MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 2
CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA LỢI NHUẬN 4
1. Các quan điểm trước Mác về lợi nhuận 4
1.1. Quan điểm về lợi nhuận của chủ nghĩa trọng thương: 4
1.2 Quan điểm về lợi nhuận của chủ nghĩa trọng nông. 4
1.3 Quan điểm về lợi nhuận của kinh tế chính trị học tư sản cổ điển Anh. 5
2. Học thuyết của Mác về lợi nhuận. 8
2.1 Giá trị thặng dư - nguồn gốc và bản chất. 8
2.2 Các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư 13
CHƯƠNG II. LỢI NHUẬN LÀ ĐỘNG LỰC CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ VẤN ĐỀ LỢI NHUẬN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG HIỆN NAY 19
1. Lợi nhuận là động lực của nền kinh tế thị trường 19
1.1 Cơ chế thị trường - những lý luận cơ bản 19
1.2. Vai trò của lợi nhuận đối với nền kinh tế thị trường. 20
2. Vấn đề lợi nhuận đối với nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. 23
2.1. Cơ chế cũ và quan niệm cũ về vai trò của lợi nhuận. 23
2.2 Thực tiễn vấn đề lợi nhuận hiện nay trong nền kinh tế nước ta . 24
2.3 Những phương hướng cơ bản nhằm phát huy tốt hơn vai trò của lợi nhuận. 27
CHƯƠNG III. GIÁ TRỊ CỦA HỌC THUYẾT VỀ LỢI NHUẬN CỦA MÁC VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU VÀ THỰC HIỆN VẤN ĐỀ LỢI NHUẬN 29
1. Giá trị của học thuyết về lợi nhuận của Mác. 29
1.1. Giá trị lý luận 29
1.2 Giá trị thực tiễn. 29
2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu và vận dụng vấn đề lợi nhuận 30
32 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2188 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Những vấn đề cơ bản về lợi nhuận và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giá trị. Mác thấy rằng tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện bên ngoài lưu thông. Để giải thích mâu thuẫn đó, Mác tìm ra quá trình sản xuất giá trị thặng dư.
Quá trình sản xuất TBCN là sự thống nhất giữa quá trình sản xuất ra giá trị và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư
Giả định để sản xuất 10 kg sợi cần 10 kg bông, giá 10 kg bông là 10 đôla. Để biến số bông đó thành sợi, một công nhân phải lao động trong 6 giờ và hao mòn máy móc là 2 đôla, giá trị sức lao động trong ngày của một công nhân là 3 đôla, trong một giờ lao động người công nhân tạo ra một giá trị là 0,5 đôla, cuối cùng giả định rằng trong quá trình sản xuất sợi thời gian lao động đã hao phí theo thời gian xã hội cần thiết
Với giá định như vậy, nếu như quá trình lao động chỉ kéo dài đến cái điểm mà ở đó bù đắp được giá trị sức lao động (6giờ) tức là bằng thơì gian lao động xã hội cần thiết thì chưa có sản xuất ra giá trị thặng dư, nhà tư bản không được lợi gì.
Trong thực tế, nhà tư bản bắt công nhân lao động thêm giờ, giả sử 12 giờ một ngày thì:
Tư bản ứng trước
Giá trị của sản phẩm mới (20kg sợi)
-Tiền mua bông là 20 đôla
Hao mòn máy móc là 4 đôla
Tiền mua sức lao động trong một ngày là 3 đôla
Giá trị của bông chuyển vào sợi là 20 đôla
Giá trị của máy móc chuyển vào sợi là 4 đôla
Giá trị do lao động của công nhân tạo ra trong 12 giờ lao động là 6 đôla
27 đôla
30 đôla
Như vậy toàn bộ chi phí của nhà tư bản để mua tư liệu sản xuất và sức lao động là 27 đôla. Trong 12 giờ lao động công nhân tạo ra một sản phẩm mới (20kg sợi) có giá trị bằng 30đôla. Phần giá trị mới dôi ra ngoài 30 với giá trị sức lao động gọi là giá trị thặng dư (3 đôla)
Phân tích giá trị sản phẩm được sản xuất ra (20 kgsợi) chúng ta thấy có 2 phần:
* Phần giá trị những tư liệu sản xuất được lao động cụ thể của người công nhân bảo tồn và chuyển vào sản phẩm mới để hình thành nên giá trị của sản phẩm mới để hình thành nên giá trị của sản phẩm mới (sợi) gọi là giá trị cũ (trong ví dụ trên là 6 đô la) phần giá trị mới này lớn hơn giá trị sức lao động, nó bằng giá trị sức lao động cộng thêm giá trị thặng dư. Vậy, giá trị thặng dư là phần giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do người công nhân tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không. sản xuất ra giá trị thặng dư chỉ là quá trình tạo ra giá trị được kéo dài quá cái điểm mà ở đó giá trị sức lao động do nhà tư bản trả được hoàn lại bằng vật ngang giá mới.
