Đề án Phát triển đồng bộ các loại thị trường ở Việt Nam

MỤC LỤC:

LỜI NÓI ĐẦU: 1

I.LÝ LUẬN CHUNG: 3

1.Quan niệm về phát triển đồng bộ các loại thị trường ở Việt Nam: 3

2.Một số khái niệm về kinh tế thị trường: 8

2.1 Thị trường: 8

2.2. Đặc trưng cơ bản của các loại thị trường: 8

3. Mối quan hệ giữa các loại thị trường: 9

3.1.Mối quan hệ giữa thị trường đầu vào và thị trường đầu ra: 9

3.2.Mối quan hệ giữa thị trường trong và ngoài nước: 9

II. THỰC TRẠNG: 11

1.Thực trạng chung: 11

2.Thực trạng từng loại thị trường: 11

2.1.Thị trường hành hóa - dịch vụ 11

2.2.Thị trường tài chính 14

2.3 Thị trường lao động: 17

2.5 Thị trường khoa hoc – công nghệ: 21

III.GIẢI PHÁP: 22

1.Giải pháp chung: 22

2.Giải pháp riêng cho từng loại thị trường: 22

2.1 Thị trường hàng hoá - dịch vụ: 22

2.2 Thị trường tài chính: 23

2.3 Thị trường lao động: 23

2.4 Thị trường bất động sản: 24

2.5 Thị trường khoa hoc – công nghệ: 24

KẾT LUẬN: 25

TÀI LIỆU THAM KHẢO: 26

 

 

 

