Đề án Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN là giải pháp cơ bản để chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nước ta hiện nay

MỤC LỤC

Mở đầu 3

Nội dung 4

I. Cơ sở lý luận của việc phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ ở nước ta. 5

1. Lý luận Mac - Lênin về sự phát triển của sản xuấthàng hoá và kinh tế hàng hoá. 5

2. Điều kiện ra đời của nền kinh tế hàng hóa.

3. Ưu thế của sản xuất hàng hóa. 6

4. Sự tồn tại khách quan của kinh tế hàng hoá trong thờikỳ quá độ. 7

II. Tính tất yếu khách quan phải phát triển nền kinh tế hànghoá nhiều thành phần ở Việt Nam. 8

1. Do yêu cầu của phát triển lực lượng sản xuất. 8

2. Do tồn tại nhiều thành phần kinh tế. 9

3. Do đòi hỏi nâng cao đời sống nhân dân. 10

III. Những giải pháp phát triển kinh tế hàng hoá. 11

1. Thực trạng kinh tế hàng hóa nước ta hiện nay. 11

1.1. Những thành tựu đạt được khi có chính sách mới. 11

1.2. Những khó khăn và thách thức mới. 12

2. Những giải pháp phát triển kinh tế hàng hoá ở Việt Nam. 14

2.1. Đẩy mạnh quá trình đa dạng hoá sở hữu tạo điều kiệnphát triển mạnh nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta. 14

2.2. Đẩy mạnh quá trình phân công lại lao động xã hội. 17

2.3. Hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường. 17

2.4. Tiếp tục đổi mới và nâng cao vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước. 20

2.5. Đẩy mạnh việc sản xuất và hoàn thiện hệ thống pháp luật và cải cách nền hành chính quốc gia. 21

Kết luận 24

Tài liệu tham khảo 25

 

 

 

 

 

 

 

 

 

