Do tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực nước ta phải giảm thuế quan và dỡ bỏ hàng rào phi thuế quan, thì hngf hoá nước ngoài sẽ ào ạt đổ vào nước ta, chèn ép nhiều đơn vị sản xuất kinh doanh, trong nước kéo theo hệ quả xấu về việc làm và đời sống của lao động. Do đó nên chúng mở rộng quan hệ với các nước đang phát triển hơn hẳn về nhiều mặt, thì nước ta sẽ khó tránh khỏi bị lệ thuộc về kinh tế, và tè chỗ không giữ vững được kinh tế mà có thể đi đến chỗ không giữ vững được quyền độc lập, tự chủ nữa. Để hoá giải vấn đề này cần có cách nhìn theo quan điểm mới: cần nhận rõ độc lập tự chủ về thực chất là mỗi nước tự lựa chọn con đường và mô hình phát triển của mình, tự quyết định các chủ trương và các chính sách kinh tế- xã hội, tự đề ra mục tiêu chiến lược và kế hoạch trong thời kỳ và các biện pháp thực hiện các mục tiêu đó. Nhưng độc lập tự chủ hoàn toàn không có nghĩa là đóng cửa với thế giới. Việc mở rộng hợp tác kinh tế hai bên cùng có lợi giữa nước ta với các nước, các tổ chức quốc tế, sẽ tạo nên một hình thái đan xen lợi ích với nhau, do đó mà chúng ta có thêm thế lực để giữ vững độc lập tự chủ của đất nước. Đặc biệt khi thực hiện phương châm “đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại”, chúng ta sẽ thúc đẩy việc hình thnàh nên một hệ thống chằng chịt các mối quan hệ quốc tế để hạn chế và đẩy lùi âm mưu hành động của một số thế lực nào đó buộc chúng ta phải phụ thuộc thái quá vào họ.
45 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3147 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Những giải pháp hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả cho Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
í 2/3 lực lượng lao động quốc gia .Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam hiện nay chiếm khoảng 90% tổng số các loại hình doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế ,đóng góp khoản 25% GDP ,giải quyết việc làm cho gần 8 triệu lao động ,chiếm khoảng 79,2% tổng số lao động phi nông nghiệp và chiếm khoảng 22,5% lực lượng lao động của cả nước,đóng gốp khoảng 31% giá trị tổng sản lượng công nghiệp .Hơn nữa,mỗi doanh nghiệp được xem là tế bào của nền kinh tế quốc gia .Trong đó các doang nghiệp vừa và nhỏ chính là cái rễ nhỏ bám vào đất giúp cho thân cây đứng vưãng hơn.Đất nước đang phát triển với nguồn lực hạn chế nhưng chúng ta lại có ợi thế của “người đi sau” trong việc phát triển loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ.Điều này hết sức quan trọng ,bởi lẽ bên cạnh việc phát huy nội lực của quốc gia ,đặc biệt là tạo một số lượng lớn công việc với chi phí không quá cao,nó còn đảm bảo cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế mà lại không quá phụ thuộc vào bên ngoài.