2.1.2 Tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư
Ở trên chúng ta đã nghiên cứu nguồn gốc của giá trị thặng dư, và do đó vạch trần bản chất bóc lột tư bản chủ nghĩa. Phần này nghiên cứu sự bóc lột tư bản chủ nghĩa về mặt lượng
Tỷ suất giá trị thặng dư:
Tỷ suất giá trị thặng dư là tỷ số giữa giá trị thặng dư và tư bản khả biến, tức là tỷ số theo đó tư bản khả biến tăng thêm gía trị. Mác đã dùng ký hiệu m’ để chỉ tỷ suất giá trị thặng dư:
m' = m/v.100%
Trong đó: m là giá trị thặng dư
v là giá trị mới do lao động công nhân tạo ra
Tỷ suất giá trị thặng dư vạch ra một cách chính xác trình độ bóc lột công nhân. Về thực chất, tỷ lệ này là tỷ lệ phân chia ngày lao động thành thời gian lao động cần thiết và thời gian lao động thặng dư. Tuy nhiên tỷ suất giá trị thặng dư không biểu hiện lượng tuyệt đối của sự bóc lột
Khối lượng giá trị thặng dư:
Khối lượng giá trị thặng dư là tích số giữa giá trị thặng dư và tổng tư sản khả biến (v) được sử dụng.
Nếu gọi M là giá trị thặng dư thì M = m’. v
2.1.3 Giá trị thặng dư tuyệt đối, tương dối và siêu ngạch
Mục đích của nhà tư bản là bòn rút giá trị thặng dư. Vì vậy toàn bộ hoạt động của nhà tư bản hướng đến tăng cường việc tạo ra giá trị thặng dư.
Những phương pháp cơ bản để đạt được mục đích đó là tạo ra giá trị thặng dư tuyệt dối và tạo ra giá trị thặng dư tương đối
Giá trị thặng dư tuyệt đối
Trong những giai đoạn phát triển đầu của CNTB, khi kỹ thuật còn thấp hoặc tiến bộ chậm chạp thì việc tăgn giá trị thặng dư bằng phương pháp kéo dài ngày lao động là quan trọng nhất
Giả sử ngày lao động là 10 giờ, trong đó 5 giờ là thời gian lao động cần thiết và 5 giờ là thời gian lao động thặng dư. Nừunhà tư bản kéo dài ngày lao động thêm 2 giờ nữa trong khi đại lượng của thời gian lao động cần thiết không đổi (5giờ). Như vậy thời gian lao động thặng dư tăng lên một cách tuyệt đối và cùng với nó là sự tăng lên của tỷ suất giá trị thặng dư. Trước đây tỷ suất giá trị thặng dư là . 100 = 100% thì bây giờ là
. 100 = 140 %.
Giá trị thặng dư tương đối
Việc kéo dài ngày lao động bị giới hạn về tự nhiên và sinh học, ngoài ra sự phản kháng mạnh mẽ của giai cấp công nhân cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật ddã làm cho các nhà tư bản chuyển hướng sang việc tạo ra giá trị thặng dư tương đối trên cơ sở tăng năng suất lao động
Nhà tư bản tìm cách rút ngắn thời gian lao động cần thiết do đó làm tăng một cách tương ứng thời gian lao động thặng dư trong điều kiện độ dài ngày lao động không thay đổi
Chúng ta giả sử rằng độ dài ngày lao động là 8 giờ trong đó 4 giờ lao động cần thiết và 4 giò lao động thặng dư. Giả định tiếp bằng cách tăng năng suất lao động, công nhân chỉ cần 3 giờ lao động đã tạo ra được một giá trị bằng với giá trị sức lao động củamình, và dó đó thưòi gian lao động thặng dư đã tăng lên 5 giờ. Như vậy, nếu trước đây m’ = . 100 = 100% thì bây giờ là . 100 = 166%.
