Nhà nước ta quản lý nên kinh tế là nhà nước pháp quyền XHCN là nhà nước của dân do dân và vì dân. Thành tố quan trọng mang tính quyết định trong nền kinh tế hàng hoá vận hành trong nền kinh tế thị trường hiện đại là nhà nước tham gia vào các quá trình kinh tế. Nhưng khác với nhà nước của nhiều nền kinh tế trên thế giới, nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân, nhà nước công nông. Nhà nước của đại đa số nhân dân lao động, đặt dước sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Nó có đủ bàn lĩnh, khả năng và đang đổi mới để bảo đảm và giữ vững định hướng XHCN trong việc phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại ở nước ta. Sự khác biệt về bản chất nhà nước là một nội dung và là một điều kiện, một tiền đề cho sự khác biệt về mô hình kinh tế thị trường ở nước ta so với nhiều mô hình kinh tế thị trường khác hiện có trên thế giới.
28 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1464 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Những giải pháp để phát triển kinh tế hàng hoá Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kinh tế. Trong quá trình xây dựng nên kinh tế mới thì có thể xuất hiện thêm một số thành phần kinh tế khác: kinh tế nhà nước, kinh tế tư bản nhà nước.
+ Cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta.
Theo tư tưởng của Lênin và căn cứ vào điều kiện kinh tế của nước ta, tại Đại hội VIII của Đảng thì ở nước ta đang tồn tại 5 thành phần kinh tế:
Thành phần kinh tế nhà nước (kinh tế quốc doanh)
Thành phần kinh tế hợp tác xã
Thành phần kinh tế tư bản nhà nước
Thành phần kinh tế cá thể và tiểu thủ
Thành phần kinh tế tư bản tư nhân.
Thành phần kinh tế nhà nước
Khái niệm: đây là thành phần kinh tế tồn tại dựa trên chế độ sở hữu nhà nước đối với tư liệu sản xuất chủ yếu. Kinh tế nhà nước bao gồm 3 bộ phận sau:
Các doanh nghiệp nhà nước: đây là bộ phận quan trọng và chủ yếu nhất của thành phần kinh tế nhà nước, các doanh nghiệp này trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội.
Các ngành kinh tế thuộc sở hữu nhà nước: những ngành này thì nó cung cấp hàng hoá hoặc dịch vụ cho xã hội. Bao gồm: hệ thống cơ sở hạ tầng: giao thông, bưu điện…. Nó bao gồm toàn bộ hệ thống ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, các xí nghiệp liên doanh với các nước ngoài trong đó vốn của nhà nước chiếm tỷ lệ khống chế 51% trở lên.
Những lực lượng vật chất thuộc sở hữu nhà nước như là đất đai, các nguồn tài nguyên, khoáng sản, các vùng trời, vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam.
Sự hình thành: các doanh nghiệp nhà nước được hình thành như sau:
Nhà nước đầu tư vốn để xây dựng mới hoàn toàn từ đầu.
Nhà nước góp vốn để liên doanh với nước ngoài với tỷ lệ 51% trở lên.
Nhà nước quốc hữu hoá các xí nghiệp tư bản tư nhân.
Vai trò của kinh tế nhà nước: trong thời kỳ quá độ và trong nền kinh tế nhiều thành phần thì thành phần kinh tế nhà nước cần phải giữ được vai trò chủ đạo: kinh tế nhà nước phải trở thành đòn bẩy để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội. Kinh tế nhà nước phải giữ vai trò là người mở đường hướng dẫn và hỗ trợ cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển. Kinh tế nhà nước phải trở thành lực lượng vật chất chủ yếu để nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô toàn bộ nền kinh tế. Kinh tế nhà nước phải tạo được nền tảng cho chế độ xã hội mới tức là phải trở thành mẫu mực về mọi mặt. Năng suất lao động cao, phải tận dụng hết công suất, máy móc, công cụ, làm đủ trách nhiệm với nhà nước, bảo vệ tốt môi trường.