10. Những kết quả tích cực của thuế xuất nhập khẩu .
Trong xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới và khu vực ,nước ta đã và đang từng bước hoà mình để phát triển kinh tế và mở rộng quan hệ đối ngoại.Việc buôn bán ,trao đổi hàng hoá với các nước trong khu vực và trên thế giới ngày càng trỏ nên đa dạng và phong phú hơn. Để quản lý được các hoạt động mua bán với các nước ,Nhà Nước đã có nhiều biện pháp ,trong đó thuế xuất nhập khẩu là một trong những công cụ chủ yếu .Thông qua việc ban hành và thực thi chính sách thuế xuất nhập khẩu ,chúng ta có thể nắm đủ tình hình xuất nhập khẩu hàng hoá ,tạo điều kiện cho Nhà Nước có căn cứ để ra chính sáchngoại thương đúng đắn,cân đối cung cầu hàng hoá xuất nhập khẩu và cân bằng cans cân thanh toán.Thuế xuất nhập khẩu là một trong những nguồn thu quan trọng của ngân sách Nhà Nước .Luật thuế xuất khẩu ,thuế nhập khẩu của vm đã được quôc hội thông qua ngày 26/12/1991.Từ đó đến nay đã được sửa đổi,bổ sung cho phù hợp với yêu cầu khách quan của qúa trình phát triển kinh tế và thực tiễn trong bối cảnh hội nhập kinh tế khu vực .Thuế xuất nhập khẩu được thiết kế hợp lý hơn ,mức thuế nhập khẩu tố đa có xu hướng giảm xuống ,hiện nay mức tối đa hạ xuống còn 60%.Công tác quản lý thực thi chính sách thuế xuất nhập khẩu được hoàn thiện hơn.Thị trường xuất khẩu của nước ta được mở rộng và ngày càng tăng so với trước đây.Nhiều thị trường xuất khẩu mới được mở ra như EU,Nhật Bản,Hồng Kông…Hàng xuất khẩu Việt Nam đã bắt đầu xâm nhập vào thị trường Mỹ và đang tiến hàn khôi phục các thị trường truyền thống như Nga,các nước Đông Âu…
Có thể nói rằng,do hệ thống chính sách ,cơ chế quản lý trong lĩnh vực xuất nhập khẩu được theo hướng ngày càng đơn giản,thông thoáng hơn đã có tác dụng tích cực thúc đảy sản xuất để xuất khẩu tăng nhanh và hướng nhập khẩu phục vụ tốt cho sản xuất và đời sống.trong thời gian qua,kin\m ngạch xuất nhập khẩu càng tăng.Chính sách thuế xuất khẩu ,thuế nhập khẩu nước ta đã có tác dụng tích cực trong việc quản lý các hoạt động xuất nhập khẩu ,mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại,nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất xuất nhập khẩu ,góp phần phát triển ,bảo vệ sản xuất trong nước ,hướng dẫn tiêu dùng và tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
11.Vai trò của chất lượng trong quá trình hội nhập.
Nếu như trong những năm trước đây,các quốc gia còn giựa vào hàng rào thuế quan ,hàng rào kỹ thuật để bảo vệ nền sản xuất trong nước thì ngày nay,trong bối cảnh quốc tế hoá mạnh mẽ của thời đại hậu công nghiệp ,với sự ra đời của Tổ chức thương mại quốc tế WTO và thoả ước về hàng rào kỹ thuật đối với thương mại ,mọi nguồn lực và sản phẩm ngày càng tự do vượt biên giới quốc gia .
Theo xu thế toàn cầu hoá ,là một nước đang phát triển nằm trong khu vực có tốc độ tăng trưởng cao ,Việt Nam đã và đang có những nỗ lực vượt bậc để nhanh chóng hội nhập về kinh tế với các nứơc trong khu vực cũng như trên thế giới .Sự ra nhập của Việt Nam và các tổ chức AFTA,APEC…vừa là cơ hội,vừa là thách thứuc đối với các doanh nghiệp và các nhà quản lý Việt Nam .Là cơ hộ vì các doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện học hỏi kinh nghiệm quản lý ,ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật của các nước ,từ đó có khả năng rút ngắn quãng đường mà các nước đi trước đã đi qua nhằm đạt đến sự thịnh vượng.Tuy nhiên ,vì các công ty ở các quốc gia phát triển đã tiến rất xa trong việc cung cấp sản phẩm và dịch vụ có chất lượng cao,nên làm thế nào để sản phẩm và dịch vụ Việt Nam có thể đứng vững trên thị trường ở thị trường các nước trong khu vực cũng như trên thế giới khi hàng rào thuế quan được bãi bỏ và thay vào đó là hàng rào kỹ thuật .Đó là một thách thức lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.
Hơn lúc nào hết,các doanh nghiệp Việt Nam đã cảm nhận được áp lực ngày càng tăng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.Lúc này ,các chiến lược cạnh tranh về giá sẽ dần không còn phù hợp nữa,đặc biệt là khi Trung Quốc gia nhập WTO thì ưu thế cạnh tranh về giá nhân công rẻ ở Việt Nam sẽ không còn,và như vậy,giải pháp khả thi cho các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chính là cạnh tanh bằng chất lượng .Có thể nói,chỉ có cạnh tranh về chất lượng mới có thể đảm bảo sự tồn tại và phát triển lâu dài của cácdoanh nhiệp. Nói cách khác, trong bối cảnh hiện nay, để có thể hội nhập về kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới, đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải định hướng vào việc giải quyết vấn đề về chất lượng.