Giá trị thặng dư được tạo ra bằng cách rút ngắn thời gian lao động cần thiết trong điều kiện độ dài ngày lao động không đổi, nhờ đó kéo dài tương ứng thời gian lao động thặng dư do tăng năng suất lao động, được gọi là giá trị thặng dư tương đối
Giá trị thặng dư siêu ngạch
Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư phụ thêm xuất hiện khi giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị xã hội, mang tính chất tạm thời
Giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tươngđối có một cơ sở chung đó là dựa trên cơ sở tăng suất lao động để rút ngắn thời gian lao động cần thiết. Tuy vậy giữa chúng có sự khác nhau: Giá trị thặng dư tương đối dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội, còn giá trị thặng dư siêu ngạch dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động cá biệt. Giá trị thặng dư siêu ngạch sẽ được thay thế bằng giá trị thặng dư tương đối khi trình độ kỹ thuật mới từ trường hợp cá biệt được áp dụng trở thành phổ biến. Vì vậy, C. Mác gọi giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương đối.
2.2 Các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư
2.2.1 Lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận bình quân
2.2.1.1 Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận
Lợi nhuận
Để sản xuất hàng hoá, xã hội phải chi phí một số lao động nhất định
-Lao động quá khứ (tức lao động vật hoá) tức là giá trị của tư liệu sản xuất
-Lao động sống (lao động hiện tại) tức là lao động tạo ra giá trị mới(v + m)
Do đó giá trị xã hội của hàng hoá là c + v + m
Nhưng nhà tư bản là chủ lao động, họ không phải hao phí lao động, họ chỉ quan tam đến việc đã bỏ chi phí bao nhiêu để sản xuất hàng hoá (gồm tiền mua tư liệu sản xuất và tiền mua sức lao động v). C. Mác gọi chi phí đó là chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa, và ký hiệu bằng k (k = c + m)
Như vậy, khi xuất hiện chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa thì công thức giá trị hàng hoá : gt = c + v + m sẽ chuyển thành gt = k + m
Sau khi bán hàng hoá, nhà tư bản không những bù đắp đủ số tư bản đac bỏ ra (c + m) mà còn thu được số tiền lời ngang bằng với m. Số tiền này gọi là lợi nhuận
Vậy, giá trị thặng dư được so với toàn bộ tư bản ứng trước và mang hình thức chuyển hoá là lợi nhuận
Nếu ta ký hiệu lợi nhuận là p thì công thức gt = c + v + m = k + m sẽ chuyển thành gt = k + p (hay giá trị hàng hoá bằng chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa cộng với lợi nhuận)
Vấn đề đặt ra là giữa p và m có gì khác nhau?
“Về mặt lượng” : Nếu hàng hoá bán đúng giá trị thì m = p, và p giống nhau ở chỗ chúng đều có chung một nguồn gốc là kết quả lao động không công của công nhân làm thuê.
“Về mặt chất” : m phản ánh nguồn gốc sinh ra từ v, còn p thì được xem như toàn bộ tư bản ứng trước đề ra. Dó đó p đã che dấu quan hệ bóc lột TBCN, che dấu nguồn gốc thực sự của nó, đó là lao động thặng dư không được trả công của người công nhân.
Trên thực tế, do chi phí sản xuất TBCN luôn luôn nhỏ hơn chi phí sản xuất thực tế, cho nên nhà tư bản chỉ cần bán hàng hóa cao hơn chi phí sản xuất TBCN và có thể thấp hơn giá trị hàng hoá (Chi phí sản xuất thực tế0 là đã có lợi nhuận rồi. Tương quan giữa m và p chính là tương quan giữa giá bán hàng hoá của nhà tư bản với giá trị hàng hoá. Sự không thống nhất giữa m và p này đã càng làm che dấu thực chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản
Tỷ suất lợi nhuận
Trên thực tế các nhà tư bản không chỉ quan tâm đến lợi nhuận mà còn quan tâm đến tỷ suất lợi nhuận
Tỷ suất lợi nhuận là tỷ suất tính theo phần trăm giữa giá trị thặng dư và toàn bộ tư bản ứng trước.