doc25 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1964 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN là giải pháp cơ bản để chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ối với sản xuất tự cấp tự túc do sản xuất phát triển thấp, sản xuất ít và nhu cầu thấp nên ở mỗi vùng và các vùng khác nhau, đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần rất nghèo nàn và thấp kém, không có sự giao lưu trao đổi văn hoá giữa các vùng. Nhưng sản xuất hàng hoá khắc phục được tình trạng này, do sản xuất hàng hoá phát triển với vai trò động lực của nhu cầu, giao lưu văn hoá, kinh tế được phát triển nên đời sống vật chất cũng như đời sống tinh thần của nhân dân đều được nâng cao ngày càng phong phú và đa dạng, tạo điều kiện cho sự phát triển độc lập, tự do bình đẳng của mỗi cá nhân. - Thứ tư, nền sản xuất tự cấp tự túc khép kín đã cản trở sự phát triển của phân công lao động xã hội, trái lại do sản xuất hàng hoá ra đời trên cơ sở phân công lao động xã hội, thúc đẩy sự chuyên môn hoá các ngành sản xuất, làm cho các ngành sản xuất ngày càng được chuyên môn hoá và phát triển mạnh mẽ, trình độ kỹ thuật ngày càng được nâng cao, trên thế giới hiện nay khoa học kỹ thuật phát triển vô cùng nhanh chóng nhất là trong lĩnh vực công nghệ thông tin và điện tử ... Như vậy ta có thể thấy rằng, so với nền sản xuất tự cấp tự túc thì nền sản xuất hàng hoá tỏ ra có nhiều ưu điểm hơn hẳn, và điều quan trọng la nó luôn kích thích cho sản xuất phát triển. Sự tồn tại khách quan của kinh tế hàng hoá trong thời kỳ quá độ. Ta thấy rằng từ khi chủ nghĩa xã hội ra đời và phát triển thành một hệ thống trên thế giới cho đến trước thập kỷ 80, vấn đề có hay không tồn tại của nền sản xuất hàng hoá trong chủ nghĩa xã hội luôn là đề tại tranh luận trong giới nghiên cứu lý luận Macxit. Nhìn chung, về phương diện lý luận, quan điểm chính thống chi phối trong suốt mấy thập kỷ qua là quan niệm cho rằng: kinh tế xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế phát triển theo kế hoạch cân dối và có kế hoạch cùng với các quy luật kinh tế đặc thù khác của chủ nghĩa xã hội, Nhà nước có vai trò chủ yếu trong quá trình tái sản xuất và phân phối sản phẩm mà không cần đến các quan hệ trao đổi hàng hoá trên thị trường. Kinh tế hàng hoá bị coi nhẹ, được coi là đặc trưng riêng của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa cần phải hạn chế và đi tới xoá bỏ. Nhưng trên thực tế chính điều đó là nguyên nhân chủ yếu làm trì trệ, kìm hãm đưa nền kinh tế của các quốc gia XHCN đến khủng hoảng và tan vỡ. Từ những thực tế trên ta thấy quan điểm cho rằng “sản xuất hàng hoá là đặc trưng riêng của chủ nghĩa tư bản” là hoàn toàn sai lầm. Mặt khác theo Cacmac sản xuất hàng hoá ra đời trên cơ sở phân công lao động xã hội và chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất bởi vậy sản xuất hàng hoá tồn tại trong thời kỳ quá độ là một tất yếu khách quan vì: - Thứ nhất, khi mà phân công xã hội phát triển kéo theo chuyên môn hoá sản xuất ngày càng sâu sắc, từ đó sẽ nảy sinh thêm những mối quan hệ kinh tế, những sự trao đổi hoạt động lao động trong xã hội. - Thứ hai, đặc điểm kinh tế của thời kỳ quá độ đó là nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, nhiều chủ thể kinh tế khác nhau. Những chủ thể kinh tế này tách biệt, độc lập với nhau nhưng họ đều nằm trong một hệ thống phân công lao động xã hội do đó sản xuất và đời sống của họ vẫn có sự phụ thuộc lẫn nhau và quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có thể thực hiện bằng con đường trao đổi hàng hoá tức là phải có sản xuất hàng hoá. - Thứ ba, quan hệ hàng hoá tiền tệ là hình thức cần thiết thuận lợi để đảm bảo sự công bằng trong quan hệ kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, vì hai đơn vị