1.2 Thương mại Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế.
Quá trình “đổi mới” kinh tế ở Việt Nam được khởi đầu từ năm 1986 đến nay đã đạt được những thành tựu quan trọng. Trong đó đa dạng hoá và đa phương hoá các mối quan hệ với nước ngoài là một trong những thành tưụ nổi bật của chính sách đổi mới. Song song với việc không ngừng mở rộng thị trường và thúc đẩy các hoạt động hoạt động xuât nhập khẩu, tronh nhiều năm qua Việt Nam đã có nhiều những đổi mới rất cơ bản trong chính sách và ccơ chế thương mại. Từ 1988 cho đến nay, Việt Nam đã thực hiện nhiều cải cách tự do hoá tronh nội thương và ngoại thương. Cơ chế điều hành xuất nhập khẩu cũng đã có nhiều thay theo chiều hướng tích cực như mở rộng các điều kiện ưu đãi về xuất khẩu, việc điều chỉnh tỷ giá đồng Việt Nam với các ngoại tệ mạnh cá linh hoạt hơn. Tuy nhiên Việt Nam vẫn cần tiếp tục cải cách các chính sách và các quy định liên quan đến thương mại quốc tế nhất là về thuế, thuế quan và hàng rào phi thuế quan... Cùng với những thủ tục hành chính rườm rà tronhnhiều khâu đặc biệt là hải quan .. theo hướng đơn giản thuận lợi cho các hoạt động thương mại quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế mạnh mẽ chắc chắn sẽ đem lại cho Việt Nam nhiều lợi ích, mở ra nhiều hợp tác song phương, đa phương trong lĩnh vực phát triển thương mại, thu hút đầu tư chuyển giao công nghệ kinh nghiệm quản lý ... Giúp cho Việt Nam tham gia tích cực hơn vào sự tham gia quốc tế và cơ chế hợp tác trong quá trình toàn cầu hoá.
Bên cạnh những thuận lợi,Việt Nam cũng đang đứng trước những thách thức lớn trước hết là hoạch định chính sách kinh tế thương mại ở tầm vĩ mô làm sao để nền kinh tế phát triển bền vững trong một môi trường kinh doanh ổn định. Bộ máy hành chính và quản lý kinh tế thương mại phải được cơ cấu lại cho gọn nhẹ, phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu mới về kỹ năng công nghệ và kinh nghiệm quản lý. Những ưu tiên hàng đầu có tầm quan trọng đặc biệt là phải nhanh chóng xây dựng chiến lược, điều chỉnh cơ cấu và nâng cao năng lực cạnh tranh. Thách thức và khó khăn rõ ràng là rất lớn, song Việt đã đang và sẽ nỗ lực để thực hiện những cam kết song phương và đa phương, đưa thương mại Việt Nam sang một giai đoạn phát triển mới trong thế kỷ XXI.
II. Thực trạng của sự hội nhập của kinh tế Việt Nam.
Những thách thức của quá trình hội nhập.
Mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đem lại lợi ích mà còn đặt nước ta trước nhiều thách thức, nếu chúng ta không có biện pháp tốt để vượt qua thì sự thua thiệt cả về kinh tế và xã hội có thể rất lớn.
Nền kinh tế nước ta có điểm xuất phát thấp.
Trải qua những cuộc chiến tranh lâu dài, khốc liệt và cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, Việt Nam tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với xuất phát điểm thấp về trình độ phát triển kinh tế. Điều đó không chỉ thể hiện ở GDP bình quân đầu người thấp, tiết kiệm thấp tích luỹ và thu nhập bình quân đầu người chưa cao, mà còn ở cả cơ cấu nghành của nền kinh tế, cả ở trình độ phát triển cơ cấu ngành của nền kinh tế, cả ở trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và công nghệ sản xuất còn rất thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, tỷ lệ tích luỹ và đầu tư cao cơ sở hạ tầng khá phát triển và một khu vực kinh tế năng động...lại tham gia vào quá trình hội nhập trước chúng ta vài thập kỷ , các nước trong khu vực đã phát triển mạnh mẽ liên tục tuy có gặp khủng hoảng tronh thời gian vừa qua nhưng đã trở lại phát triển nhanh đang làm tăng nguy cơ tụt hậu của nền kinh tế Việt Nam so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Năng lực kỹ thuật công nghệ của nền kinh tế Việt Nam rất lạc hậu so vớ i thế giới, vì vậy hàng hóa sản xuất ra không có năng lực canh tranh trên thị trường thế giới và thậm chí ngay trên thị trường nội địa. Nếu Việt Nam không nhanh chóng đổi mới thiết bị công nghệ, đổi mới cơ chế quản lý, nâng cao chất lượng hàng hoá hạ giá thành sản phẩm nâng cao khả năng cạnh tranh hàng hoá thì sẽ có hàng loạt doanh nghiệp phá sản gây nên hậu quả nguy hại về kinh tế xã hội.