docx27 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1596 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Phát triển đồng bộ các loại thị trường ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thuộc, tác động biện chứng giữa các thị trường do quá trình trao đổi hoạt động và phối hợp cung ứng hình thành sản phẩm cuối cùng. Sự độc lập tương đối của các thị trường luôn có xu hướng phá vỡ sự cân bằng tổng thể. Sự phụ thuộc và liên hệ giữa các thị trường đòi hỏi sự cân bằng mới và ăn khớp với nhau. Vấn đề ở đây là, để cân bằng tự phát hay chủ động điều tiết để có sự ăn khớp hợp lý. Vai trò tạo điều kiện và chủ động điều tiết của Nhà nước để tạo sự đồng bộ, ăn khớp và hợp lực các hệ thống thị trường là đặc biệt quan trọng. Vấn đề thứ hai của sự đồng bộ các loại thị trường là vấn đề ăn khớp về cấp độ hay mức độ phát triển thị trường. Về phương diện lịch sử thị trường, có ba cấp độ phát triển như sau : - Cấp độ thị trường cổ điển : Đây là dạng thức của thị trường mà ở cùng một không gian, thời gian, địa điểm ba yếu tố người mua, người bán và hàng hóa xuất hiện đồng thời với nhau. Với dạng thức thị trường này, người ta có thể nhận biết về quy mô, động thái mua bán trên thị trường. - Cấp độ thị trường phát triển : Ở dạng thức thị trường này, hàng hóa không nhất thiết phải xuất hiện đồng thời với người mua, người bán. Người ta có thể mua bán ngay cả trước khi hàng hóa được sản xuất ra. Đó là mua bán theo hợp đồng ký trước. Với dạng thức thị trường này, tính "hiện hữu" của thị trường không nhìn thấy được. Thị trường trải rộng cả không gian và thời gian. - Cấp độ thị trường hiện đại : Trên thị trường lúc này chỉ xuất hiện hoặc người mua, hoặc người bán. Khi đó, người trung gian xuất hiện làm các công việc giao dịch và dịch vụ thương mại. Việc ra đời của các sở giao dịch chứng khoán, sở giao dịch thương mại... đáp ứng yêu cầu dịch vụ mua bán trên thị trường. Đặc trưng của thị trường hiện đại là các hình thức dịch vụ phong phú và phát triển rất cao. Về lịch sử, thị trường lần lượt trải qua ba cấp độ phát triển. Song mỗi quốc gia, khu vực không phải tuần tự diễn ra như vậy. Khi một cấp độ thị trường mới xuất hiện thì ở các nước thực hiện kinh tế thị trường đều có thể xuất hiện dạng thức thị trường đó bất luận trình độ phát triển kinh tế như thế nào. Tuy nhiên, mức độ phát triển, phạm vi và ảnh hưởng của mỗi dạng thức không giống nhau. Hiện nay, với các nước phát triển thì cấp độ thị trường hiện đại chiếm ưu thế phổ biến, thị trường phát triển còn chi phối ở phạm vi rất rộng, thị trường cổ điển là tàn dư. Ở Việt Nam, có thể nói cấp độ thị trường cổ điển là phổ biến, chừng mực nào đó cấp độ thị trường phát triển đã có sức chi phối lớn trên thị trường, còn cấp độ thị trường hiện đại đang ở giai đoạn khởi phát. Vấn đề thứ ba của phát triển đồng bộ các loại thị trường là sự ăn khớp, nhịp nhàng, cân đối và tạo hợp lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Tương quan giữa các thị trường trong tổng thể nền kinh tế quốc dân hợp lý thì hoạt động mới có hiệu quả. Từng loại thị trường cũng như hệ thống thị trường trong nền kinh tế quốc dân là một chỉnh thể thống nhất, không bị chia cắt bởi địa giới hành chính. Sự ăn khớp nhịp nhàng, cân đối giữa các loại thị trường theo yêu cầu của sản xuất và đời sống. Tính nhịp nhàng, cân đối về mặt lượng là tương quan tỷ lệ hợp lý giữa hàng và tiền, cung và cầu ở tầm vĩ mô. Sự nhịp nhàng cân đối còn thể hiện ở sự khớp nhau về tiến độ, thời gian, phạm vi trong tiến trình hình thành và phát triển thị trường "đầu vào", "đầu ra" của quá trình sản xuất. Sự ra đời của các loại thị trường và khả năng đồng bộ của chúng do trình độ và yêu cầu