MỤC LỤC
I. Lý luận chung về kinh tế thị trường( KTTT) định hướng XHCN. 1
1. Kinh tế thị trường. 1
1.1. Khái niệm KTTT 1
1.2. Cơ chế thị trường 1
2. Kinh tế thị trường định hưỡng XHCN. 3
2.1. Khái niệm KTTT định hướng XHCN 3
2.2. Sự khác nhau giữa kinh tế thị trường TBCN và KTTT định hướng XHCN 3
3. Những nhân tố bảo đảm tính định hướng XHCN của nền KTTT ở VN 5
3.1. Vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước 5
3.1.1 Chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước 5
3.1.2. Nội dung quản lý kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam 10
3.1.3. Các công cụ quản lý kinh tế của nhà nước XHCN ở Việt Nam 11
3.2. Vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước. 13
3.2.1. KháI niệm thành phần kinh tế nhà nước 13
3.2.2. Vì sao kinh tế nhà nước cần giữ vai trò chủ đạo 15
3.2.3 Nội dung vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước 16
II. Thực trạng những nhân tố bảo đảm tính định hướng XHCN của nền KTTT ở nước ta 18
1. Thực trạng vai trò quản lý kinh tế của nhà nước 18
1.1 Mặt mạnh trong quản lý kinh tế của nhà nước ta 18
1.2 Mặt yếu trong quản lý kinh tế của nhà nước ta 19
1.3 Nguyên nhân những mặt yếu kém trong quản lý kinh tế của nhà nước ta 20
2. Thực trạng về vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước 21
III Nhứng giải pháp tăng cườngvai trò quản lý của nhà nước và vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước. 25
1. Những giải pháp tăng cường vai trò quản lý kinh tế của nhà nước 25
2. Những giải pháp tăng cường vai trò chủ đạo của thnah phần kinh tế nhà nước, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước 26
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
33 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1970 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Những nhân tố bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở Việt nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng trưởng và phát triẻn kinh tế. Nó củng cố lòng tin của các chủ thể kinh tế vào tương lai của nền kinht ế, nó tránh cho nền kinh tế khỏi những cuộc khủng hoảng, suy thoái. Để ổn định kinh tế vĩ mô, nhà nước có thể sử dụng các biện pháp như: gia tăng tiết kiệm tiêu dùng để đầu tư cho phát triển, duy trì sự cân đối giữa thu chi ngân sách nhà nước nhằm giữ cho lạm phát ở mức kiểm soát được, duy trì sự cân đối trong cán cân thương mại bằng việc duy trì tỷ giá hối đoái hợp lý, tăng, giảm cung tiền để giảm hoặc tăng mức giá..
Ngoài chức năng ổn định kinh tế vĩ mô, nhà nước còn có chức năng giữ vững ổn định chính trị, tạo môi trường hoà bình, ổn định để phát triển kinh tế. Muốn như thế Đảng CSVN phải tăng cường vai trò lãnh đạo của mình, đoàn kết toàn dân cùng tham gia vào quá trình phát triển kinh tế, xây dựng chế độ XHCN.
3.1.2. Nội dung quản lý kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
Những nội dung chủ yếu quản lý kinh tế của Nhà nước ta bao gồm:
Quyết định chiến lược phát triển kinh tế xã hội: Toàn bộ sự phát triển của nền kinh tế phụ thuộc trước hết vào đường lối và chiến lược phát triẻn kinh tế. Để xây dựng chiến lược đúng, có căn cứ khoa học, cần phân tích đúng thực trạng kinh tế -xã hội, xác định rõ mục tiêu phát triển, lựa chọn phương án tối ưu. Muốn vậy, cần thực hiện dân chủ hoá, khoa học hoá, thể chế hoá quyết sách.
Kế hoạch: Kế hoạch nói ở đây là kế hoạch thực hiện mục tiêu của quyết định chiến lựơc, nó là sự triển khai và cụ thể hoá quyết định chiến lược. Kế hoạch xác định mục tiêu dài hạn, trung hạn và ngắn hạn, nêu ra các biện pháp và phương thức thực hiện các mục tiêu đó.