1.2. Giữ vững độc lập tự chủ .
Do tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực nước ta phải giảm thuế quan và dỡ bỏ hàng rào phi thuế quan, thì hngf hoá nước ngoài sẽ ào ạt đổ vào nước ta, chèn ép nhiều đơn vị sản xuất kinh doanh, trong nước kéo theo hệ quả xấu về việc làm và đời sống của lao động. Do đó nên chúng mở rộng quan hệ với các nước đang phát triển hơn hẳn về nhiều mặt, thì nước ta sẽ khó tránh khỏi bị lệ thuộc về kinh tế, và tè chỗ không giữ vững được kinh tế mà có thể đi đến chỗ không giữ vững được quyền độc lập, tự chủ nữa. Để hoá giải vấn đề này cần có cách nhìn theo quan điểm mới: cần nhận rõ độc lập tự chủ về thực chất là mỗi nước tự lựa chọn con đường và mô hình phát triển của mình, tự quyết định các chủ trương và các chính sách kinh tế- xã hội, tự đề ra mục tiêu chiến lược và kế hoạch trong thời kỳ và các biện pháp thực hiện các mục tiêu đó. Nhưng độc lập tự chủ hoàn toàn không có nghĩa là đóng cửa với thế giới. Việc mở rộng hợp tác kinh tế hai bên cùng có lợi giữa nước ta với các nước, các tổ chức quốc tế, sẽ tạo nên một hình thái đan xen lợi ích với nhau, do đó mà chúng ta có thêm thế lực để giữ vững độc lập tự chủ của đất nước. Đặc biệt khi thực hiện phương châm “đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại”, chúng ta sẽ thúc đẩy việc hình thnàh nên một hệ thống chằng chịt các mối quan hệ quốc tế để hạn chế và đẩy lùi âm mưu hành động của một số thế lực nào đó buộc chúng ta phải phụ thuộc thái quá vào họ.
1.3 Giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc.
Một thách nữa không kếm phần quan trọng được đặt đối với chúng ta trong tiến trình mở cửa và hội nhập quốc tế là làm sao giữ gìn được bản sắc văn hoá dân tộc đảm bảo cho sự phát triển hài hoà và lành mạnh của đất nước. Đứng trước tình hình đó chúng ta không thể lui về chính sách đóng cửa, khước từ trao đổi, giao lưu với nước ngoài. Trái lại với bản lĩnh của dân tộc trong quá trình giao lưu văn hoá với thế giới suốt mấy ngàn năm, chúng ta có thể vững tin vàchủ động lựa chọn, tiếp thu các yếu tố nhân bản hợp lý, khoa học tiến bộ của văn hoá các nước cả ở phương Đông va phương Tây để làm giàu thêm bản sắc văn hoá dân tộc cực kỳ quan trọng khơi dậy các tiềm năng sáng tạo làm nên những giá trị vật chất và tinh thần mới trong công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Đồng thời, chúng ta kiên quyết phản đối sự tiếp nhận xô bồ mọi thứ gọi là “tân kỳ” của văn hoá ngoại lai mà không phân biệt hay dở tốt xấu để đi đến chỗ mất gốc và lai căng về văn hoá, gây hậu quả xấu về tư tưởng, đạo đức, lối sống của các tầng lớp dân cư. Tóm lại, chỉ có trên cơ sởgiữ gìn phát huy những giá trị ưu tú của văn hoá dân tộc, đi đôi với tiếp thu tinh hoa văn hoá của nhân loại thì văn hoá Việt Nam ngày nay mới có thể đóng được vai trò vừa là mục tiêu vừa là động lực và hệ điều tiết của sự phát triển kinh tế xã hội.