sản xuất xã hội quyết định. Nói một cách khác là nó mang tính khách quan. Nhà nước tạo môi trường và điều kiện để phát triển sản xuất hàng hóa và tạo cơ sở cho thị trường phát triển. Nhà nước điều tiết, điều chỉnh thị trường bằng các công cụ quản lý vĩ mô. Không thể chủ quan tạo thị trường và khuôn ranh giới cho thị trường. Mọi sự tác động duy ý chí sẽ tạo ra thị trường ngầm, Nhà nước không quản lý được. 2.Một số khái niệm về kinh tế thị trường: 2.1 Thị trường: Trong kinh doanh thị trường được hiểu là nơi mà người mua và người bán (bên có nhu cầu và bên cung cấp) tiếp xúc trực tiếp hoặc gián tiếp với nhau để trao đổi mua bán một loại hàng hóa, dịch vụ. Theo kinh tế hoc, một nghĩa rộng hơn thì thị trường được hiểu là nơi có các quan hệ mua bán hàng hoá, dịch vụ giữa vô số những người bán và người mua có quan hệ cạnh tranh với nhau, bất kể là ở địa điểm nào, thời gian nào. 2.2. Đặc trưng cơ bản của các loại thị trường: Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cũng mang những đặc điểm vốn có của kinh tế thị trường, đều vận động theo những quy luật vốn có của thị trường như: quy luật giá trị, quy luật cung - cầu, quy luật cạnh tranh…Trong nền kinh tế nước ta xét về thuộc tính hàng hoá cũng phải có đầy đủ các loại thị trường như: thị trường hàng hoá- dịch vụ, thị trường tài chính (vốn và tiền tệ), thị trường bất động sản, thị trường lao động, thị trường khoa học - công nghệ… Tuy nhiên một điều khác biệt căn bản giữa nền kinh tế thị trường nước ta và kinh tế thị trường ở các nước tư bản đó là mục tiêu phát triển của nền kinh tế. Nếu như ở các nước tư bản mục lợi nhuận được đặt lên hàng đầu thì ngược lại ở Việt Nam, mục tiêu quan trọng nhất là giải phóng sức sản xuất, động viên mọi nguồn lực trong và ngoài nước để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho CNXH, nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội, cải thiện từng bước đời sống nhân dân. Để đạt được mục tiêu đó, chúng ta cần kiên định vai trò điều tiết của Nhà nước, sự lãnh đạo của Đảng, tạo ra môi trường cạnh tranh hiệu quả, bình đẳng, công bằng xã hội. Nhà nước thông qua các công cụ và hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô để tổ chức, quản lý và định hướng các loại thị trường theo mục tiêu đã đề ra. 3. Mối quan hệ giữa các loại thị trường: Các loại thị trường có mối quan hệ chặt chẽ và cùng thúc đẩy nhau phát triển. 3.1.Mối quan hệ giữa thị trường đầu vào và thị trường đầu ra: Thị trường đầu vào là thị trường các yếu tố sản xuất bao gồm: thị trường vốn, sức lao động và các điều kiện vật chất khác cho quá trình tái sản xuất. Có thị trường này thì mới có các yếu tố sản xuất ra hàng hoá, dịch vụ hay nói cách khác mới có thị trường đầu ra. Số lượng, chất lượng, tính đa dạng của thị trường đầu ra do thị trường đầu vào quy định. Tuy nhiên thị trường đầu ra không phải phụ thuộc hoàn toàn vào thị trường đầu vào mà nó là mối quan hệ biện chứng, nó có tác động kích thích tính tích cực của thị trường đầu vào. Nếu như hàng hóa sản xuất ra mà không thể tiêu thụ thì sẽ không có tích luỹ cho quá trình tái sản xuất như vậy sản xuất sẽ bị ngưng trệ, khi đó cả thị trường đầu vào và đầu ra đều ngưng hoạt động. 3.2.Mối quan hệ giữa thị trường trong và ngoài nước: Sẽ thật là sai lầm nếu như muốn phát triển cân bằng các loại thị trường mà không chú ý đầy đủ tới thị trường nước ngoài, chú ý tới ngoại thương. Đặc biệt trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, khoa học kĩ thuật, thông tin liên lạc và hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, thị trường nước ngoài càng có ý nghĩa to lớn với việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hôi chủ nghĩa ở Việt