này tuy cùng là sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất nhưng nó vẫn có sự khác biệt nhất định và có quyền tự chủ sản xuất kinh doanh, cạnh tranh hay hợc tác với nhau, nó còn có sự khác biệt nhau về trình độ kỹ thuật, trình độ quản lý, về hiệu quả sản xuất kinh tế, chúng ta không thể dùng phương pháp bình quân, cào bằng ở đây được. - Thứ tư, sản xuất hàng hoá và quan hệ hàng hoá tiền tệ còn chính là điệu kiện cần thiết và tất yếu trong quan hệ đối ngoại giữa các nước trên thế giới bởi vì mỗi nước vẫn là những quốc gia riêng biệt, là những chủ sở hữu khác nhau về sản phẩm hàng hoá. Từ những lý do trên đây ta nhận thấy trong thời kỳ quá độ sản xuất hàng hoá tồn tại là một tất yếu khách quan và không thể cưỡng lại được, không thể dùng mệnh lệnh để ngăn cấm, xoá bỏ sản xuất hàng hoá . II.Tính tất yếu khách quan phải phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở Việt Nam. Do yêu cầu của phát triển lực lượng sản xuất . Lực lượng sản xuất phát triển tỷ lệ thuận với tiến trình tập trung xã hội hoá quan hệ sở hữu mà đỉnh cao là sở hữu toàn dân. Sự hình thành các tập đoàn kinh tế, các công ty cổ phần, công ty đa quốc gia và xuyên quốc gia chính là những biểu hiện của quá trình xã hội hoá quan hệ sở hữu ở một trình độ nhất định. Khi mà lực lượng sản xuất đang ở mức thấp thì tương ứng với nó là sự tồn tại nhiều hình thức sở hữu phân tán. Thế giới ngày nay do phát triển lực lượng sản xuất của khoa học, công nghệ mà giàu có rất nhanh; những đi liền với nó là bất công xã hội ngày càng tăng, sự giàu có phát triển không làm cho bất công xã hội giảm đi mà ngày càng phát triển, để giải quyết mâu thuẩn này không có cách nào khác là khi tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với giải quyết công bằng xã hội, ở đây không có nghĩa là cào bằng sự siêng năng tích cực, sự biếng nhác; làm ăn có hiệu quả khác nhau đều được hưởng như nhau; làm như vậy sẽ triệt tiêu động lực phấn đấu của con người. ở đây cần phải dùng quan hệ hàng hoá tiền tệ để phân chia quyền lợi , chỉ có làm như vậy mới làm giảm sự bất công xã hội. Hơn nữa trình độ phát triển lực lượng sản xuất của nước ta còn ở mức rất thấp, sự phân công lao động xã hội gắn với sự tồn tại của nhiều chủ thể sở hữu khác nhau như các thực thể kinh tế độc lập, do vậy việc trao đổi sản phẩm không thể thực hiện bằng cách náo khác là thực hiện trao đổi hàng hoá thông qua tiền tệ. Trong thời kỳ quá độ của nước ta hiện nay muốn phát triển lực lượng sản xuất thì phải nâng cao xã hội hoá và chuyên môn hoá lao động mà điều này chỉ có thể diễn ra thuận lợi trong nền kinh tế thị trường. Ngày nay, trên thế giới, do sự phát triển của lực lựng sản xuất của khoa học công nghệ, đang có xu hướng quốc tế hoá đời sống nhân loại, xu hướng này mở ra cả chiều rộng và chiều nghịch, cả mặt tích cực lẫn tiêu cực tác động đến con người, đến các quốc gia. Xu thế này đòi hỏi sự giao lưu hợp tác, hiểu biết lẫn nhau giữa các vùng và các quốc gia. Do vậy cần phải phát triển sản xuất hàng hoá ở nước ta để việc giao lưu, hợp tác với các nước khác trên thế giới được dễ dàng thuận lợi. Mặt khác, sản xuất hàng hoá phát triển kéo theo lực lượng sản xuất phát triển làm cho sản phẩm xã hội ngày càng phong phú đáp ứng được yêu cầu ngày càng tăng của con người. Do tồn tại nhiều thành phần kinh tế. Việc đổi mới quản lý kinh tế sử dụng đúng đắn mối quan hệ hàng hoá tiền tệ bằng phương pháp kinh tế là chủ yêú đã được đặt nền tảng tư tưởng bởi nghị quyết đại hội VI (1986) có tính quyết định cho việc lưạ chọn chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường nhanh chóng đưa nước ta thoát hỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu. Từ những quan điểm đó Chính phủ đã chủ trương chuyển việc mua bán tư liệu sản xuất, vật