Một số vấn đề đặt ra trong quan hệ hợp tác kinh tế – Việt Nam và khu vực.
2.1. Trong hoạt động xuất nhập khẩu và thu hút FDI, mức độ lệ thuộc của Việt Nam vào một khu vực thị trường là quá cao. Trên quan điểm thị trường, sự lệ thuộc này bao hàm một mức độ rủi ro tiềm năng cao của chiến lược phát triển hướng ngoại. Vấn đề đặt ra là Việt Nam cần mau chóng mở rộng thị trường với các quốc gia với các khu vực khác. Việt Nam đã có thị trường truyền thống thuộc các nước Đông Âu và thị trường Tây Âu và đặc biệt với Mỹ là một đối tác mạnh, cần phải tạo mức tăng trưởng xuất khẩu cao hơn so với những năm qua. Trong bối cảnh toàn cầu và khu vực không ổn định và nền kinh tế Việt Nam cũng đang gặp những khó khăn đáng kể trong việc mở rộng thị trường xuất khẩu, sự gia tăng xuất khẩu quả thực sẽ có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc tạo ra một sức thúc đẩy phát triển mới cho nền kinh tế Việt Nam. Về vấn đề này, kinh nghiệm quốc tế cũng đã chỉ ra những bài học bổ ích. Trong lịch sử không ai bác bỏ được rằng thành tích tăng trưởng cao lâu bền đến mức thần kỳ của các nền kinh tế Đông á, từ Nhật Bản cho đến Hàn Quốc, Đài Loan hay gần đây hơn là Thái Lan đều có sự đóng góp to lớn của sự hỗ trợ của thị trường Mỹ đối việc thực thi chiến lược tăng trưởng vào xuất khẩu mà các nền kinh tế này theo đuổi. Ngay cả sự tăng trưởng kỳ diệu cuả nền kinh tế Trung Quốc trong khoảng hai thập niên gần đây cũng có phần quan trọng bắt nguồn từ yếu tố khai thông với thị trường Mỹ. Đây là một gợi ý thực tiễn rất đáng lưu tâm khi hoạch định và thực thi các chiến lược về thị trường và đối tác thương mại, trong khuôn khổ chiến lược tổng thể tăng trưởng hướng về xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn tới.
2.2 Với sức cạnh tranh sản phẩm còn quá thấp so với yêu cầu của việc mở cửa và hội nhập.
Việt Nam hiện đã là thành viên của khu vưc thương mại tự do ASEAN(AFTA). Năm 2006 là thời điểm Việt Nam cam kết thực hiện đầy đủ các quy định của AFTA( bãi bỏ hàng rào phi thuế quan và hạ thấp mức thuế quan xuống còn 0- 5% cho đa số các hàng hoá trao đổi trong khu vực). Điều đó có nghĩa là Việt Nam chấp nhận cuộc chơi cạnh tranh thị trường bằng các luật lệ ngang bằngvới các nền kinh tế phát triển hơn và có sức cạnh tranh mạnh hơn trong khu vực. Xuất phát từ tương quan cạnh tranh giữa các nền kinh tế thành viên AFTA trong giai đoạn tớ, có thể nói vượt qua tình huống trên là một thách thức rất lớn đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung và đối với các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng. Trong khi đó vì hàng loạt lý do, quá trình nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế của các sản phẩm Việt Nam nhìn chung diễn ra rất chậm.
Với xu hướng cơ cấu nghiêng về các dự án sử dụng nhiều vốn hơn là nhiều lao động, tức là lãng phí lợi thế cạnh tranh lớn nhất cảu nước ta hiện nay là nguồn lao động rồi rào và rẻ, năng suất lao động và hiệu quả sử dụng vốn thấp, cơ chế thị trường lại chưa có điều kiện để phát huy đầy dủ tác dụng thúc đẩy... Phải thừa nhận rằng sức cạnh tranh của các sản phẩm Việt Nam được cải thiện với tốc độ còn xa mới đáp ứng được yêu cầu của việc mở cửa và hội nhập đặt ra. Khó khăn này không chỉ đặt ra đối việc cạnh tranh xuất khẩu trên thị trường quốc tế, mà ngay cả trên thị trường nội địa, nó cũng không thể được khắc phục nhanh chóng trong một sớm một chiều. Sức cạnh tranh là một điểm sinh tử sủa toàn bộ quá trình mở cửa hội nhập quốc tế của Việt Nam. Để vượt qua thách thức này vấn đề đặt ra đối với cả cấp vĩ mô và vi mô cả ở phương diện cơ cấu tổng thể lẫn từng nghành từng đơn vị là phải nâng cao năng suất, chất lượng, trình độ hoạt động, nâng cao trình độ kỹ thuật.