Nam. Thị trường nước ngoài thông qua ngoaị thương có tác động thúc đẩy và hỗ trợ thị trường trong nước phát triển. Ngược lại, thông qua ngoại thương thị trường trong nước nhanh chóng tiếp cận thị trường thế giới. Xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế diễn ra mạnh mẽ, thị trường trong nước càng có mối quan hệ chặt chẽ với thị trường nước ngoài. Ngoại thương sẽ là cán cân để cân bằng thị trường trong và ngoài nước, đảm bảo sự phát triển bền vững của nền kinh tế. II. THỰC TRẠNG: 1.Thực trạng chung: Lịch sử phát triển các loại thị trường phải đi từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa đồng bộ đến đồng bộ. Ở Việt Nam hiện nay bên cạnh thị trường truyền thống là thị trường hàng hoá - dịch vụ các thị trường tài chính, bất động sản, thị trường khoa học công nghệ…đang dần dần từng bước được hình thành. Nhìn chung các loại thị trường còn sơ khai chưa đồng bộ xét về cả trình độ, phạm vi và sự phối hợp các yếu tố thị trường trong toàn thể thống nhất. 2.Thực trạng từng loại thị trường: 2.1.Thị trường hành hóa - dịch vụ Sau hơn 20 năm hình thành và phát triển khu vực thị trường này đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Nếu như trước năm 1986, khi nền kinh tế theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, mọi hàng hoá- dịch vụ đều được cung ứng bởi Nhà nước dưới hình thức tem phiếu, không hề có khái niệm thị trường, thì nay mọi thứ hàng hoá - dịch vụ từ thiết yếu đến theo nhu cầu đều được đáp ứng đầy đủ trên thị trường và chủ thể cung cấp hàng hoá- dịch vụ không còn độc quyền là Nhà nước nữa. Có thể nói mọi nhu cầu của con người đều được hệ thống thị trường này đáp ứng. Một minh chứng cho sự phát tiển này là việc cùng một loại hàng hóa nhưng có rất nhiều mẫu mã, thương hiệu và giá cả khác nhau cho người tiêu dung lựa chọn, sẽ thấy rất rõ khi vào bất kì một siêu thị nào, có những dãy riêng cho từng chủng loại hàng hoá và người tiêu dùng có thể tuỳ ý lựa chọn cho mình một sản phẩm phù hợp. Nói đến khu vực thị trường hàng hoá - dịch vụ không thể không kể đến thị trường hàng hóa - dịch vụ xuất nhập khẩu. Thị trường này ngày càng được mở rộng nhất là từ khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO ngày 17 tháng 1 năm 2007 vừa qua. Trong những năm gần đây, cán cân thương mại luôn đạt mức xuất xiêu. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là những mặt hàng có lợi thế so sánh như: gạo, dầu thô, than đá, hải sản, da giầy… Có thể nói thị trường hàng hoá xuât nhập khẩu ngày càng trở nên sôi động, đóng góp không nhỏ vào GDP cả nước. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tổng giá trị xuất nhập khẩu 4 tháng đầu năm 2008 đạt khoảng 18,26 tỉ USD, tăng 27,6 % so với cùng kì năm trước. Nhìn chung các mặt hàng xuất khẩu đều tăng. Dầu thô đạt sản lượng 4,58 triệu tấn với kim ngạch 3,5 tỉ USD, dệt may đạt 2,6 tỉ USD tăng 24,5 % so với cùng kì năm 2007… Thị trường dịch vụ - ngành công nghiệp không khói của Việt Nam cũng ngày càng phát triển. Theo thống kê 4 tháng đầu năm 2008 có 1,7 triệu lượt khách nước ngoài vào Việt Nam, tăng 16,1% so với cùng kì, trong đó trên 1 triệu lượt khách là đi thăm quan, du lịch, nghỉ ngơi, tăng 12,3% so với cùng kì 2007. Tuy nhiên, hiện nay khu vực thị trường này vẫn còn hạn hẹp và còn tồn tại nhiều hiện tượng tiêu cực như: hàng giả, hàng nhập lậu, hàng nhái nhãn hiệu…vẫn đang từng ngày từng giờ gây rối thị trường. Sự hạn hẹp thể hiện ở việc đầu cơ tích trữ hàng hoá, đẩy giá lên cao nhằm thu lợi nhuận bất chính. Trong mấy ngày vừa qua vì một tin đồn rằng Việt Nam sẽ thiếu gạo của một số kẻ xấu, điều này đã kích động nhân dân đổ xô đi mua gạo để dự trữ. Lượng cầu bỗng tăng đột