Kinh tế nhà nước ở nước ta hiện nay mặc dù là nắm giữ một lượng tài sản tương đối lớn (chiếm 2/3 tài sản quốc gia, 80% lực lượng lao động lành nghề) nhưng kinh tế nhà nước hoạt động chưa hiệu quả: năng suất lao động thấp, chưa sử dụng hết máy móc, thiết bị, nhiều xí nghiệp là ăn thua lỗ, phá sản làm thất thoát vốn của nhà nước. Hiện nay nước ta có 600 doanh nghiệp nhà nước, 35% làm ăn có lãi còn lại 60% làm ăn không có lãi trong đó 25% liên tục bị lỗ. Vì vậy để củng cố thành phần kinh tế nhà nước thì: nhà nước phải đầu tư một cách đồng bộ cả vốn, công nghệ, nhân lực cho những nhân lực kinh tế đang nắm những khâu then chốt của nền kinh tế quốc dân. Ví dụ: ngành điện, dầu khí… Thành lập các Tổng công ty nhà nước để tạo thành những ngành mũi nhọn trong nền kinh tế. Tích cực đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá một số doanh nghiệp nhà nước. Biến doanh nghiệp nhà nước thành các công ty cổ phần. Đối với những doanh nghiệp thường xuyên làm ăn thua lỗ thì giải quyế bằng bán hoặc cho thuê hoặc cho tổ chức đấu thầu, khoán.
Thành phần kinh tế hợp tác
Khái niệm: đây là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất nó bao gồm các đơn vị kinh tế do cá nhân những người lao động tự nguyện góp vốn, góp sức kinh doanh theo nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi. Nó tồn tại dưới các dạng sau: hợp tác xã nông nghiệp, hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, hợp tác xã mua bán, hợp tác xã tín dụng.
Đặc điểm: các hợp tác xã được hình thành với những quy mô và mức độ khác nhau tuỳ theo sự phát triển của lực lượng sản xuất. Người lao động thì được tự do trong việc tham gia cũng như rút lui khỏi hợp tác xã.
Nếu xét về hiệu quả kinh tế thì hợp tác xã ở nước ta làm ăn hiệu quả hơn. Nhiều hợp tác xã có doanh thu lớn, thu nhập xã viên cao, hàng hoá có sức cạnh tranh. Tuy nhiên ở nước ta hiện nay vẫn còn những hợp tác xã làm ăn thua lỗ, hiệu quả kém, thu nhập thấp, nhiều tiêu cực tron quản lý.
Phương pháp củng cố: phải giải quyết thoả đáng vấn đề tư hữu về tư liệu sản xuất. Nhất là đất đai trong nông nghiệp phải thực hiện giao quyền sử dụng lâu dài đối với đất, rừng, mặt nước cho các hộ sử dụng. Phát triển các hình thức hợp tác đa dạng trong nhiều lĩnh vực: giao thông vận tải, xây dựng chế biến nông lâm hải sản… Mở rộng các hình thức kinh tế hợp tác nhưng phải triệt để theo đúng nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng dân chủ và việc tổ chức các hợp tác xã này phải theo đúng luật hợp tác mới ban hành năm 1997. Nhà nước có những biện pháp cần thiết hỗ trợ, giúp đỡ các hợp tác xã về vốn, về nhân lực, về tiêu thụ sản phẩm.
Thành phần kinh tế cá thể.
Khái niệm: đây là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất dựa trên lao động của bản thân người sản xuất nên không có hiện tượng bóc lột lao động. Thành phần này chịu sự tác động của quy luật giá trị và tác động của thị trường.
Đặc điểm: do làm chủ về tư liệu sản xuất và sức lao động nên thành phần này có thể nói là họ rất năng động, linh hoạt dễ thích nghi với thị trường, vì vậy thành phần này có thể khai thác triệt để các thế mạnh về vốn, về lao động, về tay nghề của từng cá nhân, từng gia đình hoặc từng cộng đồng để làm ra nhiều hàng hoá trong xã hội.
Vị trí: trong suốt thời kỳ quá độ thì thành phần này giữ một vị trị rất quan trọng nó cùng với một số ngành công nghiệp nhẹ khác cung cấp những mặt hàng tiêu dùng thiết yếu cho nhân dân: lương thực, thực phẩm, đồ dùng gia đình…
Thực trạng phát triển: trước năm 1986 thành phần này bị phân biệt đối xử do đó không được phát triển. Sau năm 1986 thành phần này được coi trọng và được khuyến khích phát triển với tền gọi là kinh tế gia đình.