Nếu ký hiệu tỷ suất lợi nhuận là p’ ta có:
. 100% = . 100%
Về mặt lượng, p’ luôn nhỏ hơn m’. Về mặt chất thì m’ phản ánh trình độ bóc lột của nhà tư bản đối với công nhân làm thuê. Còn p’ không thể phản ánh được điều đó mà chỉ nói lên mức lãi của việc đầu tư.
Tỷ suất lợi nhuận chỉ cho nhà tư bản biết tư bản của họ đầu tư vào đâu thì có lợi. Do đó, việc thu p và theo đuổi p’ là động lực thúc đẩy nhà tư bản, là mục tiêu cạnh tranh của các nhà tư bản
2.2.1.2 Sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân – quy luật lợi nhuận bình quân
Dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, dưới CNTB luôn tồn tại cạnh tranh. Đây là hình thức đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện có lợi nhất về sản xuất và tiêu thụ hàng hoá
Trong xã hội tư bản có hai loại cạnh tranh: cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành.
Cạnh tranh trong nội bộ ngành là sự cạnh tranh giữa các xí nghiệp trong cùng một ngành, cùng sản xuất ra một hàng hoá nhằm mục đích tiêu thụ hàng hoá có lợi hơn để thu lợi nhuận siêu ngạch.
Cạnh tranh giữa các ngành: Đây là sự cạnh tranh giữa các nhà tư bản trong các ngành sản xuất khác nhau nhằm mục đích tìm nơi đầu tư có lợi hơn. kết quả của cuộc cạnh tranh này là hình thành dần tỷ suất lợi nhuận bình quân và giá trị hàng hoá chuyển hoá thành giá trị sản xuất
Do các xí nghiệp khác nhau có cấu tạo hữu cơ của tư bản khác nhau, cho nên để thu được nhiều lợi nhuận thì các nhà tư bản phải chọn những ngành nào có tỷ suát lợi nhuận cao để đầu tư vốn. Nhưng trên thực tế của xã hội tư bản lại biểu hiện rằng: Bất kể tư bản được đầu tư vào ngành nào, nếu có khối lượng tư bản bằng nhau thì phải thu được lợi nhuận bằng nhau
Sở dĩ có điều đó là do lòng tham vô đáy của các nhau tư bản quyết định, các nhà tư bản ở những ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp sẽ di chuyển tư bản của mình sang những ngành có tỷ suất lợi nhuận cao hơn. quá trình di chuyển đó làm cho cung cầu ở các ngành đó thay đổi, dẫn tơí sự thay đổi tỷ suất lợi nhuận ở các ngành khác nhau : tăng lên ở những ngành có tỷ luật lợi nhuận thấp và giảm đi ở những ngành có tỷ suất lợi nhuận cao. Kết quả của sự thay đổi này là hình thành nên tỷ suất lợi nhuận bình quân một các tự phát. Đó là tỷ số tính theo % giữa tổng giá trị thặng dư trong xã hội tư bản và tổng tư bản xã hội đã đầu tư vào tất cả các lĩnh vực, các ngành của nền sản xuất TBCN.
Quá trình bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận là sự hoạt động của quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân là biểu hiện cụ thể của sự hoạt động của quy luật giá trị thặng dư trong thời kỳ tự do cạnh tranh cảu chủ nghĩa tư bản
2.2.1 Lợi nhuận thương nghiệp
Do việc sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển, sự phân công lao động xã hội, sự chuyên môn hoá ngày càng cao mà xuất hiện tư bản thương nghiệp dưới CNTB
Tư bản thương nghiệp dưới CNTB là một bộ phận của tư bản công nghiẹp tách rời ra, phục vụ quá trình lưu thông hàng hoá của tư bản công nghiệp
Tư bản thương nghiệp có chức năng chính là mua hàng của nhà tư bản công nghiệp (với giá mua nhỏ hơn giá trị hàng hoá) và bán cho người tiêu dùng (với giá bán bằng giá trị hàng hoá). Nếu xét một cách hạn chế ở chức năng mua và bán, tư bản thương nghiệp không sáng tạo ra giá trị và giá trị thặng dư. Về thực chất, lợi nhuận thương nghiệp là một phần giá trị thặng dư được sáng tạo ra trong lĩnh vực sản xuất mà nhà tư bản công nghiệp nhường cho nhà tư bản thươngnghiệp
Tư bản thương nghiệp với những đặc trưng của mình đã có vai trò to lớn đối với tư bản công nghiệp, đó là đảm bảo quá trình tái sản xuất được tiếp tục và mở rộng, giúp vốn của nha tư bản công nghiệp chu chuyển nhanh hơn và nâng cao tỷ suất lợi nhuận cho nhà tư bản công nghiệp
Sự hình thành lợi nhuận thương nghiệp như thế nào?