biến, một số chủ đại lý thấy được tình hình có lợi bèn đẩy giá lên cao đế gấp đôi, gấp ba giá bình thường, số khác thì hạn chế bán ra để chờ cho giá lên cao nữa rồi mới bán. Thiệt hại lớn nhất thuộc về người tiêu dùng. Hay như trong lĩnh vực thuốc tân dược cũng vậy. Có không ít những kẻ xấu, thu được lợi nhuận bất chính từ việc đầu cơ thuốc, đặc biệt là thuốc ngoại, làm cho giá của các loại thuốc này tăng lên gấp nhiều lần giá thực của nó. Và người thiệt hại nhất vẫn là những người tiêu dùng. Một thực trạng nữa hiện nay là nạn hàng nhập lậu. Vì chưa thể ngăn chặn tận gốc loại hàng hoá này nên chúng vẫn lén lút đem vào thị trường trong nước. Mới đây khi Nghị định 146 NĐ/CP của Chính phủ có hiệu lực, thị trường mũ bảo hiểm Việt Nam bỗng trở nên sôi nổi. Và sôi nổi nhất có thể nói là ở các tỉnh biên giới như: Lạng Sơn, Lào Cai, Móng Cái- Quảng Ninh…từng ngày từng giờ có hàng nghìn chiếc mũ bảo hiểm được nhập lậu trái phép vào Việt Nam. Điều đáng lên án là chất lượng của những chiếc mũ này cực kì kém mặc dù trông bề ngoài thì nó không khác gì so với một chiếc đã được kiểm định. Các nhà khoa học đã chứng minh được rằng khi đội những chiếc mũ không đảm bảo như vậy sẽ còn nguy hiểm hơn là không đội, bởi khi có va đập dù là nhẹ những chiếc mũ này cũng sẽ vỡ ngay lập tức, và những mảnh vụn từ đó có thể rất nguy hiểm cho người sử dụng. Mở của đồng nghĩa với việc hàng hoá nước ngoài tràn ngập thị trường trong nước, chất lượng thường cao hơn và sẵn tâm lý sính hàng ngoại nên đã làm cho thị trường nội địa trở nên yếu thế. Tóm lại, Thị trường hàng hóa - dịch vụ đã có những bước tiến nhưng còn rất nhiều hạn chế, bất cập, cần có sự quản lý và điều tiết vĩ mô hiệu quả hơn nữa của Nhà nước để tạo nên một môi trường kinh doanh phát triển mạnh mẽ mà ổn định, bền vững. 2.2.Thị trường tài chính: Bao gồm thị trường tiền tệ và thị trường vốn Thị trường tiền tệ được hiểu là thị trường vốn ngắn hạn, nơi diễn ra các hoạt động của cung và cầu về vốn ngắn hạn. Vốn ngắn hạn bao gồm cầu trái phiếu ngắn hạn, có kỳ hạn tức là mua bán những món nợ ngắn hạn rủi ro thấp, tính thanh khoản cao. Thị trường tiền tệ diễn ra chủ yếu thông qua hoạt động của hệ thống ngân hàng, vì các ngân hàng là chủ thể quan trọng nhất trong việc cung cấp và sử dụng vốn ngắn hạn. Hiện nay thị trường vốn và tiền tệ nước ta đã có nhiều tiến bộ. Thể hiện qua sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống ngân hàng trong tất cả các lĩnh vực. Hệ thống ngân hàng một cấp trước đây được thay bằng hệ thống ngân hàng hai cấp: Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng thương mại (kinh doanh). Theo cơ cấu ngành kinh tế với tư cách là đối tượng phục vụ, ở Việt Nam có các ngân hàng chuyên doanh như: Ngân hàng ngoại thương Vietcombank, Ngân hàng nông nghiệp AgriBank, Ngân hàng đầu tư và phát triển BIDV, Ngân hàng chính sách xã hội…còn ngân hàng kinh doanh tổng hợp là Ngân hàng Công thương Vietinbank…Nhờ đó thị trường về vốn ngắn hạn rất dồi dào. Một kênh vốn nữa hiện nay mà chúng ta đã và đang coi trọng đó là kênh vốn đầu tư nước ngoài. Theo số liệu của Tổng cục thống kê, tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp giấy phép kể từ năm 1988 đến 2006 là 29,6 tỉ USD, riêng năm 2006 con số này là 10,2tỉ USD. Bức tranh về đầu tư nước ngoài ở nước ta trong năm 2006 có màu sắc phong phú hơn với sự xuất hiện của một số dự án mới có quy mô lớn từ các tập đoàn xuyên quốc gia Nhật Bản, Hoa Kỳ, Hàn Quốc, như dự án của Công ty thép Posco có vốn đầu tư 1,126 tỉ USD, dự án của Tập đoàn Intel với tổng vốn đầu tư 1 tỉ USD, dự án của Tập đoàn Tycoons với tổng vốn đầu tư 556 triệu USD, dự án Tây Hồ Tây vốn đầu tư 314,1 triệu USD, dự