phẩm tiêu dùng. từ cơ chế hành chính quan liêu bao cấp sang việc mua bán thông qua thị trường. Nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần tương ứng với nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất là cơ sở gắn liền với nó là sự tồn tại và phát triển kinh tế hàng hoá. Đối với nền kinh tế nước ta với lực lượng sản xuất chưa đồng đều chúng ta đã nhận định được rằng chỉ có phát triển nền kinh tế nhiều thành phần mới có khả năng khắc phục được tình trạng không đồng đều đó của lực lượng sản xuất. Trong nền kinh tế nước ta hiện nay, tồn tại sáu thành phần kinh tế: Kinh tế Nhà nước. Kinh tế hợp tác. Kinh tế sản xuất nhỏ của nông dân và người buôn bán nhỏ. Kinh tế tư bản Nhà nước. Kinh tế tư bản tư nhân. Kinh tế có sự tham gia của người nước ngoài. Hiện nay, nước ta đang phải gánh chịu những hậu quả nặng nề do sự sai lầm về đường lối, chính sách thời trước đổi mới, hậu quả chúng ta phải gánh chịu đó là nền kinh tế kém phát triển, làm mất khả năng cạnh tranh và những tác dụng tích cực của nền kinh tế hàng hoá. Nền kinh tế nhiều thành phần là nguồn lực tổng hợp về nhiều mặt ( huy đông được mọi tiềm năng về vốn, kỹ thuật và phát thy được mọi tiềm năng của con người Việt nam) có khả năng đưa nền kinh tế vượt qua được tình trạng thấp kém, đưa nền kinh tế hàng hoá phát triển ngay trong điều kiện nguồn vốn, ngân sách của Nhà nước còn hạn hẹp. Một điều có ý nghĩa khá lớn là chúng ta đã nhận định được đó là: do trong nền kinh tế hàng hoá chịu sự tác động của sự thay đổi cơ cấu ngành kinh tế dịch vụ phát triển nhanh chóng, bởi vậy lao động dịch vụ có khả năng thu hút nguồn lao động không nhỏ, góp phần giải quyết được vấn đề công ăn việc làm ở nước ta hiện nay. Trong điều kiện đó các thành phần kinh tế có khả năng mở rộng, tác dụng làm cho nền kinh tế hàng hoá và dịch vụ phát triển. Vậy đối với nước ta hiện nay, việc xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xhcn là một nhu cầu khách quan, là xu thế tất yếu hợp thời đại. Do đòi hỏi nâng cao đời sống nhân dân. Vào thời kỳ những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX này, dân tộc ta bị sống đọa đầy dưới ách thống trị của thực dân Pháp và phong kiến tay sai. Trong ách áp bức bọc lột, nhiều phong trào yêu nước đã kế tiếp nhau diển ra để chống lại bọn cướp nước và bè lũ bán nước, nhưng những phong trào đó lần lượt bị thất bại do không tìm được ra con đường cứu nước đúng đắn. Trong bối cảnh đó Hồ Chí Minh với tên gọi Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm con đường cứu nước tại bến cảng Nhà Rồng và Người đã tìm ra con đường đúng đắn để giải phóng dân tộc. Ngay từ những ngày đầu của chính quyền cách mạng mới giành được, Người đã nêu bật một chân lý “ Nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc thì độc lập chẳng có ý nghĩa gì” và Người thường căn dặn “thắng đế quốc và phong kiến là tương đối khó nhưng thắng nghèo nàn, lạc hậu còn khó khăn hơn nhiều”. Đối với nước ta trong thời kỳ trước đổi mới (1986) do những sai lầm trong nhận thức về mô hình XHCN, cho rằng kinh tế hàng hoá là đặc trưng riêng của chủ nghĩa tư bản, điều này đã làm cho nền kinh tế nước ta lâm vào khủng hoảng trầm trọng, lạm phát gia tăng một cách khủng khiếp (có thời kỳ lên tới 600 - 700%) đời sống nhân dân vô cùng khổ cực. Trước những thực trạng đó của đất nước, Đảng ta đã nhận ra sai lầm và đã đề ra phương hướng đổi mới đất nước đó là vận hành nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước kể từ sau Đại hội VI ( 1986). ở nông thôn nước ta, sự phát triển kinh tế hàng hoá và việc tăng tỷ lệ hàng hoá nông sản đã làm cho hàng hoá của nông dân nhiều lên, thu nhập tăng một cách đáng kể. Thực tiễn nhữn năm đổi mới đã chỉ ra rằng, việc chuyển sang mô hình kinh tế thị trường là hoàn