Lợi nhuận thương nghiệp là số chênh lệch giữa giá bán và giá mua hàng hoá. Đó là một phần giá trị thặng dư mà nhà tư bản công nghiệp đã thu được. Sự phân chia giá trị thặng dư giữa nhà tư bản công nghiệp và nhà tư bản thương nghiệp được tiến hành theo quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân, tức là lợi nhuận thương nghiệp cũng vận động theo quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân.
Sự hình thành Ptn đã che dấu đầu thêm một bước quan trọng hệ bóc lột của TBCN.
2.2.3 Lợi tức cho vay
2.2.3.1 Lợi tức cho vay
Trong xã hội tư bản, luôn luôn tồn rại việc một số nhà tư bản nào đó có một số tư bản tiền tệ tạm thời nhàn rỗi, không sinh lợi. Nhưng nhà tư bản rất mong muốn tiền phải đẻ ra tiền… Mặt khác, luôn luôn có một số nhà tư bản khác rất cần tiền dẫn tới xu hướng muốn đi vay
Từ hai mặt trên tất yếu sinh ra sự vay mượn lẫn nhau, sinh ra quan hệ tín dụng TBCN. Và nhờ có quan hệ vay mượn này mà tư bản nhàn rỗi đã trở thành tư bản cho vay. Vậy tư bản cho vay là tư bản tiền tện mà người chủ của nó nhường cho một người khác sử dụng trong một thời gian để nhận được một số lời lãi nào đó. Số lời lãi đó được gọi là lợi tức
Nhà tư bản cho vay nhường quyền sử dụng tư bản của mình cho người khác, do đó thu về lợi tức. Nhà tư bản đi vay sử dụng tư bản vay được để đưa vào sản xuất kinh doanh thu được lợi nhuận bình quân. Vì vậy anh ta phải trích một phần lợi nhuận thu được để trả cho nhà tư bản cho vay
Nguồn gốc của lợi tức là một phần giá trị thặng dư do công nhân sáng tạo ra trong lĩnh vực sản xuất. Nhưng việc nhà tư bản cho vay thu được lợi tức đã che dấu mất quan hệ bóc lột TBCN.
Tỷ suất lợi tức:
Tỷ suất lợi tức là tỷ lệ tính theo % giữa tổng số lợi tức và số tư bản tiền tệ cho vay. Gọi lợi tức là z, tỷ suất lợi tức là z’
2.2.3.2 Ngân hàng và lợi nhuận ngân hàng
Ngân hàng TBCN là cơ quan kinh doanh tiền tệ, làm môi giới giữa ngàoi đi vay và người cho vay. Trong nghiệp vụ nhận gửi, ngân hàng trả lợi tức cho người giử tiền vào, còn trong nghiệp vụ cho vay ngân hàng thu lợi tức cho vay. Chênh lệch giữa lợi tức cho vay và lợi tức nhận gửi trừ đi những khoản chi phí cần thiết về nghiệp vụ ngân hàng, cộng với các khoản thu nhập khác về kinh doanh tiền tệ hình thành nên lợi nhuận ngân hàng. Tư bản ngân hàng là tư bản hoạt động, nó thu được lợi nhuận bình quân. Lợi nhuận ngân hàng vận động theo quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân
2.2.4 Địa tô TBCN
Trong lĩnh vực nông nghiệp có 3 giai cấp: Địa chủ, tư bản kinh doanh nông nghiệp và giai cấp công nhân nông nghiệp làm thuê, nhà tư bản kinh doanh trong nông nghiệp cũng thu được lợi nhuận bình quân. Nhưng muốn kinh doanh trong nông nghiệp thì họ phải thuê ruộng đất của địa chủ (chủ ruộng đất). Vì vậy ngoài lợi nhuận bình quân ra, nhà tư bản kinh doanh phải thu thêm được một phần giá trị thặng dư dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân đó, tức là lợi nhuận siêu ngạch. Lợi nhuận siêu ngạch này tương đối ổn định và lâu dài, và họ phải trả nó cho chủ ruộng đất dưới hình thái địa tô TBCN. Vậy địa tô TBCN là một phần giá trị thặng dư còn lại sau khi đã khấu trừ đi phần lợi nhuận bình quân của nhà tư bản kinh doanh ruộng đất