Tổ chức: Tổ chức là một nội dung của quản lý nhằm đảm bảo thực hiện kế hoạch đã định. Nó bao gồm việc bố trí hợp lý cơ cấu, xác định rõ chức năng, quyền hạn, trách nhiệm của các tổ chức và dựa vào yêu cầu cụ thể của các cơ cấu để lựa chọn và bố trí cán bộ thích hợp.
Chỉ huy và phối hợp: nền kinh tế là một hệ thống phức tạp, bao gồm nhiều chủ thể khác nhau vì thế để cho nền kinh tế hoạt động bình thường, có hiệu quả, cần có sự chỉ huy thống nhất ( điều chỉnh từ một trung tâm). Để có thể chỉ huy nền kinh tế, phải có cơ quan quản lý thống nhất, cơ quan đó có quyền lực, có đầy đủ thông tin về các mặt để điều hoà, phối hợp các mặt hoạt động của nền sản xuát xã hội , giải quyết kịp thời các vấn đề nảy sinh để đảm bảo cân bằng tổng thể của nền kinh tế.
Khuyến khích và trừng phạt: bằng các đòn bẩy kinh tế và động viên về tinh thần, khuyến khích mọi tổ chức kinh tế hoạt động theo định hướng kế hoạch, làm lợi cho nền kinh tế thì được khuyến khích, ngược lại, không làm theo định hướng của kế hoạch, làm hại thì phải ngăn chặn và trừng phạt.
3.1.3. Các công cụ quản lý kinh tế của nhà nước XHCN ở Việt Nam.
Để thực hiện các chức năng quản lý kinh tế đã nêu ở trên, nhà nước Việt nam đã sửa dụng những công cụ sau:
Hệ thông pháp luật: pháp luật thường được hiểu là hệ thóng các quy tắc xử sự có tính chát bắt buộc chung ( quy phạm pháp luật) thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và cộng đồng xã hội, do Nhà nước đặt ra, thực thi và bảo vệ nhằm mục tiêu bảo toàn và phát triển xã hội theo các đặc trưng đã định. Trong thực tế có 2 loại văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý của Nhà nước về kinh tế là văn bản quy phạm pháp luật và văn bản áp dụng quy phạm pháp luật. Chức năng chủ yếu của pháp luật là điều chỉnh, bảo vệ và giáo dục đảm bảo và phát triển xã hội theo mục tiêu và phương pháp nhất định. Thông qua việc thực hiện các chức năng này, pháp luật có vai trò quan trọng trong quá trình chuyển dịch nền kinh tế tự cấp, tự túc, khép kín sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN được thể hiện ở các mặt cơ bản sau: Pháp luật tạo tiền đề pháp lý vững chắc để điều chỉnh các quan hệ kinh tế, duy trì sự ổn định lâu dài của nền kinh tế quốc dân nhằm thực hiện sự bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các chủ thể kinh tế nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế quốc dân, pháp luật tạo cơ sở pháp lý cần thiết để kết hợp hài hoà phát triển kinh tế với phát triển xã hôị và bảo vệ môi trường.
Kế hoạch: Kế hoạch là quá trình xây dựng, quán triệt, chấp hành và giám sát, kiểm tra việc thực hiện phương án hành động trong tương lai. Kế hoạch bao gồm các nội dung: chiến lược phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch dự án, ngân sách. Trong đó chiến lược phát triển kinh tế, xã hội là đường lối chung trong một thời gian dài ( ở nước ta thường là 10 năm), quy hoạch phát triển kinh tế tập hợp các mục tiêu và sự bố trí, sắp xếp các nguồn lực tương ứng để thực hiện các mục tiêu không gian và thời gian, kế hoạch trung hạn ( kế hoạch 3 năm, kế hoạch 5 năm) là phương tiện chủ yếu để cụ thể hoá các mục tiêu và các giảI pháp đã được lựa chọn trong chiến lược. Trong cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thì kế hoạch kết hợp với thị trường là hai công cụ quản lý của nhà nước. Sự đIều tiết của thị trường là cơ sở phân phối các nguồn lực, còn kế hoạch khắc phục tính tự phát của thị trường, làm cho nền kinh tế phát triển theo định hướng của kế hoạch.