Thành phần kinh tế tư bản tư nhân
Khái niệm: đây là thành phần kinh tế dựa trên chế độ tư hữu tư bản về tư liệu sản xuất có thuê mướn lao động nên có hệ thống bóc lột lao động làm thuê: Các xí nghiệp tư nhân của người Việt Nam, các xí nghiệp tư nhân của người Việt Nam và người nước ngoài cùng cộng tác, các công ty và các tổ chức làm dịch vụ.
Thế mạnh: quá nhiều phương pháp linh hoạt để huy động vốn phục vụ sản xuất kinh doanh. Nó có khả năng sử dụng khoa học kỹ thuật công nghệ mới và đổi mới nhanh các thiết bị. Nó có trình độ quản lý cao, có kinh nghiệm trong việc điều hành sản xuất vì vậy có thể nói thành phần này có vai trò lớn trong việc phát triển sản xuất.
Nhược điểm: do chạy theo lợi nhuận tối đa nên nhiều doanh nghiệp tư bản tư nhân có việc làm trái pháp luật: bóc lột công nhân quá mức, bắt công nhân làm quá giờ, tăng ca. Họ kinh doanh những mặt hàng trái với đăng ký trong giấy phép, trốn thuế, gian lận trong thương mại.
Thái độ của nhà nước ta: Một mặt vẫn tạo điều kiện thuận lợi cho thành phần kinh tế phát triển nhưng mặt khác cần phải tăng cường kiểm soát, giám sát những hành động của thành phần này đưa các thành phần này theo con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước.
Thành phần kinh tế tư bản nhà nước
Khái niệm: đây là thành phần kinh tế được ra đời dựa trên lý luận về chủ nghĩa tư bản nhà nước của Lênin.
Sự hình thành: được hình thành trên cơ sở nhà nước và các tư bản cùng góp vốn kinh doanh và nó tồn tại dưới các dạng sau:
Các xí nghiệp công ty hợp doanh tồn tại ở nước ta sau năm 1954 ở Miền Bắc và sau 1975 ở Miền Nam.
Các liên doanh nước ngoài: sản xuất ô tô, lắp ráp xe máy, sản xuất các mặt hàng điện tử.
Nhà nước cho thuê tài sản: cho thuê đất.
Vai trò và tác dụng: trong thời kỳ quá độ ở nước ta thành phần này giữ vai trò là những hình thức kinh tế giữ sinh ra để chuyển biến từ những thành phần kinh tế phi XHCN thành thành phần kinh tế XHCN: nó tạo thêm công ăn việc làm, làm tăng thêm sản phẩm xã hội và nó là điều kiện để chúng ta tiếp xúc với công nghệ mới, cách thức quản lý mới và qua đây ta hoà nhập được với thế giới.
ii. tính tất yếu khách quan phải phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta
Đại hội VI Đảng Cộng Sản Việt Nam đã xác định: "cần có chính sách sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế …Đó là giải pháp có ý nghĩa chiến lược, là sự vận dụng quan điểm của Lênin coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ". Hội nghị lần thứ 6, Đảng ta xác định rõ hơn: "chính sách kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên XHCN…" Tới Đại hội toàn quốc lần thứ VII qua thực tiến 5 năm đổi mới, Đảng ta khẳng định: "Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước" coi đó là một trong những phương hướng mà Đảng và nhà nước ta nắm vững trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.Tổng kết 10 năm đổi mới, tại Đại hội Đảng lần thứ VIII, Đảng ta một lần nữa lại khẳng định: "tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN"
Nền kinh tế nhiều thành phần tồn tại và phát triển ở nước ta là tất yếu khách quan bởi vì: nền kinh tế nhiều thành phần là một cái tồn tại khách quan của lịch sử và trong thời kỳ quá độ thì có những thành phần kinh tế vẫn có lợi cho sự phát triển đất nước: kinh tế cá thể. Phát triển như vậy nhằm thực hiện nhu cầu của quy luật mà là quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và sự phát triển của lực lượng sản xuất. Phát triển kinh tế nhiều thành phần ở nước ta là nhằm cho sản xuất phát triển liên tục không bị gián đoạn. Phát triển như vậy là nhằm tạo ra sự cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế trong cơ chế thị trường hiện nay
1. Do yêu cầu của việc phát triển lực lượng sản xuất và thực chất của nó là chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn (XHCN).
Về phương diện kinh tế, có thể khái quát rằng lịch sử phát triển sản xuất và đời sống xã hội của nhân loại đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức kinh tế thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội, hai thời đại kinh tế khác hẳn nhau về chất. Đó là thời đại kinh tế tự nhiên, tự cung, tự cấp; và thời đại kinh tế hàng hoá.