toàn đúng đắn. Nhờ mô hình kinh tế đó mà những năm qua, chúng ta đã bước đầu khai thác được tiềm năng trong nước đi đôi với thu hút vốn kỹ thuật nước ngoài, phát triển lực lượng sản xuất . III.Những giải pháp phát triển kinh tế hàng hoá. Thực trạng kinh tế hàng hoá nước ta hiện nay. Những thành tựu đạt được khi có chính sách mới. Cho đến cuối những năm 80 về cơ bản, trong nền kinh tế nước ta, sản xuất nhỏ vẫn còn là phổ biến, trạng thái kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp còn chiếm ưu thế. Xã hội Việt Nam về cơ bản vẫn dựa vào nền văn minh nông nghiệp lúa nước, nông dân chiếm đại đa số. Trong quá trình thực hiện những biện pháp cải cách, chúng ta đã phạm phải một số sai lầm mới nên khủng hoảng kinh tế – xã hội diễn ra ngày càng gay gắt, tỷ lệ lạm phát lên đến 774,7% vào năm 1986. Việt Nam vẫn là một nước ngèo nàn, lạc hậu và kém phát triển không những trên thế giới mà thậm chí ngay trong khu vực Đông Nam á. Từ khi có chính sách đổi mới, thành tựu nổi bật nhất là đẩy lùi lạm phát, chỉ trong một thời gian ngắn hàng loạt các đơn vị của thành phần kinh tế kinh doanh thương mại được hình thành, hoạt động trên mọi lĩnh vực từ xuất nhập khẩu đến kinh doanh thiết bị nhỏ lẻ trên cả nước. Các tổ chức này ra đời đã làm cho thị trường trở nên sôi động, khối lượng hàng hoá và tiền vốn từ nhiều nguồn lực được huy động vào lưu thông với mức mà trước đây chưa khi nào có được. Việc ngăn sông cấm chợ được xoá bỏ, việc lưu thông hàng hoá được dễ dàng, tình trạng khan hiếm hàng hoá được đẩy lùi, hiện tượng chênh lệch giá giữa các vùng, khu vực bị hạn chế, nạn độc quyền trong kinh doanh được giải quyết đáng kể, đời sống xã hội được nâng lên. Trong những năm vừa qua, nền kinh tế nước ta phát triển tương đối nhanh và ổn định, lương thực từ chỗ thiếu thốn cho đến nay không những đáp ứng được nhu cầu trong nước mà còn phục vụ cho xuất khẩu. Đầu năm 1988 có nạn đói lớn ở nhiều vùng và lạm phát còn ở mức 393,8%, nhưng từ năm 1989 trở đi, nước ta đã bắt đầu xuất khẩu được mỗi năm 1- 1,5 tấn gạo; lạm phát giảm dần, đến năm 1990 chỉ còn 67,4%, và đến năm 1999 vừa qua nước ta đã trở thành một nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới, trên cả Mỹ. Nhiều công trình trọng điểm về kết cấu hạ tầng được xây dựng đã tạo thêm sức mạnh vật chất và thế cân đối cho những bước phát triển tiếp theo. Một thành tựu không nhỏ nữa đó là việc xuất hiện nhiều khu công nghiệp lớn, ngành nghề mơí đã tạo thêm nhiều việc làm cho lao động xã hội từ đó những tệ nạn xã hội cũng dần được kiềm chế, sự tăng trưởng kinh tế cũng đã góp phần nâng cao đời sống các tầng lớp dân cư, số hộ nghèo đói ở nước ta được giảm đi đáng kể, nhiều hộ gia đình từ chỗ không đủ ăn đến đủ ăn, đến nay thậm chí có những hộ gia đình từ khi có chính sách kinh tế mới đã mạnh dạn đầu tư sản xuất và trở thành những ông chủ giầu có. Đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể so với trước kia. Những khó khăn và thách thức mới. Tuy rằng trong những năm qua nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, mức sống của nhân dân được nâng lên một cách đáng kể, nhưng bên cạnh đó cũng đặt cho chúng ta những khó khăn và thách thức mới. Việc vực dậy nền kinh tế từ không đến có hay từ đói nghèo đến đủ ăn, đủ mặc tiến lên ăn ngon mặc đẹp ở mức cao hay một nền kinh tế từ “có” lên đến nhiều hơn nữa và tiến lên giàu mạnh hơn nữa. Nền kinh tế của nước ta tuy đang phát triển với tốc độ cao nhưng không vững chắc, nguồn lực phụ thuộc nhiều vào nước ngoài, huy động nguồn đầu tư từ dân thấp, chưa tạo được tâm lý yên tâm cho người dân mạnh dạn đầu tư phát triển. Việc lưu thông hàng hoá và hoạt động thương mại chủ yếu tập trung vào những vùng thành thị, khu đông dân và những thành phố lớn, chú ý nhiều đến kinh