2.3. Việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt hiệu quả chưa cao.
Theo một định nghĩa xác định, có sự tương đồng nhiều mặt về cơ cấu kinh tế giữa Việt Nam và đa số các nước trong khu vực, đồng thời sự chênh lệch không quá lớn về trình độ phát triển, nhất là với các nước thuộc nhóm ASEAN-4, làm cho trong quan hệ đối khu vực, Việt Nam không chỉ là đối tác hợp tác mà còn là đối thủ cạnh tranh tiềm năng của họ. Điều này có ảnh hưởng đến tính chất và đặc điểm của hoạt động đầu tư vào Việt Nam của các nước trong khu vực. Vì lý do đó, sau hơn một năm thu út FDI. Có thể nhận thấy rõ sự bất tương xứng khối lượng vốn đầu tư với năng lực cải biến kỹ thuật cho nền kinh tế của nó. Để làm rõ thực chất của vấn đề, không thể không tháy rằng nguyên nhân của tình hình không chỉ là từ phía các nhà đầu tư nước ngoài. Trong không ít trường hợp nó liên quan mật thiết đến môi trường đầu tư và môii trường kinh doanh của Việt Nam. Sự rườm rà về thủ tục nhưng không đủ nghiêm ngặt trong các hợp đồng về phương diện kỹ thuật, khung pháp lý chưa hoàn thiện và bị lỏng trong khâu giám sát thực hiện, môi trường kinh doanh chưa thuận lợi, còn mang tính phân biệt đối xử giữa các thành phần và phẩm chất yếu kém của cán bộ Việt Nam trong hoạt động quản lý và điều hành các liên doanh, trình độ lao động còn thấp ... Làm cho quá trình thu hút đầu tư và tiếp nhận nhuyển giao công nghệ không thể đạt được mục tiêu như dự định.
3.Những vấn đề đặt ra về an ninh kinh tế khi Việt Nam tham gia hội nhập kinh tế quốc tế.
3.1. Cơ cấu ngoại thương không hợp lý gây khó khăn cho việc chống đỡ các tác động tiêu cực từ bên ngoài.
Trong thời kỳ đổi mới kinh tế vừa qua, cùng với sự điều chỉnh nền kinh tế và chiến lược ngoại thương, cơ cấu hàng xuất khẩu cũng có sự thay đổi. Tuy nhiên đến nay hàng xuất khẩu chủ yếu là sản phẩm thô chưa được chế biến hoặc chỉ được sơ chế. VD: dầu thô vẫn chiếm 17,5% gạo chiếm 9%, cà phê chiếm 5%, hỉa sản chiếm 8,5% trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Các sản phẩm công nghiệp vẫn là các sản phẩm có hàm lượng lao động cao như dệt may(14.6 %) giầy dép (12,2%) trong kim ngạch xuất khẩu. Các mặt hàng có kỹ thuật công nghệ cao đã bước đàu được chú ý tuy nhiên tỷ trọng vẫn thấp. Sức cạnh tranh vẫn dựa vào số lượng chứ chưa dựa vào chất lượng của sản phẩm. Vì vậy giá cả hàng xuất khẩu của hàng Việt Nam thường bị chèn ép trên thị trường và thường rẻ hơn từ 10-20% với giá thành bình quân trên thế giới. Ngoài ra, do được hưởng ưu đãi về thuế và lợi tức, về các chi phí sản xuất và xác định thu nhập chịu thuế, về thuế nhập khẩu ... Khi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang dần chiếm phần lớn thị trường trong nước, tạo sức ép lớn đối sản phẩm nội địa. Một mặt nó buộc các doanh nghiệp trong nước phải tích cực đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng, hạ giá thnàh sản phẩm để tăng cường sức cạnh tranh; mặt khác do môi trường cạnh tranh không bình đẳng đã hạn chế sự phát triển của doanh nghiệp trong nước, đẩy nó tới nguy cơ mất an toàn thực sự.