CHƯƠNG II
LỢI NHUẬN LÀ ĐỘNG LỰC CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ VẤN ĐỀ LỢI NHUẬN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG HIỆN NAY
1. Lợi nhuận là động lực của nền kinh tế thị trường
1.1 Cơ chế thị trường - những lý luận cơ bản
Nền kinh tế thị trường (KTTT) là nền kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường, trong đó 3 vấn đề cơ bản là: sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? và sản xuất cho ai? đều được giải quyết thông qua thị trường. Trong nền kinh tế này, cá nhân người ti4eu dùng và các nhà sản xuất kinh doanh tác động lẫn nhau lên thị trường để xác định một hệ thống giá cả thị trường, lợi nhuận, thu nhập.. .Các doanh nghiệp sẽ dx kinh doanh với quy luật tối đa hoá lợi nhuận, tiêu dùng của các hộ gia đình sẽ theo quy luật tối đa hoá lợi ích, còn chính phủ sẽ quản lý nền kinh tế nhằm đảm bảo hiệu quả kinh tế, xã hội.
Các hệ thống kinh tế hiện đại ngày nay không mang những hình thức thuần tuý nào mà đều là các nền kinh tế hỗn hợp, đó
Là sự kết hợp các nhân tố thị trường, kế hoạch và truyền thống. Trong đó về chế độ sở hữu thì đa dạng hoá các loại hình sở hữu, về cơ cấu thì bao gồm nhiều thành phần kinh tế, hoạt động theo cơ chế thị trường và chịu sự quản lý điều tiết của Nhà nước. Cơ chế thị trường đòi hỏi mọi thành viên phải tôn trọng các quy luật khách quan của nó, như quy luật cung cầu, lưu thông, cạnh tranh, giá cả...
1.2. Vai trò của lợi nhuận đối với nền kinh tế thị trường.
1.2.1 Lợi nhuận thúc đẩy lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất phát triển.
Lợi nhuận – hình thức chuyển hoá của giá trị thặng dư là nguồn gốc của sự giàu có của xã hội. Trong cơ chế thị trường, mọi thành viên phải hoạt động với mục tiêu hiệu quả, hiệu quả trong sản xuất kinh doanh và hiệu quả trong tiêu dùng.
Các nhà sản xuất kinh doanh luôn luôn theo đuổi mục tiêu lợi nhuận. Đó chính là thước đo cho sự thành công của họ. Để nâng cao lợi nhuận củ mình, các doanh nghiệp tìm mọi cách nâng cao năng suất lao động, cải tiến kỹ thuật, tăng cường áp dụng thành tựu khoa học công nghệ, tổ chức quản lý sản xuất tiêu thụ hợp lý, giảm thiểu chi phí, nâng cao khả năng cạnh tranh. Để thực hiện mục đích đó, các doanh nghiệp ngày càng đầu tư nhiều hơn cho nghiên cứu khoa học, những phát minh lần lượt ra đời.
Đồng thời, để đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của sản xuất, công nhân ngày càng phải hoàn thiện hơn về trình độ, kỹ năng nghề nghiệp của mình.
Điều đó chính là nội dung của sự phát triển lực lượng sản xuất (LLSX). Như vạy với mục đích thu giá trị thặng dư, mà đặc biệt là giá trị thặng dư siêu ngạch, các doanh nghiệp đã trực tiếp làm phát triển lực lượng sản xuất về mọi mặt, điển hình và mạnh mẽ nhất đó là hai cuộc cách mạng công nghiepẹ trong lịch sử.