Lực lượng kinh tế của nhà nước: Nhà nước quản lý nền kinh tế không chỉ bằng các công cụ pháp luật, kế hoạch hoá, mà còn bằng lực lượng kinh tế của tập thể để chúng dần trở thành nền tảng của nền kinh tế, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng XHCN, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế nhanh và bên vững. Nờ đó nhà nước có sức mạnh vật chất để điều tiết, hướng dẫn nền kinh tế theo mục tiêu kinh tế, xã hội do kế hoạch đặt ra.
Chính sách: Chính sách là một trong các công cụ chủ yếu mà nhà nước sử dụng để quản lý nền kinh tế. Mỗi chính sách là một tập hợp các giải pháp nhất định để thực hiện các mục tiêu quan trọng trong quá trình đạt tới các mục tiêu chung của sự phát triển kinh tế xã hội. Có hai nhóm: Chính sách kinh tế , chính sách cơ cấu kinh tế, chính sách tàI chính, chính sách tiền tệ, chính sách giá cả..., và chính sách xã hội: chính sách dân số, chính sách lao động và việc làm, chính sách giáo dục, chính sách bảo vệ mội trường...Trong đó có hai loại chính sách quan trọng tác động trực tiếp đến nền kinh tế được nhà nước sử dụng thường xuyên để điều tiết vĩ mô nền kinh tế đó là chính sách tài chính và chính sách tiền tệ. Chính sách tài chính, đặc biệt là ngân sách nhà nước có ảnh hưởng quyết định đến sử dụng ngân sách nhà nước, Nhà nước đIều chỉnh phân bố các nguồn lực kinh tế, xây dựng kết cấu hạ tầng, đảm bảo công bằng trong phân phối và thực hiện các chức năng của mình. Nộ dung của ngân sách nhà nước bao gồm các khoản thu và khoản chi. Bộ phận chủ yếu của các khoản thu là thuế. Chính sách thuế đúng đắn không chỉ tạo thu cho ngân sách mà còn khuyến khích sản xuất, điều tiết tiều dùng. Chính sách tiền tệ: là một công cụ quản lý vĩ mô trọng yếu, vai trò của nó trong điều tiết vĩ mô ngày càng tăng cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường định hướng XHCN. Chính sách tiền tệ phảI khống chế được lượng tiền phát hành và tổng quy mô cho tín dụng. Trong chính sách tiền tệ, lãi suất là công cụ quan trọng, là phương tiện đIều tiết cung, cầu tiền tệ. Việc thắt chặt hay nới lỏng cung ứng tiền tệ, kiềm chế lạm phát thông qua hoạt động của hệ thống ngân hàng sẽ tác động trực tiếp đến nền kinh tế.
Các công cụ điều tiết kinh tế đối ngoại: để mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, nhà nước sử dụng nhiều công cụ, trong đó chủ yếu là thuế xuất nhập khẩu. Thông qua các công cụ đó, nhà nước có thể khuyến khích xuất khẩu , bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước, nâng cao khả năng cạnh tranh hàng hoá của nước ta, giữ vững được độc lập , chủ quyền , bảo vệ được lợi ích quốc gia trong quan hệ kinh tế quốc tế.
3.2. Vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước.
3.2.1. KháI niệm thành phần kinh tế nhà nước
Việc đề ra quan đIểm” thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và cùng với các thành phần kinh tế hợp tác dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân” là một trong những thành tự to lớn của đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng CSVN, nó đánh dấu một sự chuyển biến căn bản trong nhận thức của Đảng và Nhà nước ta về con đường đI lên CNXH cũng như các yếu tố cơ bản cấu thành nên nền kinh tế đó. Tuy nhiên, hiện nay, trong giới hạn lý luận cũng như trong một số cán bộ Đảng viên và quân chúng nhân dân, nhận thức về vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước vẫn chưa được thấu đáo, thậm chí một số người còn chưa rõ thành phần kinh tế nhà nước là gì, nó có giống với kinh tế quốc doanh trước đây không.