3.2. Các cơ chế của nền kinh tế thị trường vẫn còn ở mức sơ khai.
Trong thời gian qua nền kinh tế Việt Nam đã chuyển biến mạnh mẽ theo hướng nền kinh tế thị trường, tuy nhiên các cơ chế còn ở mức sơ khai( dặc biệt các cơ chế trong thị trường tài chính, thị trường chứng khoán, thị trường vốn thị trường bất động sản...) Hệ thống luật pháp quản lý xã hội, quản lý xã hội chưa được điều chỉnh tương ứng với sự phát triên của nền kinh tế đang chuyển sang cơ chế thị trường, chưa phù hợp với thông lệ và tập quán quốc tế. Chính điều này đã tạo ra tình trạng đầu cơ buôn lậu, phá rối thị trường trong nước, ép các doanh nghiệp nội địa; một số lợi dụng kẽ hở của pháp luật để thự hiện tham nhũng, tuỳ tiện lạm dụng vốn, thực hiện giao dịch về tiền tệ gây thất thoát vốn của các ngân hàng. Ngoài ra còn nhiều công cụ tài chính của nền kinh tế thị trường chưa được áp dụng tại Việt Nam do thị trường tài chính Việt Nam chưa phát triển đầy đủ, thị trường chứng khoán đang hình thành, các loại trái phiếu cổ phiếu và các loại giấy tờ có giá trị khác của Việt Nam đang được thí điểm phát hành trên thị trường thế giới. Hệ thống tài chính ngân hàng Việt Nam tuy đã được cải cách, nhưng vẫn rất yếu kém, chưa xoá bỏ dược thói quen của thời kỳ bao cấp, không thích ứng kịp thời vói những thay đổi của nền kinh tế. Hơn nữa, nhận thức về hội nhập và các công việc chuẩn bị cho hội nhập quốc tế ở các doanh nghiệp và giưoí doanh nhân còn rất hạn chế chưa sẵn sàng trong việc tận dụng cơ hội của việc hội nhập kinh tế quốc tế và đứng vững trong cạnh tranh khốc liệt trên thị trường trong nước và quốc tế.
4.Những nguy cơ tiềm ẩn đe doạ nền độc lập tự chủ kinh tế quốc gia.
Cơ bản nền kinh tế Việt Nam hiện nay lạc hậu về khoa học kỹ thuật nhiều chục năm với các nước công nghiệp phát triển sản xuất xuất khẩu của ta chủ yếu gồm các khoáng sản thô và các mặt hàng công nghiệp thứ cấp, khi sản xuất phải nhập khẩu máy và vật tư phụ tùng. Trong nhiều năm hàng hoá của Việt Nam như gạo, cà phê, cao su hàng may mặc không xuất khẩu được hết trên thị trường thế giới, khiến cho gía sụt và làm giảm thu nhập của công nhân nông dân trong các ngành liên quan. Trong khi đó nhập khẩu lại hướng về máy các vật tư, linh kiện rồi các hàng tiêu dùng cao cấp với giá rất đắt. Tình hình này làm vị thế của ta trên thị trường quốc tế yếu đi và dẫn đến nhiều nguy cơ lớn về kinh tế tài chính. Nguy cơ bán rẻ và có phải trả giá cao, tỷ giao hoán bất lợi, xuất phát từ việc xuất khẩu nông khoáng sản thuêgiá rẻ và nhập khẩu hàng cao cấp giá cao. Sẹ thiệt thòi triền miên năm này qua năm khác, mỗi năm tiêu tốn nhiều tỷ USD khiến cho nước ta nghèo càng nghèo thêm. Nợ quốc tế gia tăng vớitốc độ nhanh hàng năm và đến một mức nào đó, có thể dẫn đến tình khủng hoảng tài chính- tiền tệ như đã xảy ra tại Thái Lan ít hơn nhiều, nhưng bài học Thái Lan cho thấy là nợ quốc tế tăng có thể đưa đến việc ngân hàng trung ương không còn khả năng thanh toán quốc tế, đặc biệt là trang trải nhập khẩu thông thường và lúc bấy giờ sẽ xảy ra khủng hoảng tài chính tiền tệ.