Kinh tế tự nhiên là kiểu tổ chức kinh tế xã hội đầu tiên của nhân loại. Đó là phương thức sinh hoạt kinh tế ở trình độ thấp ban đầu là sử dụng những tặng vật của tự nhiên và sau đó được thực hiện thông qua những tác động trực tiếp vào tự nhiên để tạo ra những giá trị sử dụng trong việc duy trì của con người. Nó được bó hẹp trong mỗi quan hệ tuần hoàn khép kín giữa con người và tự nhiên. kinh tế tự nhiên lấy quan hệ trực tiếp giữa con người và tự nhiên mà tiêu biểu là giữa lao động và đất đai làm nền tảng. Hoạt động kinh tế đó gắn liền với xã hội sinh tồn, với kinh tế nông nghiệp, tự cung, tự cấp. Nó đã tồn tại và thống trị trong các xã hội: Cộng sản nguyên thuỷ, nô lệ, phong kiến và tuy không còn giữ địa vị kinh tế. Kinh tế tự nhiên, hiện vật,sinh tồn, tự cung, tự cấp, gắn liền với kém phát triển và lạc hậu. Kinh tế hàng hoá bắt đầu bằng kinh tế hàng hoá đơn giản, ra đời từ khi chế độ công sản nguyên thuỷ, dựa trên hai tiền đề cơ bản đó là có sự phân công lao động xã hội và có sự tách biệt về kinh tế do chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Chuyển từ kinh tế tự nhiên, tự cung, tự cấp sang kinh tế hàng hoá là đánh dấu bước phát triển rất lớn của lực lượng sản xuất, bước chuyển sang thời đại kinh tế của sự phát triển, thời đại văn minh của nhân loại.
Sự ra đời và phát triển của kinh tế hàng hoá là quá trình kinh tế khách quan. Nó bắt đầu khi kinh tế tự nhiên phát triển với trình độ làm xuất hiện những tiền đề của kinh tế hàng hoá. Trong lịch sử những quan hệ hiện vật, tự nhiên và quan hệ hàng hoá tồn tại đan xen và mâu thuẫn với nhau. Sự xuất hiện của kinh tế hàng hoá cũng chính là sự xuất hiện tiền đề phủ định kinh tế tự nhiên và khẳng định kinh tế hàng hoá. Mỗi bước phát triển của kinh tế hàng hoá là một bước đẩy lùi kinh tế tự nhiên. Như vậy, trong quá trình vận động và phát triển kinh tế hàng hoá đã phủ định dần kinh tế tự nhiên như vậy trong quá trình vận động và phát triển, kinh tế hàng hoá đã phủ định dần kinh tế tự nhiên và khẳng định mình là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội độc lập. Quá trình xuất hiện, vận động và phát triển của kinh tế hàng hoá diễn ra với sự tác động mạnh mẽ của những tiền đề sau: phân công lao động xã hội, sự độc lập tương đối về kinh tế giữa mọi người, lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ, hệ thống thông tin và giao thông vận tải.
2. Do nước ta hiện nay tồn tại nhiều thành phần kinh tế.
//////////////////Nền kinh tế nước ta trước Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI gắn liền với việc thực thi chính sách công cộng hoá, hiện vật hoá trong cơ chế quản lý hành chính tập trung. Cùng với thời gian, tính chất và cơ chế quản lý đó ngày càng bộc lộ thêm nhiều khuyếm khuyết. Vì vậy, đến Đại hội VII, quan điểm phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần được thực hiện trên thực tế trong chính sách và cơ chế quản lý kinh tế đổi mới. Đường lối phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần tất yếu đưa đến sự cấu trúc lại nền kinh tế, từng bước chuyển nền kinh tế thuần khiết chủ yếu với hai thành phần kinh tế là nhà nước và tập thể sang nền kinh tế thị trường hỗn hợp gồm nhiều thành phần, nhiều khu vực kinh tế và nhiều hình thức sở hữu tồn tại đan xen lẫn nhau.
