng cáo hiện nay 10% là không phù hợp với ngành dệt may đặc biệt các doanh nghiệp mới thành lập thì 10% là con số quá nhỏ bộ và bất cập. Vì vậy các doanh nghiệp này đó phải cố gắng xây dựng thương hiệu bằng hai lần chi phí: một lần cho chi phí quảng cáo, một lần đóng thuế thu nhập cho khoản vượt khung. Vì vậy, xây dựng thương hiệu cho hàng Việt thêm khó khăn hơn so với thương hiệu ngoại, từ việc xây dựng thương hiệu không được hoặc chậm sẽ dẫn đến những mất mát to lớn trong việc cạnh tranh trên thị trường.  Không ngừng sáng tạo trong sản xuất, kinh doanh, nhưng các doanh nghiệp chưa coi trọng việc đăng ký thương hiệu sản phẩm của mình. Các doanh nghiệp còn vắng mặt tại các hội chợ, các cuộc thi tại hội chợ trong nước kể cả đi ra nước ngoài, mà những cơ hội này tuy có tốn chi phí nhưng là để nhằm quảng bá thương hiệu của doanh nghiệp một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất.  2.4. Về mẫu mã và chất lượng sản phẩm . Hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam hiện nay con nghèo nàn, đơn điệu về chủng loại mẫu mã, chất lượng hàng còn thấp chưa đồng đều. Các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may chưa chú trọng đến việc cải tiến mẫu mã và nâng cao chất lượng sản phẩm của mình. Hầu hết họ chỉ tập trung sản xuất một số mặt hàng quen thuộc và dễ tiêu thụ, sử dụng công nghệ lạc hậu. Điều này làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường EU. 2.5 Khó khăn từ phía thị trường EU. EU là một trong số những thị trường có đòi hỏi rất cao về các tiêu chuẩn như: an toàn cho người sử dụng, tiêu chuẩn chất lượng, và tiêu chuẩn về lao động…Nếu doanh nghiệp dệt may vi phạm hoặc cố tình vi phạm thì có thể bị EU loại khỏi danh sách cấp giấy phép hoặc tịch thu các chứng chỉ chất lượng, tiêu chuẩn đã được EU cấp. Có thể nói đây là khó khăn lớn đối với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam chậm đầu tư và cải tiến về công nghệ. Ngoài ra khả năng cạnh tranh của hàng dệt may các quốc gia tr

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35782.doc
Tài liệu liên quan