doanh, hai thác hàng nhập khẩu, thị trường nông thôn miền núi, hàng hoá sản phẩm trong nước nhất là hàng hoá nông sản thì ít được chú ý. Quá trình mua bán diễn ra nhanh chủ yếu chạy theo lợi nhuận trước mắt đã làm cho thị trường trong nước bị phân đoạn, tách rời, động lực thúc đẩy sản xuất bằng nguồn lực nội tại trong nước của thị trường không được phát huy. Kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội nước ta còn ở trình độ thấp, bên cạnh một số lĩnh vực, một số cơ sở kinh tế được trang bị máy móc, thiết bị công nghệ hiện đại thì bộ phận lao động thủ công vẫn còn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số lao động xã hội. Trong nhiều ngành kinh tế do máy móc cũ kỹ, công nghệ lạc hậu nên sức cạnh tranh trên thị trường trong nước cũng như ngoài nước còn rất yếu, số lượng, chất lượng hàng hoá làm ra còn thấp, chuyên môn hoá sản xuất chưa sâu, giao lưu hàng hoá còn nhiều hạn chế hơn nữa lại bị hàng nhập khẩu chèn ép, không xuất khẩu được nên nhiều doanh nghiệp khôn phát huy được hết năng lực sản xuất. Đội ngũ những nhà quản lý doanh nghiệp thành thạo còn quá ít, chưa đáp ứng được nhu cầu to lớn của thực tiễn, số lượng lao động thì lớn nhưng số lượng được đào tạo kỹ thuật có khả năng đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của những công nghệ hiện đại trên thế giới còn chiếm tỷ lệ qúa nhỏ dẫn đến tình trạng tuy có nguồn lực dồi dào nhưng không thể khai thác được triệt để vì còn thiếu nhân lực có kỹ thuật có tay nghề. Hơn nữa, thu nhập của người làm công ăn lương cũng như của nông dân lao động còn thấp (khoảng 200 USD/người/năm, một trong những nước có thu nhập bình quân trên đầu người thấp nhất thế giới ), do đó sức mua hàng chưa cao làm cho dung lượng thị trường trong nước còn ở mức nhỏ hẹp, điều này khiến chúng ta không thể khai thác hết được những tiềm năng phát triển trong nước, và cũng hạn chế cả khả năng hấp dẫn với những nguồn đầu tư từ nước ngoài. Đứng trước vấn đề trên, chúng ta phải đưa ra những giải pháp hữu hiệu để giải quyết. 2. Những giải pháp phát triển kinh tế hàng hoá Việt Nam 2.1. Đẩy mạnh quá trình đa dạng hoá sở hữu tạo điều kiện phát triển mạnh nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta. Đối với kinh tế Nhà nước. Trong quá trình phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, một vấn đề quan trọng cần nắm được đó là nền kinh tế Nhà nước phải nắm vai trò chủ đạo. Khi mà kinh tế Nhà nước đủ mạnh và giữ được vai trò chủ đạo thì dễ lôi cuốn được các thành phần kinh tế khác theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nếu không, thì không loại trừ khả năng thành phần kinh tế tư bản tư nhân sẽ lớn mạnh hơn và kéo nền kinh tế quốc dân theo định hướng tư bản chủ nghĩa, thêm nữa thành phần kinh tế tư bản tư nhân đã, đang và sẽ được sự hậu thuẫn rất lớn của quốc tế. Nhất là trong bối cảnh nước ta hiện nay mọi thế lực chống đối, phản động đang tìm mọi cách làm cho nền kinh tế tư bản tư nhân của nước ta thắng thế. Do vậy, để nền kinh tế Nhà nước thắng thế chúng ta cần phải thực hiện một số vấn đề: - Thành phần kinh tế Nhà nước phải được xác định đúng về mô hình tổ chức và định hướng phát triển, chọn đúng cán bộ tốt, có cơ chế chính sách phù hợp để thành phần kinh tế này không ngừng được củng cố và phát triển nhằm phát huy được vai trò chủ đạo. Để thực hiện và phát huy được vai trò chủ đạo thì doanh nghiệp Nhà nước cần phải phát triển trong những lĩnh vực có ý nghĩa mở đường, dẫn dắt nền kinh tế phát triển. Nó phải đảm bảo phát triển sản xuất hàng hoá công cộng còn những lĩnh vực kinh doanh có khả năng sinh lợi thì nên để các thành phần kinh tế khác phát triển. - Một bộ phận quan trọng của nền kinh tế Nhà nước là doanh nghiệp Nhà nước phải phát triển trên đúng nguyên tắc năng suất, chất