Sở dĩ nước ta hiện nay tồn tại nhiều thành phần kinh tế vì: hiện nay ở nước ta còn tồn tại nhiều trình độ phát triển của lực lượng sản xuất: hiện đại có, thô sơ có, nửa cơ khí có vì vậy việc thiết lập quan hệ sở hữu với tư liệu sản xuất cũng phải đa dạng do đó ở nước ta còn nhiều thành phần kinh tế. Trong quá trình xây dựng nền kinh tế mới thì có thể xuất hiện thêm một số thành phần kinh tế khác: kinh tế nhà nước, kinh tế tư bản nhà nước. ở nước ta hiện nay, quan hệ, hình thức, quy mô sở hữu đối với tư liệu sản xuất luôn là căn cứ cho việc phân định các thành phần kinh tế khác nhau. ở dạng tổng quát nhất, có thể nói rằng trong nền kinh tế nước ta đang tồn tại 3 hình thức sở hữu cơ bản: sở hữu nhà nước (toàn dân), sở hữu tư nhân và sở hữu hỗn hợp (gồm giữa nhà nước với nước ngoài, giữa nhà nước với tư nhân nước ngoài và trong nước, giữa nhà nước và tư nhân trong nước, giữa tư nhân với tư nhân, giữa nhà nước vói tư nhân và người lao động..). Từ ba hình thức sở hữu tư bản đó đã hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và những loại hình doanh nghiệp đa dạng và phong phú.
3. Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta nó đòi hỏi phải nâng cao đời sống nhân dân:
Mặc dù nền kinh tế nước ta đang nằm trong tình trạng lạc hậu và kém phát triển nhưng khi nước ta chuyển sang phát triển kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường thì thế giới đã chuyển sang giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại. Bởi vậy chúng ta không thể và không nhất thiết phải trải qua giai đoạn kinh tế hàng hoá giản đơn và giai đoạn kinh tế thị trường tự do mà đi thẳng vào phát triển kinh tế thị trường hiện đại. Đây là nội dung và sự yêu cầu của sự phát triển rút ngắn. Mặt khác thế giới vẫn đang nằm trong thời đại qúa độ từ CNTB lên CNXH, cho nên sự phát triển kinh tế xã hội nước ta phải theo định hướng XHCN là cần thiết, khách quan và cũng là nội dung, yêu cầu của sự rút ngắn. Sự nghiệp "dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh" vừa là mục tiêu, vừa là nội dung nhiệm vụ của việc phát triển kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo đinh hướng XHCN ở nước ta. Đảng và nhà nước khuyến khích mọi người dân trong xã hội làm giầu một cách hợp pháp. Dân có giầu thì nước mới mạnh, nhưng dân giầu phải làm cho nước mạnh, đảm bảo độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia.
Nhà nước ta quản lý nên kinh tế là nhà nước pháp quyền XHCN là nhà nước của dân do dân và vì dân. Thành tố quan trọng mang tính quyết định trong nền kinh tế hàng hoá vận hành trong nền kinh tế thị trường hiện đại là nhà nước tham gia vào các quá trình kinh tế. Nhưng khác với nhà nước của nhiều nền kinh tế trên thế giới, nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân, nhà nước công nông. Nhà nước của đại đa số nhân dân lao động, đặt dước sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Nó có đủ bàn lĩnh, khả năng và đang đổi mới để bảo đảm và giữ vững định hướng XHCN trong việc phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại ở nước ta. Sự khác biệt về bản chất nhà nước là một nội dung và là một điều kiện, một tiền đề cho sự khác biệt về mô hình kinh tế thị trường ở nước ta so với nhiều mô hình kinh tế thị trường khác hiện có trên thế giới.