Sự phát triển mạnh mẽ cửa lực lượng sản xuất đã quyết định sẹ phát triển kéo theo của quan hệ sản xuất, đặc biệt là quan hệ sản xuất TBCN. Sự phát triển đó đã dần dần phá vỡ các quan hệ sản xuất không còn phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của nó, thiết lập nên quan hệ sản xuất mới, trong đó có quan hệ về phân phối lợi nhuận.
Do tác động của lợi nhuận, chế độ phân chia lợi nhuận làm cho chế độ sở hữu vừa được củng cố phát triển, vừa làm nảy sinh mâu thuẫn mới. Càng ngày chế độ tham dự phân chia lợi nhuận càng phức tạp và đa dạng, có kéo theo sự đa dạng hoá các loại hình sở hữu, các thành phần kinh tế mà tựu trung lại là làm thay đổi cả tổng thể các mối quan hệ kinh tế trong từng quốc gia, từng thời kỳ.
Quan hệ phân phối lợi nhuận còn tác động đến quá trình phân phối các nguồn lực xã hội và thu nhập đến việc thiết lập và thay đổi các hình thức, thể chế kinh tế xã hội ở các giai cấp, dân tộc.
1.2.2. Lợi nhuận thúc đẩy quá trình tái sản xuất xã hội.
Như ta đã biết, lợi nhuận là nguồn gốc của sự giàu có lên của cải xã hội. Đối với các doanh nghiệp, một phần chủ yếu của lợi nhuận thu được dùng để mở rộng, đẩy mạnh sản xuất và tích luỹ, tiếp tục quá trình tái sản xuất. Đối với xã hội, tổng thu nhập của Nhà nước tăng lên là nhờ lợi nhuận và nó cũng được dùn để đầu tư trở lại nền kinh tế – xã hội, nhằm xây dựng cơ sở hạ tầng, kỹ thuật đảm bảo công bằng xã hội, đảm bảo các điều kiện môi trường kinh tế thuận lợi cho phát triển.. . Như vậy không có lợi nhuận thì không có sự duy trì và mở rộng sản xuất ở các doanh nghiệp, không có sự phát triển ở các quốc gia.
1.2.3. Lợi nhuận là mục tiêu và động lực của các doanh nghiệp kinh tế.
Các doanh nghiệp tiến hành hoạt động kinh doanh với động cơ kinh tế là để kiếm lợi nhuận. Trong nền kinh tế thị trường lợi nhuận là mục tiêu của kinh doanh là thước đo hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, là động lực kinh tế thúc đẩy các doanh nghiệp cũng như mỗi người lao động không ngừng sử dụng hợp lý tiết kiệm cá nguồn lực, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh Thật vậy, để cung cấp hàng hoá và dịch vụ cho nhu cầu của thị trường, nhu cầu của người tiêu dùng, các nhà sản xuất phải bỏ ra những chi phí nhất định. Họ mong muốn hàng hoá và dịch vụ của họ đực mua với giá ít nhất là đủ để bù đắp lại những chi phí đã chi ra, ngoài ra học còn muốn sẵn sàng cung cấp cho nhu cầu tiêu dùng của con người những hàng hoá và dịch vụ mong muốn. Do đó động cơ lợi nhuận là một bộ phận hợp thành quyết định tại ra sự hoạt động thắng lợi củ thị trường hàng hoá cũng như các doanh nghiệp.
Lợi nhuận là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh toàn bộ kết quả và hiệu quả của quá trình sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp, kể từ lúc bắt đầu tìm kiếm nhu cầu thị trường, chuẩn bị sản xuất kinh doanh, tổ chức quá trình sản xuất kinh doanh, tổ chức tiêu thụ sản phẩm. Nó phản ánh cả về mặt lượng và chất của quá trình kinh doanh. Kinh doanh tốt sẽ cho lợi nhuận nhiều và khi lợi nhuận nhiều sẽ tạo khả năng để đầu tư tái sản xuất mở rộng, tiếp tục phát triển quá trình sản xuất kinh doanh có hiệu quả cao hơn. Ngược lại, làm ăn kém sẽ dẫn đến thua lỗ phá sản là điều tất yếu. Vì vậy có thể nói rằng lợi nhuận tối đa là mục tiêu hàng đầu trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi doanh nghiệp cạnh tranh trong cơ chế thị trường.