án Winvest Investment với vốn đầu tư 300 triệu USD... Nhiều dự án được cấp phép đã tích cực triển khai thực hiện như các nhà máy của Công ty Hoya Glass Disle, Canon, Matsushita, Brothers Industries, Honda… Ước tính vốn thực hiện trong năm 2006 đạt khoảng 4,1 tỉ USD, tăng 24,2% so với năm 2005. Thị trường chứng khoán nước ta tuy mới được hình thành nhưng theo đánh giá của các chuyên gia, là một trong những thị trường phát triển nhanh nhất thế giới về vốn hoá thị trường. Khả năng vốn hóa của thị trường trên sàn giao dịch cổ phiếu tại Tp.HCM tăng gấp 9 lần trong một năm vừa qua lên đến 2,7 tỷ USD (chiếm khoảng 5% GDP) tính đến tháng 8-2007. Tỉ lệ vốn hoá thị trường chứnh khoan năm 2006 đạt 35%GDP, phấn đấu năm 2010 đạt 50% và 2020 đạt 70%GDP. Thị trường chứng khoán đã trở thành một kênh huy động vố hữu hiệu cho các doanh nghiệp. Ngoài ra đây còn được coi là một trong những giải pháp giúp đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, góp phần tích cực thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân và đặc biệt là nguồn vốn từ các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, nhìn chung thị trường tài chính nước ta vẫn còn nhiều bất cập. Theo đánh giá của các chuyên gia thì thị trường tài chính Việt Nam hiện nay “vẫn chưa mở một cách đầy đủ”. Vẫn còn nhiều rào cản, đặc biệt là còn nhiều thủ tục hành chính đang làm nản lòng các nhà đầu tư nước ngoài. Trong nước, tình trạng phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp cũng đang trở thành một trở ngại lớn cho nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân muốn vay vốn nhưng không vay được vì vướng mắc thủ tục hành chính, trong khi nhiều ngân hàng thương mại huy động được tiền gửi mà không thể cho vay, để ứ nợ trong két dư nợ quá hạn, trong nhiều ngân hàng thương mại con số này đã lên đến mức báo động. Lãi xuất tiền vay cũng là một vấn đề đáng lo ngại đối với các nhà đầu tư. Thời gian vừa qua, thị trường tài chính Việt Nam đã có nhiều biến động mạnh. Như đã biết năm 2007 và những tháng đầu năm 2008 lạm phát trong nước ở mức hai con số, để giảm tình trạng này một yêu cầu đặt ra là phải giảm lượng tiền mặt trong lưu thông và vì thế một giải pháp được áp dụng là tăng lãi xuất tiền gửi ngân hàng. Các ngân hàng đồng loạt tăng lãi xuất tiền gửi cho tất cả các kì hạn. Lãi xuất tiền gửi tăng tất yếu dẫn đến lãi xuất cho vay cũng tăng vì thế lại là một trở ngại lớn cho các doanh nghiệp khi muốn vay vốn ngân hàng. Mặc dù Chính phủ và các Bộ ngành đã xây dựng một hệ thống các chính sách khuyến khích thị trường chứng khoán tương đối đầy đủ, nhưng thị trường này vẫn còn nhiều hạn chế như quy mô hẹp, hàng hoá đem bán chưa nhiều nên chưa thực sự hấp dẫn nhà đầu tư. Đặc biệt sự hiểu biết của một lượng lớn các nhà đầu tư về thị trường chứng khoán còn chưa cao, khả năng phân tích, đánh giá tình hình chưa thấu đáo, đầu tư chủ yếu theo tâm lý số đông, nên rất dễ gây mất ổn định, rối loạn thị trường. Việc thu hút vốn từ các nhà đầu tư nước ngoài là rất cần thiết và quan trọng nhưng hiện nay hành lang pháp lý về việc bán cổ phiếu cho các nhà đầu tư nước ngoài còn đang trong giai đoạn hình thành, chưa hoàn thiện nên rất nhiều nhà đầu tư gặp khó khăn khi muốn đầu tư vào Việt Nam thông qua thị trường chứng khoán. Tóm lại, thị trường tài chính là thị trường quan trọng nhất quyết định đến tốc độ tăng trưởng kinh tế nhưng hiện nay thị trường này ở nước ta vẫn chưa phát huy hết được tiềm năng của nó. Thị trường vẫn chưa mở cửa một cách đầy đủ do đó khả năng huy động vốn từ thị trường này còn rất lớn và việc dung nguồn vốn này đầu tư cho việc tăng trưởng kinh tế cũng là một trong những giải pháp góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước. Vì vậy, trước xu thế hội nhập và toàn cầu hóa như hiện nay, Việt Nam không thể làm ngơ trong việc mở cửa thị trường tài chính một cách đầy đủ để có thể tranh thủ mọi nguồn vốn trong và ngoài nước cho việc tăng trưởng kinh tế của mình. 2.3 Thị trường lao động: Thị trường hàng hoá sức lao động ở Việt Nam mới manh nha hình thành trong những năm gần đây. Đã xuất hiện một số trung tâm môi giới việc làm và xuất khẩu lao động, phần nào đã đáp ứng được về cung và cầu loại hàng hoá này. Tuy nhiên, xây dựng một thị trường lao động sôi động, ổn định và có hiệu quả là một quá trình lâu dài không thể trông đợi một bước nhảy vọt đột biến. Thị trường lao động được xác định là một trong những thị trường quan trọng của nền kinh tế, chủ trương này đã được thể hiện trong Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng: " Thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường theo định hướng XHCN, đặc biệt quan tâm những thị trường quan trọng nhưng còn sơ khai như: thị trường lao động, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và công nghệ". Quá trình đổi mới và phát triển kinh tế cùng với những cải cách đáng kể của đất nước đã đặt ra các tiền đề quan trọng cho sự phát triển thị trường lao động. Hệ thống cơ chế chính sách khuyến khích phát triển kinh tế, tác động đồng bộ đến cung, cầu lao động kết hợp với việc thiết lập các thể chế, chính sách thị trường lao động như: ban hành, sửa đổi, bổ sung Luật Doanh nghiệp, Bộ luật Lao động và các luật liên quan; ban hành nhiều văn bản dưới luật hướng dẫn, quy định các thể chế về thị trường lao động như chế độ tuyển dụng, hợp đồng lao động, thoả ước lao động tập thể, bảo hiểm xã hội, điều kiện lao động, tiền lương và thu nhập…để thiết lập mối quan hệ lao động, góp phần thúc đẩy thị trường lao động phát triển. Chính vì vậy, các hoạt động liên quan đến cung, cầu và sự chắp nối cung cầu trên thị trường lao động ngày càng được phát triển cả về quy mô và hình thức hoạt động. Các hoạt động giao dịch, tư vấn, cung cấp thông tin về thị trường lao động đang ngày càng sôi động, đa dạng và phong phú. Hệ thống tổ chức giới thiệu việc làm đã có những bước đột phá đáng kể (đến nay cả nước đã có 161 trung tâm giới thiệu việc làm, khoảng 3.000 doanh nghiệp họat động giới thiệu việc làm và nhiều tổ chức cung ứng lao động), cả nước đã tổ chức trên 90 hội chợ việc làm ở cấp tỉnh và hàng trăm hội chợ việc làm ở các trung tâm giới thiệu việc làm, các trường, các doanh nghiệp. Thông qua các hoạt động của thị trường lao động, tiền lương, tiền công đã được xác định tuỳ theo từng loại lao động trên thị trường.  Mặc dù đã có những chuyển biến đáng kể, nhưng sau 20 năm đổi mới, thị trường lao động nước ta vẫn chỉ mới trong giai đoạn hình thành, phát triển với quy mô còn hạn chế, chưa tương xứng với sự phát triển trong hệ thống thị trường với nhiều vấn đề nổi cộm như: Thị trường lao động chính thức chậm hình thành. Thị trường lao động phi chính thức chất lượng kém. Thị trường lao động bị chia cắt, tình trạng việc làm, thu nhập chậm được cải thiện Sự phân bố lực lượng lao động gây bất lợi cho khu vực nông thôn và các vùng kém phát triển. Số người tham gia thị trường lao động ở Việt Nam chỉ chiếm khoảng 20% lực lượng lao động. Số lao động dư thừa ở khu vực nông thôn, nông nghiệp rất lớn (có nơi lên tới 50%) với đa số lao động không có nghề, không được đào tạo, khi tham gia thị trường lao động rất khó tìm được việc làm, tạo nên bất cập trong quan hệ cung cầu lao động trên thị trường.  