Mở cửa, hội nhập nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia là một nội dung quan trọng của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường ở nước ta. Quá trình phát triển của nó đi liền với xã hội hoá nền sản xuất xã hội. Tiến trình xã hội hoá trên cơ sở phát triển của kinh tế thị trường đi liền với xã hội hoá nền sản xuất xã hội. Tiến trình xã hội hoá trên cơ sở của phát triển nền kinh tế thị trường là không có biên giới quốc gia về phương diện kinh tế. Một trong những đặc trưng quan trọng của kinh tế thị trường hiện đại là việc mở rộng giao lưu kinh tế với nước ngoài. Xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế với những khu vực hoá và toàn cầu hoá đang ngày càng phát triển và trở thành xu thế tất yếu trong thời đại của cuộc cách mạnh khoa học và công nghệ hiện nay. Tất cả các nước trên thế giới, dù muốn hay không muốn phải ít nhiều đều bị lôi cuốn, thu hút vào các quan hệ kinh tế quốc tế. Tranh thủ thuận lợi và cơ hội, tránh nguy cơ tụt hậu xa hơn và vượt qua thách thức là yêu cầu nhất thiết phải thực hiện. Để phát triển trong điều kiện của nền kinh tế thị trường hiện đại. Việt Nam không thể đóng cửa, khép kín nền kinh tế trong trạng thái tự cung, tự cấp mà phải mở cửa, hộin nhập với nền kinh tế thế giới. Sự mở cửa, hội nhập được thực hiện trên 3 nội dung chính là: thương mại, đầu tư và chuyển giao khoa học công nghệ. Tuy nhiên, sự mở cửa hội nhập không có nghĩa là sự hoà tan, đánh mất mình mà phải trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh và không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, giữ vững độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\
III -Những giải pháp để phát triển kinh tế hàng hoá Việt Nam
1-Nội dung của kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa
chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là yêu cầu khách quan, phát triển lực lượng sản xuất xã hội. Quá trình đó phù hợp với xu thế của thời đại và phù hợp với nguyện vọng của nhân dân ta. Quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, theo đinh hướng xã hội chủ nghĩa tất yếu đòi hỏi phải nghiên cứu những đặc trưng của mô hình kinh tế hướng tới quá trình hình thành phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một quan hệ phức tạp, có nhiều khó khăn, không nên quan niệm giản đơn và nóng vội, cần phải tuân thủ những tính quy luật của quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường. Quá trình đó trải qua các giai đoạn sau đây:
-Giai đoạn quá độ chuyển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta .
Về mặt lịch sử giai đoạn này được bắt đầu từ năm 1979 với mốc lịch sử rất quan trọng là nghị quyết hội nghị BCH trưng ương lần thứ VI ( khoá VI ) tháng 9 năm 1979. Về mặt logic, giai đoạn này bắt đầu từ việc hình thành và củng cố những đơn vị sản xuất hàng hoá theo đúng nghĩa nhằm tạo ra mối quan hệ vừa tự chủ, vừa lệ thuộc lẫn nhau giữa các chủ thể sản xuất.
Nội dung chủ yếu của giai đoạn này là khắc phục tính hiện vật của quan hệ trao đổi, hình thành quan hệ hàng hoá tiền tệ trên thị trường .
Nội dung trên được thực hiện với những giải pháp chủ yếu sau:
Một là, hình thành và củng cố những đơn vị sản xuất hàng hoá nhằm chuyển quan hệ trao đổi có tính hiện vật sang quan hệ hàng hoá tiền tệ. Cả về lý luận và thực tiễn đều cho thấy không thể có được nền kinh tế hàng hoá nếu như không có đơn vị sản xuất hàng hoá. Những tưởng kinh tế quan trọng của hội nghị TW VI ( khoá VI ) có liên quan tới giải pháp trên là:
Thừa nhận thành phần kinh tế tư nhân và thị trường tự do là bộ phận của nền kinh tế quốc dân và của thị trường xã hội .
Bảo đảm quyền tự chủ về tài chính cho các cơ sở kinh tế. Nhà nước để những cơ sở này được chủ động phát triển sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Nhấn mạnh lợi ích cá nhân người lao động và lợi ích của các đơn vị sản xuất cơ sở.
Bãi bỏ chế độ giao nộp nông sản đối với nông dân, chuyển sang chế độ thu mua nông sản theo hợp đồng 2 chiều.
Thực hiện nghị quyết hội nghị Trung ươgn VI sản xuất được bung ra kể cả sản xuất của quốc doanh, tập thể, tư nhân. Tuy nhiên trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá vẫn chưa có những thay đổi đáng kể.
Hai là: Đẩy mạnh phân công lao động xã hội nhằm mở rộng thị trường
Ba là: chuyển quan hệ sở hữu có tính đơn nhất sang quan hệ sở hữu có tính đa dạng với nhiều hình thức sở hữu khác nhau.