Thành phần kinh tế nhà nước dựa trên cơ sở quan trọng là sở hữu nhà nước về tư liệu sản xuất. Một số người cũng nhất trí cho rằng thành phần kinh tế nhà nước phảI dựa trên sở hữu nhà nước, nhưng họ coi mọi sở hữu nhà nước, kể cả sở hữu trong các cơ quan hành chính sự nghiệp là thành phần kinh tế nhà nước. Quan niệm như thế là sai lầm. PhảI phân biệt nhà nước với tư cách là một lực lượng kinh tế, kiểm soát nền kinh tế theo các nguyên tắc của thị trường với Nhà nước là một lực lượng chính trị với các phương tiẹn vật chất đảm bảo cho sự thống trị chính trị đó. Chỉ có sở hữu nhà nước với tư cách một lực lượng kinh tế, một chủ thể kinh tế trong nền kinh tế thị trường mới là sở hữu thuộc thành phần kinh tế nhà nước. Với quan niệm như thế, thành phần kinh tế nhà nước bao gồm các yếu tố cấu thành:
Yếu tố thứ nhất là hệ thống các doanh nghiệp Nhà nước(DNNN): Đây là các tổ chức kinh tế mà Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn đIều lệ hoặc cổ phần vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty TNHH. DNNN có hai loại: Loại hoạt động kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận và loại hoạt động công ích không vì mục tiêu lợi nhuận . NgoàI ra còn có loại nằm giữa hai loại trên như những tổ chức kinh tế đang quản lý, duy tu, bảo dưỡng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế: cầu, đường, sân bay, bến cảng... loại này có xu hường chuyển hoá từng phần sang một hoặc hai loại trên.
Yếu tố thứ hai là hệ thống tàI chính của Nhà nước. Ngày nay khi mà xu hướng mở rộng phân phối qua ngân sách nhà nước đã trở thành phổ biến ở các quốc gia, thì ở nước ta do nhà nước có vai trò to lớn trong đảm bảo công bằng, nên tàI chính nhà nước trở thành lực lượng kinh tế đáng kể. Từ ngân sách nhà nước có thể hình thành các luồng tàI chính khác nhau như đầu tư vào các doanh nghiệp không phảI doanh nghiệp nhà nước để sinh lãI, cho vay tín dụng... Đặc biệt, trong nền kinh tế thị trường hiện đại, khi vốn trở thành một trong những ngồn lực sản xuất chủ yếu thì một phần tàI chính nhà nước, kể cả chi tiêu ngân sách thường xuyên trở thành lực lượng kinh tế lớn.
Yếu tố thứ ba: là hệ thống dự trữ, tàI nguyên đất đai, vùng biển thuộc sở hữu nhà nước. Do đặc thù xã hội chủ nghĩa nên ở nước ta toàn bộ đất đai, mặt biển không phận đều thuộc sở hữu nhà nước. Các bộ phận đất đai nhà nước giao cho dân sử dụng lâu dài. Cũng có bộ phận đất đai, mặt biển, tàI nguyên, không phận.. Nhà nước cho thuê và có thu nhập. Thu nhập đó có thể táI đầu tư, củng có thể cho vay hoặc chuyển giao cho công dân dưới hình thức nào đó. Dù mục đích sử dụng có thể khác nhau, song không phủ nhận rằng sở hữu đất đai, mặt biển, bầu trời cùng với dự trữ quốc gia đã làm cho nhà nước thực sử là chủ thể kinh tế mạnh không chỉ có khả năng tham gia vào các quá trình kinh tế mà còn có thể đóng vai trò đIều tiết, định hướng và kiểm soát các quá trình kinh tế đó.
Yếu tố thứ tư: là hệ thống dịch vụ nhà nước.kể cả dịch vụ thu phí và dịch vụ không thu phí. Khác với quan niệm sai lầm trước kia cho rằng của cảI chỉ tồn tại dưới dạng vật chất hữu hình, ngày nay kinh tế học hiện đại cho rằng của cảI còn là những dịch vụ với tư cách là hàng hoá vô hình nhưng có vai trò thoả mãn nhu cầu nào đó của con người và làm tăng chất lượng của cuộc sống và cũng được tính vào GDP. Những dịch vụ nhà nước có thể kể ra như dịch vụ ngân hàng, dịch vụ hảI quan, dịch vụ thủ tục hành chính cho hoạt động kinh tế như kiểm soát, thị trường tiền, thị trường chứng khoán, thị trường vốn. Với việc cung cấp các dịch vụ này, nhà nước có thể tác động vào thị trường và qua thị trường tác động vào nền kinh tế. nhân tố này góp phầnlàm cho tiềm lực kinh tế của nhà nước được nhân bội lên.