Sức cung về lao động lành nghề hiện nay con nhỏ hơn cầu rất nhiều, trong khi đó sức cung về sức lao động giản đơn lại vượt quá xa cầu, dẫn đến tình trạng vừa thừa vừa thiếu lao động. Theo đánh giá trong quý I năm 2008 mặc dù thị trường chứng khoán ảm đạm nhưng lượng cầu lao động về chứng khoán lại vẫn tăng mạnh, đứng thứ hai sau chứng khoán là cầu lao động về ngành bất động sản, sau đó là về ngành kế toán, kiểm toán… Nếu chúng ta không có những biện pháp tích cực nâng cao chất lượng lao động thì nguy cơ dẫn đến một cuộc khủng hoảng lao động sẽ ngày càng tới gần. Một thực trạng nữa của thị trường này là tình trạng môi giới bất hợp pháp, lừa đảo, đặc biệt là trong lĩnh vực xuất khẩu lao động. 2.4 Thị trường bất động sản: Theo luật dân sự Việt Nam hiện hành “Bất động sản là các tài sản không di dời được trong không gian, bao gồm: Đất đai; Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền với nhà, công trình xây dựng đó; Các tài sản khác gắn liền với đất đai; Các loại tài sản khác do pháp luật quy định.” Giai đoạn trước đỏi mới thị trường bất động sản (BĐS) còn lu mờ, đầu tư, phân phối chủ yếu do Nhà nước chi phối, tư duy của phần lớn nhà đầu tư còn chưa phát triển do yếu tố kinh tế - xã hội, chính sách còn rất hạn chế. Từ sau đổi mới đến nay, pháp luật về bất đống sản đã dần được hoàn thiện tạo hành lang pháp lý cho hoạt động giao dịch của thị trường này ngày một sôi động. Thị trường này đã góp phần thu hút đáng kể các nguồn đầu tư cho phát triển kinh doanh và sản xuất trên nhiều lĩnh vực. Tuy vậy, do mới hình thành nên thị trương BĐS nước ta vẫn còn rất nhiều bất cập và hạn chế. Hiện tượng đầu cơ vẫn còn rất phổ biến dẫn đến đẩy giá nhà đất lên cao gấp nhiều lần giá trị thực của nó. Tình trạng này khiến cho những người có thu nhập thấp khó lòng có thể mua được nhà. Một thực trạng nữa của khu vực này là hiện tượng giao dịch ngầm. Nhiều căn nhà vẫn còn trên giấy tờ chưa hề được khởi công nhưng đã qua tay không biết bao nhiêu chủ!! Là một thị trường mang tính nhạy cảm cao nên giá cả của nó biến động rất thất thường. Thời gian trước khi mà thị trường chứng khoán chao đảo thì rất nhiều nhà đầu tư đã chuyển sang đầu tư vào thị trường bất động sản thay cho chứng khoán. Việc này đã góp phần đẩy giá nhà đất lên rất cao. Tuy nhiên hiện nay tình hình đã hoàn toàn thay đổi. Giá nhà đất đã giảm từ 20-30% so với cùng kì năm ngoài nhưng theo các chuyên gia dự báo đây vẫn chưa là mức “đáy” dự đoán trong tháng 6-2008 này giá còn tiếp tục giảm thêm khoảng 15% nữa. Người có tiền thì muốn chờ giá xuống thấp nữa, còn người “ôm bất động sản” thì muốn nhanh chóng bán ra. Cung không gặp cầu đã khiến cho thị trường tạm thời bị đóng băng. 2.5 Thị trường khoa hoc – công nghệ: Ở Việt Nam thị trường này mới hình thành và phát triển ở mức độ rất sơ khai. Lượng giao dịch còn rất ít và đơn điệu (chủ yếu diễn ra giữa đối tác nước ngoài và Việt Nam). Từ năm 1990 đến năm 2002 chỉ có khoảng 150 hợp đồng chuyển giao công nghệ nhập khẩu vào Việt Nam. Ngay từ những năm đầu 1980 Việt Nam đã nhận thấy rõ vai trò quan trọng của khoa hoc và công nghệ trong phát triển kinh tế. Những năm gần đây, vấn đề chuyển đổi vai trò của Nhà nước từ trực tiếp cung cấp các sản phẩm khoa học công nghệ sang vai trò tạo môi trường tạo môi trường thuận lợi cho các chủ thể tiềm năng tham gia trao đổi trên thị trường đã bắt đầu được thực hiện. Khu vực doanh nghiệp Việt Nam hiện nay hầu như chưa thể hiện vai trò trên thị trường khoa hoc công nghệ. Đây là một trong những lý do khiến thị trường khoa hoc công nghệ nước ta vẫn chỉ ở mức độ sơ khai. Phần lớn khu vực doanh nghiệp chưa quan tâm đến cải tiến công nghệ chưa coi đó là yếu tố quyết đị

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxPhát triển đồng bộ các loại thị trường ở Việt Nam.docx
Tài liệu liên quan