Quan hệ sở hữu về TLSX được coi là một điều kiện không thể thiếu được của điều kiện tồn tại và phát triển nền kinh tế hàng hoá. ở nước ta để khắc phục tình trạng vô chủ, lãi giả, lỗ thật trong các doanh nghiệp nhà nước, để tạo ra sự tự do kinh tế và hình thành nhiều nhà kinh doanh giỏi thích ứng với cơ chế thị trường, tất yếu phải đa dạng hoá các hình thức sở hữu. Nó bắt nguồn từ trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội và xu hướng chung của thế giới. Trong điều kiện của nước ta chúng ta đã điều chỉnh cơ cấu sở hữu theo những hướng sau:
Phát huy hình thức kinh tế hộ nông dân, thợ thủ công bằng cách tạo thị trường cho chúng, trước hết là thị trường nông thôn rộng lớn.
Xây dựng khu vực kinh tế công cộng với chức năng là bảo đảm sự ổn định và là cơ sở cho sự phát triển các thành phần kinh tế. Khư vực kinh tế công cộng tập trung những ngành kinh tế then chốt: năng lượng, dầu khí, hệ thống giao thông vận tải, thông tin, an ninh quốc gia, bảo vệ môi trường… cơ cấu của khu vực kinh tế này không phải là cố định, nhưng nó phải luôn luôn có trình độ công nghệ tiên tiến và trình độ quản lí tốt.
Hình thành và phát triển các công ty cổ phần. Đây là xu thế khách quan của nền kinh tế thị trường. ở nước ta hình thức công ty cổ phần còn phát sinh từ quá trình điều chỉnh khu vực kinh tế nhà nước.
Bốn là đổi mới chính sách kinh tế nhằm chuyển các quan hệ kinh tế theo chiều dọc sang các quan hệ kinh tế theo chiều ngang.
Trong các chính sách kinh tế chúng ta đã đặc biệt quan tâm chính sách giá cả. Đã từng bước thực hiện tự do hoá giá cả. Thực chất của việc điều chỉnh giá cả ỏ nước ta trong những năm 80 là thay cơ chế 2 giá bằng cơ chế 1 giá, cơ chế 2 giá thực chất là 2 cơ chế xử lý giá cả: Một là cơ chế xử lý giá cả trên cơ sở tập trung tính toán giá cả và điều chỉnh giá theo luật hành chính. Hai là, cơ chế sử lý giá cả trong quan hệ hạch toán theo nguyên tắc thoả thuận trên thị trường. Cả hai cơ chế đó đều đạt được mục tiêu làm chủ giá cả. Nhưng chúng khác nhau về cách thực hiện. Cơ chế đó dựa vào quyền lực hành chính là chủ yếu, còn cơ chế thứ hai lại dựa vào quan hệ thị trường là chủ yếu. Mục đích của việc điều chỉnh giá cả là nhằm từ bỏ cơ chế cũ chuyển sang cơ chế thị trường. Đây là khâu quan trọng tạo tiền đề cho đổi mới cơ chế trong các lĩnh vực khác như tài chính tiền tệ, tiền lương, quản lý thị trường. Việc tự do hoá giá cả làm cho sản xuất thích ứng nhạy cảm với nhu cầu thị trường và đem lại sức sống mới cho sản xuất.
-Giai đoạn phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN:
Đại hội VI của đảng năm 1986 đã đặt nền móng vững chắc cho quan điểm phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN ở nước ta quan điểm này được tái khảng định rõ hơn ở đại hội lần thứ VII và lần thứ VIII của đảng ta. Nội dung chủ yếu của giai đoạn phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN ở nước ta là: Phát triển và mở rộng quan hệ hàng hoá tiền tệ tạo tiền đề cho kinh tế hàng hoá phát triển.
Giai đoạn hình thành và phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN:
Nội dung chủ yếu của giai đoạn này là tiền tệ hoá các quan hệ kinh tế tạo lập cơ sở kinh tế cho các quy luật kinh tế của kinh tế thị trường phát huy tác dụng một cách đầy đủ, phát triển kinh tế trong nước và hoà nhập vớ kinh tế thế giới. Nội dung này được thực hiện với những giải pháp then chốt sau đây:
Một là, phát triển cơ cấu kinh tế mở nhằm hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân. đây là giải pháp có tính thời đại. Cần lựa chọn các dự án đầu tư nước ngoài trên các mặt: kinh tế, môi trường, công nghệ theo hướng bảo đảm lợi thế so sánh và chủ quyền của nước ta.
Hai là, hoàn thiện và phát triển kinh tế thị trường các yếu tố sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn, về sức lao động và các điều kiện vật chất khác cho sản xuất; Cần tạo các đi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28273.doc