Tóm lại: Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước(DNNN), các sở hữu nhà nước như đất đai, ngân sách, lực lượng dự trữ, kể cả một phần vốn của nhà nước đưa vào các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Nghĩa là hệ thống kinh tế nhà nước gồm hai bộ phận cấu thành : DNNN và kinh tế nhà nước phi doanh nghiệp.
3.2.2. Vì sao kinh tế nhà nước cần giữ vai trò chủ đạo.
Trong nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt nam, mỗi thành phần đều có vai trò vị trí và đóng góp nhất định vào phát triển kinh tế đất nước song do tính chất của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chúng ta cần đặc biệt nhấn mạnh thành phần kinh tế nhà nước ( KTNN), KTNN làm chủ đạo và cùng với kinh tế tập thể trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Việc xác lập vai trò chủ đạo của thành phần KTNN là vấn đề có tính nguyên tắc và là sự khác biệt có tính bản chất giữa KTTT định hướng XHCN với KTTT tư bản CN. Tính định hướng XHCN của nền KTTT ở nước ta đã quyết định KTNN phảI giữ vai trò chủ đạo trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Bởi lẽ mỗi một chế độ xã hội đều có một sơ sở kinh tế tương ứng với nó, KTNN cùng với Kinh tế tập thể tạo nên nền tảng cho chế độ XH mới – XHCN ở nước ta. Cụ thể, KTNN phảI giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế vì những lý do sau:
Thứ nhất, KTNN dựa trên chế độ công hữu (sở hữu nhà nước) về tư liệu sản xuất, là chế độ sở hữu phù hợp với xu hướng xã hội hoá của lực lượng sản xuất. ở đây cần phân biệt hình thức sở hữu và chủ sở hứu. Nhà nước - đạI diện cho toàn dân - là chủ sở hữu tư liệu sản xuất, tàI sản công cộng cảu toàn dân.
Thứ hai, KTNN nắm giữ những vị trí then chốt, yết hầu, xương sống ccủa nền kinh tế , do đó nó có khả năng, đIều kiện chi phối hoạt động của các thành phần kinh tế khác, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo huớng đã định.
Thứ ba, KTNN là lực lượng bảo đảm cho sựphát triển ổn định của nền kinh tế, là lực lượng có khả năng can thiệp, đIều tiết hướng dẫn, giúp đỡ, và liên kết tạo đIều kiện cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển.
Thứ tư, KTNN có thể tác động tới các thnàh phần kinh tế khác không chỉ bằng các công cụ và đòn bẩy kinh tế mà còn bằng con đường gián tiếp thông qua những thiết chế và hoạt động của kiến trúc thượng tầng XHCN.
Thứ năm, KTNN dẫn đầu trong việc áp dụng khoa học công nghệ hiện đạI tiên tiến, do đó nó có nhịp độ phát triển nhanh đóng góp phần lớn cho ngân sách nhà nước và tự tích tụ để không ngừng táI sản xuất mở rộng.
Thứ sáu, KTNN là lực lượng nòng cốt hình thành các trung tâm kinh tế, đô thị mới, là lực lượng có khả năng đầu tư vào những lĩnh vực có vị trí quan trọng sỗng còn nhưng ít ai dám đầu tư vì đòi hỏi vốn lớn mà thời gian thu hồi vốn chậm.