Hội nhập quốc té giúp Việt Nam tranh thủ kỹ thuật, khoa học, vốn quốc tế. Tuy nhiên các công ty nước ngoài chỉ đầu tư ở Việt Nam nếu họ có lợi.Như vậy,chúng ta ở trong thế yếu,chỉ có khả năng hạn chế họ ất lợ mà thôi,nhưng nếu đàu tư mầ chỉ thu được lợi ít,họ sẽ ngừng hay giới hạn lượng đầu tư. Kinh nhgiệm cho thấy,trong thập niên 90 những thiét bị được đầu tư ở Việt Nam thưường là nhưũng thiết bị cũ,thị phần các doanh nghiệp Việt Nam giảm nhanh trong khi thị phần các công ty có cốn nước ngoài tăng nhanh,nhiều công ty phía Việt Nam có phần hùn khoản 30% nhờ phần đóng góp mặt bằng,nhà đất đã chuyển thành công ty có vốn nước ngoài 100% do nhiều lý do,trong đó lý do phía nước ngoài đề nghị tăng vốn nhưng bên Việt Nam không có khả năng đáp ứng . Nếu tình hình này tiếp tục,người nước ngoài sẽ làm chủ dần hầu hết các doanh nghiệp lớn ở Việt Nam .Khi ấy,sẽ khó giữ được độc lập tự chủ,kinh tế quốc gia gây ra tình cảnh lệ thuộc vào nước ngoài.
5.Thực trạng các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Theo ước tính của viện quản lý kinh tế trung ương,xét theo tiêu chí về vốn(dưới 5 tỷ đồng)thì có 88,2% trong tổng số doanh nghiệp là doanh nghiệp vừa và nhỏ.Trong đó,đối với khu vực thuần tuý Việt Nam thì tỷ lệ này là 89,5% và khu vực doanh nghiệp có vốn đàu tư nước ngoài là 33,6%.Thách thức lớn nhất của các doanh nghiệp vừa và nhỏ và các nhà quản lý kinh tế Việt Nam ,đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi theo lộ trình AFTA và WTO là làm thế nào để các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể cạnh tranh được với các công ty ,tập đoàn xuyên quốc gia khi chúng ta thực hiện các cam kết của các tổ chức này.Trong khi đó,các doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp phải những khó khăn ,một phần xuất phát từ chính bản thân các doanh nghiệp và một phần từ cơ chế chính sách của Nhà nước.
5.1 Về tình hình sản xuất kinh doanh.
Theo đánh giá của phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam thì tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong một vài năm trở lại đay đều cho thấy sự giảm sút .Điều này cho thấy,nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ đang trong tình trạng khó khăn.Bên cạnh yếu tố trượt giá và tăng tỷ giá ngoại tệ,và việc phát triển chậm của nền kinh tế ,các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn thiếu chủ động trong hoạt động sản xuất kinh doanh ,tìm kiếm thị trường tiêu thụ,cũng như nguồn lực đầu vào.Trong khi đó,vốn cũng là vấn đề nhức nhốicủa các doanh nghiệp vừa và nhỏ nước ta,có đến 55% doanh nghiệp thiếu vốn.Bởi lẽ,do nguồn vốn của các doanh nghiệp bị hạn chế,lại chủ yếu vay mượn từ kênh tài chính phi chính thức.Mặt khác điều kiện tham gia thị trường chứng khoán của nước ta đã loại các doanh nghiệp vừa và nhỏ ra khỏi cuộc chơi.Đa số các doanh nghiệp vừa và nhỏ khi tiếp cận với khu vực tài chính đêv gặp khó khăn và hạn chế lớn như :không đủ tài sản thế chấp,không có sự bào hộ của các tổ chức đại diện,lãi suất cao,khối lượng ít,thời hạn ngắn...ngoài ra,xem xét những yếu tố ảnh hưởng lớn đến hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì đa số các doanh nghiệp này đều không có thị trường tiêu thụ ổn định,đặc biệt là thị trường xuất khầu hạn chế.Điều này lý giải là do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực vừa qua,tuy n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 79214.DOC