lượng và hiệu quả ngày càng cao và phải bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác (vì chỉ trên cơ sở xác định được hiệu quả kinh tế xã hội rõ ràng, cụ thể mới có tiêu chuẩn tìm chọn nhân tài, có đạo đức tốt, khả năng quản lý giỏi để đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế ) phải làm sao cho doanh nghiệp Nhà nước trở thành một công cụ để Nhà nước có thể khắc phục được những khiếm khuyết của nền kinh tế thị trường và có thể can thiệp vào nền kinh tế bất cứ khi nào cần thiết. - Hiện nay, trong cơ cầu thành phần kinh tế khu vực doang nghiệp Nhà nước chưa được quan tâm nhiều đến việc đầu tư đổi mới công nghệ, giải quyết vốn lưu động để phát huy năng lực sản xuất , hiện nay vẫn còn nhiều doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, còn quá nhiều doanh nghiệp nhỏ làm ăn thua lỗ kéo dài. Tuy nhiên, để khắc phục tình trạng này chúng ta cần phải xắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước theo hướng: Nắm ngành, khâu, mặt hàng then chốt, chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh, tự chủ về mọi mặt. Việc xắp xếp lại có thể tiến hành dưới nhiều hình thức khác nhau. Để kinh tế Nhà nước hoạt động có hiệu quả cao hơn, phát huy được vai trò chủ đạo của mình chúng ta cần phải đổi mới theo hướng sau: + Thứ nhất, hoàn thành việc phân định doanh nghiệp hoạt động công ích và các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả cũng như các doanh nghiệp kinh doanh giữ một vai trò vị trí quan trọng trong nền kinh tế. Nhà nước cần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này có đủ số vốn lưu động cần thiết, được vay vốn ưu đãi để đổi mới thiết bị công nghệ, kiện toàn tổ chức và đổi mới cơ chế quản lý. Còn đối với những doanh nghiệp kinh doanh chuyển sang hoạt động theo cơ chế công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần thật sự tự chủ thì phải tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của mình. + Thứ hai, xác định lại doanh nghiệp Nhà nước đầu tư 100% vốn, loại doanh nghiệp mà Nhà nước nắm số cổ phần khống chế và những doanh nghiệp Nhà nước chỉ cần giữ cổ phần ở mức độ thấp và đa dạng hoá sở hữu thông qua các biện pháp: cổ phần hoá, cho thuê kinh doanh, chuyển nhượng quyền sở hữu và sử dụng... trên cơ sở khắc phục mọi trở ngại khách quan và chủ quan để đẩy nhanh tiến độ phát triển. Hướng dẫn, đôn đốc việc cổ phần hoá doanh nghiệp theo những danh mục đã xác định, đảm bảo tiến độ triển khai và kịp thời rút kinh nghiệm để tiến hành một cách vững chắc, không để xẩy ra những sai lầm đáng tiếc. Đối với biện pháp tổng công ty hoá các doanh nghiệp cần được xem xét theo hướng thu hẹp các tổng công ty đến mức chỉ áp dụng trong những lĩnh vực phải đối diện cạnh tranh trực tiếp với nước ngoài, song song với việc xây dựng các công ty đa ngành, đa sở hữu và tạo cơ chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong tổng công ty Đối với kinh tế hợp tác. Thành phần kinh tế hợp tác ở nước ta hiện nay còn lúng túng, số hợp tác xã hoạt động kém còn nhiều. Đây là một vấn đề cần phải tháo gỡ kịp thời để đảm bảo cho nền kinh tế nhiều thành phần phát triển đúng hướng xã hội chủ nghĩa. Để tháo gỡ vấn đề hoạt động kếm của hợp tác xã chúng ta cần phải tổng kết kinh nghiệp phát triển hợp tác xã kiểu cũ trong nông nghiệp, thương nghiệp... để rút ra những bài học kinh nghiệm, phát triển hợp tác xã trong những năm tới. Hiện nay, mô hình hợp tác xã kiểu cũ không còn phù hợp với quy luật phát triển xã hội hoá nền sản xuất đối với nền sản xuất nhỏ của nước ta. Thực tế hơn 10 năm qua đã chứng tỏ các hợp tác xã của những người sản xuất nhỏ là cần thiết trong các khâu dịch vụ sản xuất, các khâu đầu vào, đầu ra cho sản xuất nhỏ, bởi vậy cần có sự tổng kết, hướng dẫn phát triển hợp tác xã ở các