3.2.3 Nội dung vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước
TạI đạI hội VIII Đảng Cộng sản Việt Nam, nội dung vai trò chu đạo của thành phần kinh tế nhà nước đã được khẳng định: “Tiếp tục đổi mới và phát triển có hiệu quả KTNN để làm tốt vai trò chủ đạo: Làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giảI quyết những vấn đề xã hội; mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần khác cùng phát triển; làm lực lượng vật chất để nhà nước thực hiện các chức năng đIều tiết và quản lý vĩ mô; tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới”. Như vậy vai trò chủ đạo của thành phần KTNN gồm những nội dung sau:
_ KTNN là lực lượng mở đường, hỗ trợ, định hướng cho các thành phần kinh tế khác phát triển theo mục tiêu kinh tế, xã hội của đất nước. KTNN có khả năng, đIều kiện về mọi mặt để đáp ứng tốt nhất cho việc thực hiện các kế hoạch, kế hoạch đầu tư xây dựng, cảI tạo, nâng cấp kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội như giao thông, đIện, các công trình công cộng khác phục vụ cho sản xuất và đời sống trong suốt quá trình công nghiệp hoá, hiện đạI hoá đất nước, theo mục tiêu xã hội chủ nghĩa. KTNN có đIều kiện để đI đầu trong việc tập trung nghiên cứu xây dựng và phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn, sản xuất những hàng hoá mà trong nước có lợi thế, có khả năng cạnh tranh, thị trường có nhu cầu và đem lạI lợi nhuận cao, thu hút và sử dụng được nhiều lao động tạo đà cho kinh tế phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế; đI đầu trong cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật về nghiên cứu chế tạo, triển khai công nghệ mới, chuyển giao công nghệ truyền thống đóng vai trò quyết định trong việc thăm dò và các thành phần kinh tế khác khai thác tàI nguyên nhằm nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm trong nước, vừa khai thác có hiệu quả tàI nguyên , vừa bảo vệ môI trường sinh thái. Kinh tế nhà nước còn là lực lượng đI đầu trong việc đổi mới và nâng cao trình độn nănglực quản lý kinh tế, cả về dổi mới trang thiết bị, cũng như cách tổ chức và phân phối, là tấm gương tiêu biểu cho các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế đất nước thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước về mọi lĩnh vực, đặc biệt là giảI quyết việc làm, thực hiện luật Luật lao dộng, xoá đòi giảm nghèo...đI đầu trong việc đóng góp vào ngân sách quốc gia. KTNN là lực lượng xung kích của nhà nước trong việc hìnhthành , xây dựng các trung tâm kinh tế,văn hoá, xã hội và phân bố dân cư. Những trách nhiệm trên đây của KTNN về thực chất là tạo nền tảng kinh tế - xã hội, định hướng nền kinh tế phát triển đúng hưóng, hợp quy luật, nhanh và bền vững.
_ KTNN là lực lượng vật chất quan trọng, chủ yếu nhất để nhà nước đIều tiết và quản lý vĩ mô nền kinh tế.Nhà nước cỉ có thể đIều tiết được nền kinh tế khi có trong tay một tiềm lực kinh tếmạnh. KTNN chính là chỗ dựa vật chất to lớn, tạo ra Iềm lực kinh tế mạnh để nhà nước thực hiện yêu cầu đó. Trong KTNN, hệ thống, hệ thống doanh nghiệp nhà nước là lực lượng chủ lực tạo ra tiềm lực vật chất của kinh tế nhà nước, có ở những khâu trọng yếu cảu nền kih tế, cung ứng phần lớn những tư liệu sản xuất chủ yếuvà tư liệu tiêu dùng thiết yếu, đóng vai trò nòng cốt trong việc củng cố , phát triển các bộ phận cấu thành hệ thống KTNN, góp phần tích cực vào tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. Bên cạnh hệ thống DNNN, kinh tế nhà nước còn có tiềm lực mạnh về nguồn vốn từ ngân sách, hệ thống ngân hàng, bảo hiểm, đủ năng lực đầu tư vào kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội như giao thông, quy hoạch và xây dựng các khu công nghiệp, thực hiện các dự án phát triển khu dân cư... KTNN là lực lượng vật chất quan trọng nhất để nhà nước thực hiện quản lý vĩ mô nền kinh tế, đảm bảo nền kinh tế phát tiển ổn định, bảo đảm những cân đối lớn và đủ khả năng sẵn sàng ứng phó với những đột biến trong nền kinh tế, hạn chế những khuyết tật của cơ chế thị trường.