Lợi nhuận của doanh nghiệp có quan hệ chặt chẽ với các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật khác như chủ tiêu về đầu tư, sản xuất, sử dụng các yếu tố đầu vào, chỉ tiêu chi phí và giá thành, chỉ tiêu các đầu ra,.. . các mối quan hệ ấy là định hướng, là căn cứ để doanh nghiệp có các quyết định, hành vi phù hợp.
Tóm lại phấn đấu tăng lợi nhuận là đòi hỏi tất yếu của quá trình kinh doanh, là mục tiêu và động lực, là điều kiện tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
1.2.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường.
Các yếu tố thuộc về vĩ mô.
Đó là cơ chế, chính sách, chiến lược về kinh tế của Nhà nước. Nếu cơ chế chính sách khuyến khích tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thì hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ thuận lợi, khả năng đạt lợi nhuận tăng lên và ngược lại, về đầu tư. Sự ổn định về chính trị, tăng trưởng về kinh tế, hay sự lành mạnh của thị trường tài chính, tỷ giá tiền tệ hợp lý... tất cả đều có ảnh hưởng quan trọng đến lợi nhuận của doanh nghiệp
Các yếu tố thuộc về bản thân doanh nghiệp, như nhu cầu thị trường về hàng hoá, dịch vụ, tổ chức quá trình sản xuất, tổ chức tiêu thụ hàng hoá, quản lý sản xuất hay giá cả các yếu tố đầu vào của doanh nghiệp, trình độ tay nghề công nhân, tính hiện đại của các máy móc thiết bị, v.v... Đây là những yếu tố tác động trực tiếp đến quy mô sản xuất, năng lực cạnh tranh và tiêu thụ hàng hoá của doanh nghiệp. Do đó nó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp sẽ thu được lợi nhuận cao khi có được những yếu tố vĩ mô thuận lợi, đồng thời bảo đảm tổ chức sản xuất điều kiện hợp lý, hiệu quả.
2. Vấn đề lợi nhuận đối với nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
2.1. Cơ chế cũ và quan niệm cũ về vai trò của lợi nhuận.
Sau khi kết thúc 2 cuộc kháng chiến vĩ đại, cả nước ta bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội trên toàn quốc. Mô hình kinh tế của đất nước ta lúc đó là mô hình kinh tế chỉ huy với cơ chế tập trung bao cấp, áp dụng khá máy móc mô hình kinh tế của Liên Xô. Về sở hữu thì chỉ tồn tại hai hình thức là sở hữi toàn dân và sở hữu tập thể, tương ứng là hai thành phần kinh tế chủ yếu: kinh tế quốc doanh và kinh tế hợp tác xã. Trong cơ chế này, mọi quyết định về sản xuất kinh doanh và phân phối đều do Nhà nước quyết định thông qua kế hoạch tập trung. Nhà nước giao công nghệ, kỹ thuật, nguyên liệu, vốn, chỉ tiêu sản xuất cho các doanh nghiệp và đảm bảo cao tiêu sản phẩm. Về tiêu dùng, chúng ta áp dụng hệ thống “phân phối – phân phối lại” không dựa trên nhu cầu thiết thực củ người tiêu dùng.
Về vấn đề lợi nhuận, thời kỳ này chúng ta đã chủ quan duy ý chí, hiểu và áp dụng phiến diện chủ nghĩa Mác- Lênin, muốn tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua tất thảy mọi phạm trù của chủ nghĩa tư bản. Không nằm ngoài điều đó, lợi nhuận được xem là phạm trù riêng có của CNTB, là sự bóc lột không thể chấp nhận được. Và vấn đề lợi nhuận không được đề cập đến trong thực tiễn nền kinh tế.
Trong có chế kế hoạch hoá tập trung, các doanh nghiệp chỉ cần biết sản xuất ra đúng như chỉ tiêu đã giao, không cần quan tâm đến thị trường, đến thị hiếu mà nhu cầu và chất lượng hàng hoá mà mình sản xuất ra. Mọi sản phẩm làm ra đều được Nhà nước bao tiêu và hiệu quả làm ăn sẽ không được xét tới một cách thực sự bởi công thức “Lãi Nhà nước thu, lỗ Nhà nước bù” đã làm cho lợi nhuận mất đi vai trò động lực của nó.
Rõ ràng cơ chế kin
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Những vấn đề cơ bản về lợi nhuận và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường.docx