khâu này và tạo điều kiện để kinh tế tập thể góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển. Đối với loại hình sản xuất nhỏ của người nông dân và người buôn bán nhỏ. Như trên đã nói trong những năm đổi mới của nước ta, kinh tế hộ giữ vai trò rất quan trọng nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp. Đối với loại hình sản xuất này nhà nước cần có những chính sách trợ giúp cung ứng nguyên liệu đầu vào và tiêu thụ sản phẩm đầu ra, Nhà nước thông qua nhứng chính sách thuế để trợ giúp cho thành phần kinh tế này, khuyến khích những người sản xuất nhỏ phát triển làm sao để kinh tế hợp tác xã cùng với kinh tế Nhà nước trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Đối với thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Hiện nay kinh tế tư bản tư nhân sản xuất lớn ở nước ta còn rất nhỏ bé, lại nặng về hoạt động thượng mại dịch vụ đời sống còn trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, nông nghiệp tỷ trọng không đáng kể. Một điều khó khăn của thành phần kinh tế này là tâm lý e ngại đầu tư trong nhân dân. Do vậy, Nhà nước cần có chính sách khuyến khích thành phần kinh tế tư bản tư nhân tự do phát triển theo luật định không hạn chế tư nhân, cá thể bỏ vốn đầu tư vào sản xuất những sản phẩm mà nhà nước cho phép nhất là Nhà nước cần có những chính sách để khuyến khích các nhà đầu tư kinh doanh phát triển nông nghiệp từng bước đưa nền sản xuất nông nghiệp nước ta tiến lên sản xuất lớn, cần phải có chính sách nghiên cứu lại hạn điền, chuyển dịch ruộng đất theo hướng tích tụ và tập trung ruộng đất, phát triển mô hình kinh tế trang trại thúc đẩy hàng hoá phát triển. Đối với thành phần kinh tế tư bản tư nhân này không tránh khỏi tính tự phát là chạy theo lợi nhuận đơn thuần nảy sinh những hiện tượng tiêu cực và làm tổn hại đến lợi ích chung của xã hội. Hiện nay, ở nước ta tình trạng buôn lậu, trốn thuế, và tiêu thụ hàng hoá giả còn phổ biến, bởi vậy những doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế này Nhà nước cần sử dụng nhiều biện pháp để hạn chế, ngăn chặn những khuynh hướng tự phát, những hiện tượng tiêu cực và hướng sự phát triển của các thành phần kinh tế này theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đối với thành phần kinh tế tư bản Nhà nước. Đối với thành phần kinh tế này của nước ta hiện nay, số vốn đầu tư phát triển còn thấp, do vậy Nhà nước cần có nhưng chính sách thu hút vốn đầu tư của các nhà tư bản trong và ngoài nước, đối với các nhà tư bản nước ngoài để khuyến khích họ đầu tư Nhà nước cần tạo tâm lý yên tâm cho họ như bằng cách giữ vững ổn định về chính trị để họ nghĩ rằng những khoản đầu tư của họ được an toàn. Nhà nước cần có những chính sách khai phá những vùng đất còn bị bỏ hoang những vùng đất thuộc nông thôn, miền núi như có những ưu đãi đặc biệt cho những ai đi khai phá và phảt triển ở những vùng đất này, mặt khác cần phải nâng cấp hệ thống giao thông, thúc đẩy lưu thông hàng hoá, giao lưu buôn bán giữa những vùng này với những vùng kinh tế phát triển trong nước. 2.2. Đẩy mạnh quá trình phân công lại lao động xã hội. Việc đẩy mạnh quá trình phân công lại lao động xã hội cũng chính là quá trình đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nước cần phải phát triển mạnh theo hướng xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu. Trong mấy năm vừa qua, tỷ lệ xuất khẩu của nước ta tăng lên đáng kể nhưng việc thúc đẩy xuất nhập khẩu gặp một số khó khăn như công nghiệp sản xuất hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu được hình thành trong cơ chế tập trung quan liêu b

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hư­ớng XHCN là giải pháp cơ bản để chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nư­ớc ta hiện nay.DOC
Tài liệu liên quan