_ KTNN là đòn bẩy để tăng trưởng kinh tế và giảI quyết các vấn đề xã hội của đất nước. Nhà nước sử dụng lực lượng kinh tế của nhà nước để đầu tư cho những ngành, những khu vực, những công trình kinh tế trọng đIểm, tạo “đầu tàu” kéo nền kinh tế của từng ngành, vùng phát triển đI lên; tập trung xây dựng các khu vực kinh tế trọng đIểm, cá khu công nghiệp với vự phân bố hợp lý theo vùng, miền, địa bàn để phát huy lợi thế, khả năng về mọi mặt, làm thay đổi bộ mặt kinh tế từng địa bàn, vùng, miền cả nước. KTNN còn được sử dụng chủ yếu vào thực hiện các chương trình giảI quyết việc làm, vay vốn xoá đói giảm nghèo, phủ xanh đất trống, đồi trọc...góp phần giảI quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, giảm bớt sự phân tầng xã hội do cơ chế thị trường gây ra.
II. Thực trạng những nhân tố bảo đảm tính định hướng XHCN của nền KTTT ở nước ta
1. Thực trạng vai trò quản lý kinh tế của nhà nước
1.1 Mặt mạnh trong quản lý kinh tế của nhà nước ta
ĐạI hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt lớn trong lịch sử kinh tế nước ta, lần đầu tiên chủ trương chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung kế hoạch hoá sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đề ra. Sau khi đề ra chủ trương đúng đắn, nhà nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã không ngừng tìm tòi học hỏi cách quản lý kinh tế thị trường ở các nước khác đồng thời vận dụng một cách sáng tạo vào nền kinh tế của trong nước nhằm đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nó. Nhờ đó Kinh tế Việt Nam vượt qua được một giai đoạn thử thách gay go, thu được những thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh vực. GDP liên tục tăng với tốc độ cao, xuất khẩu tăng, tỉ trọng ngành nông nghiệp giảm xuống, tỉ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ tăng lên, đời sống nhân dân ngày một nâng cao.
Nhà nước ta đã nhận thức rõ các công cụ quản lý kinh tế và vận dụng chúng một cách linh hoạt trong từng hoàn cảnh khác nhau. Đồng thời không ngừng bổ sung hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, và liên tục sửa đổi cho phù hợp với đIều kiện hoàn cảnh mới. Nhiều bộ luật mới được ra đời như Luật doanh nghiệp, luật thương mạI, luật đầu tư,vv.. làm cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả hơn.
Để phát triển kinh tế trong đIều kiện nguồn vốn trong nước thiếu, nhà nước ta thực hiện chiến lược kinh tế mở nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoàI vào Việt Nam cụ thể là vốn ODA và vốn FDI. Những hoạt động cụ thể là cho ra đời các chính sách thu hút đầu tư, tạo môI trường đầu tư thông thoáng, đơn giản hoá thủ tục đầu tư, xây dựng Luật đầu tư nước ngoàI vv..Kết quả là vốn đầu tư vào Việt Nam liên tục tăng, nhiều khu công nghiệp được xây dựng góp phần tăng GDP và tạo công ăn việc làm cho nhiều lao động.Hiện nay có hơn 4500 doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đã thành lập và hoạt động tại Việt Nam, luôn có tốc độ tăng trưởng cao, năm 2004 đóng góp khoảng 16% vốn đầu tư phát triển của xã hội, gần 10% GDP và ngân sách nhà nước.
NgoàI ra trong những năm qua, nhà nước ta đã hoàn thành tốt chức năng bảo đảm ổn định chính trị xã hội, tạo môI trường hoà bình để nền kinh tế phát triển bền vững.
1.2 Mặt yếu trong quản lý kinh tế của nhà nước ta
Tuy đã đạt được một số thành tựu nhất định nhưng quản lý kinh tế của nhà nước ta vẫn còn tồn tạI nhiều yếu kém.
Trước hết là hệ thống pháp luật tuy đã liên tục được sửa đổi và hoàn chỉnh nhưng vẫn chưa đầy đủ và còn nhiều sai sót. Tình trạng gian lận thương mạI, cạnh tranh bất bình đẳng có xu hướng gia tăng và tinh vi phức tạp hơn vì quy định của pháp luật chưa đầy đủ và việc thực thi pháp luật chưa nghiêm. Hiện nay chúng ta có 4 luật là luật doanh nghiệp nhà nước(sửa đổi), luật doanh nghiệp, luật đầu tư, luật hợp tác xã (sửa đổi) trong đó vẫn thể hiện sự đối xử phân biệt giữa các thành phần kinh tế. Các chính sách đầu tư, vốn vay chưa khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển vẫn dành sự ưu ái đặc biệt cho doanh ngiệp nhà nước. Một số lĩnh vực kinh tế còn thiếu các quy định cụ thể của pháp luật nên hoạt động thiếu hiệu quả.
Chức năng quản lý các thị trường đặc biệt là thị trường hàng hoá dịch vụ còn nhiều khiếm khuyết. Danh mục hàng hoá, dịch vụ do Nhà nước quản lý giá, quản lý bằng hạn ngạch hoặac giấy phép tuy đã giảm nhưng vẫn còn nhiều so với các nước khác. Hơn thế nữa, trong không ít trường hợp độc quyền nhà nước đã trở thành độc quyền doanh nghiệp nhà nước. Nguyên tắc doanh nhân, doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được tự do kinh doanh theo pháp luật trong tất cả các ngành nghề má pháp luật không cấm tuy đã được xác lập bằng các quy định của pháp luật (Luật doanh nghiệp, luật thương mạI), nhưng thực tế vẫn tồn tạI không ít những trở ngạI do cơ chế xin cho và và do cách nghĩ, cách làm cũ vẫn còn tồn tạI ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức trong cơ quan công quyền. Hiện tượng ngăn sông, cấm chợ, chia cắt thị trường theo địa phương, theo ngành, theo thành phần kinh tế tuy về cơ bản đã được loạI trừ, nhưng không phảI đã chấm dứt hoàn toàn. Luật Cạnh tranh và kiểm soát độc quyền có vị trí quan trọng đặc biệt trong nền kinh tế thị trường, đảm bảo cho thị trường phát triển có trật tự, cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng. Tuy nhiên đến nay dự án luật này tuy đã được Quốc hội thông qua nhưng chưa có hiệu lực thi hành.
Cải cách thủ tục hành chính trong thời gian qua tuy đã được tiến hành nhưng kết quả vẫn chưa được bao nhiêu, thủ tục hành chính vẫn còn rườm rà, cửa quyền.
Hiện nay, đầu tư nước ngoài vào Việt Nam liên tục tăng nhanh nhưng nhà nước ta chưa kịp thời chỉ ra phương hướng đổi mới kinh tế hợp tác, quản lý kinh tế hợp tác còn sơ hở, việc thành lập doanh nghiệp đầu tư nước ngoài gắn liền với các dự án đầu tư lại bị giới hạn về thời gian hoạt động và hình thức đầu tư (liên doanh, hợp đồng hợp tác kinh doanh, 100% vốn nước ngoài), doanh nghiệp đầu tư nước ngoài chỉ được tổ chức hoạt động dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn với nhiêù quy định đặc thù trái với các nguyên tắc của kinh tế thị trường như: về vốn, về nguyên tắc biểu quyết và các thủ tục khác.
1.3 Nguyên nhân những mặt yếu kém trong quản lý kinh tế của nhà nước ta
Những yếu kém, bất cập trong hoạt động quản lý kinh tế của nhà nước ta còn tồn tại là do nhiều nguyên nhân cả nguyên nhân khách quan lẫn chủ quyền. Nguyên nhân khách quan là sự phá hoại của các thế lực thù địch và chèn ép về thương mại của các nước có thế lực kinh tế và chính trị mạnh.Nhưng nguyên nhân chính vẫn là nguyên nhân chủ quan. Thứ nhất là do nền kinh tế thị trường mới được hình thành chưa lâu, trong khi đó nền kinh tế kế hoạch hoá lại tồn tại một thời gian dài và đã khắc sâu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 50268.doc