LỜI NÓI ĐẦU 1
I. PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM LÀ MỘT SỰ TẤT YẾU KHÁCH QUAN. 2
1.1. Nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. 2
1.1.1. Khái niệm nền kinh tế hàng hoá. 2
1.1.2. Vấn đề thị trường theo quan điểm hiện đại. 2
1.2. Cơ chế thị trường 3
1.2.1.Định nghĩa cơ chế thị trường. 3
1.2.2. Ưu điểm và khuyết điểm của cơ chế thị trường. 3
1.3. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. 5
1.3.1. Định nghĩa nền kinh tế thị trường. 5
1.3.2. Sự tồn tại nền kinh tế thị trường tại Việt Nam là một thực tế khách quan. 6
1.3.3. Nhân tố bảo đảm sự phát triển kinh tế xã hội theo hướng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 7
II. THỰC TRẠNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY. 8
2.1. Đánh giá chung. 8
2.2. Những thành công trong cải cách xây dựng cơ chế kinh tế mới. 9
Tổng sản phẩm một số ngành kinh tế quan trọng 10
2.2.2. Thành công trong kinh tế Nhà nước 16
2.2.3. Thành công trong quản lý Nhà nước 17
2.2.4. Cải cách sâu rộng trong xã hội 18
2.3. Hạn chế trong phát triển kinh tế 19
2.3.1. Những hạn chế cơ bản 19
2.4.2. Hạn chế khác. 20
III. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. 21
3.1. Phương hướng, nhiệm vụ của nền kinh tế trong giai đoạn tới. 21
3.2. Giải pháp hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. 22
3.2.1. Hoàn thiện cơ chế thị trường trong nền kinh tế 22
3.2.2. Nâng cao vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước. 23
24 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1537 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hoảng, suy thoái kinh tế. Ngoài ra còn một nhân tố đóng vai trò quan trọng khác là sự tham gia của Nhà nước vào nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên Nhà nước chỉ can thiệp ở tầm vĩ mô, đảm bảo tính ổn định và trong sạch của thị trường. Đồng thời sự can thiệp của Nhà nước thông qua các chính sách kinh tế sẽ tạo điều kiện tốt hơn cho các thành phần kinh tế hoạt động. Nhà nước cũng đóng vai trò xác định hướng sản xuất trọng điểm, khu vực cần tập trung vào phát triển kinh tế giúp nền kinh tế phát triển đồng đều cân đối.
II. Thực trạng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
2.1. Đánh giá chung.
Mười lăm năm đổi mới chưa phải là dài nhưng chúng ta có thế thấy được sự thành công bước đầu của công cuộc đổi mới kinh tế theo hướng xã hội chủ nghĩa. Nếu so sánh với thời điểm năm 1986 khi chúng ta bắt đầu công cuộc đổi mới thì có thể thấy sự khác biệt to lớn trong đời sống kinh tế xã hội nước ta. Cụ thể là tình hình kinh tế xã hội ổn định đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, cơ cấu kinh tế có sự thay đổi to lớn với sự xuất hiện của các thành phần kinh tế mới, các khu vực kinh tế mới kỹ thuật cao cũng xuất hiện và đóng góp đáng kể vào tổng sản phẩm quốc gia. Nông nghiệp không còn có tỷ trọng cao trong tổng sản phẩm nữa. Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế ở nước ta là khá cao, trong những năm qua là khoảng 7%/năm, đó là một thành công to lớn trong khi tình hình kinh tế thế giới hiện nay không mấy sáng sủa. Khu vực kinh tế công cộng có sự cải thiện và hoàn chỉnh đặc biệt ở các thành phố lớn. Hệ thống pháp luật được chỉnh sửa và từng bước hoàn thiện. Thủ tục hành chính đang được đơn giản hoá. Cơ cấu lao động có sự thay đổi, tỷ lệ lao động nông nghiệp giảm đi, trong khi ở các ngành khác có xu hướng tăng lên. Tỷ lệ lao động thất nghiệp giảm. Vấn đề phát triển con người đang được đặt ra và cải thiện, tính dân chủ được đặt ra nhất là trong các vấn đề xã hội. Cùng với sự phát triển kinh tế trong nước, vị thế nước ta trên trường quốc tế cũng được nâng cao. Việt Nam đã tham gia vào các tổ chức kinh tế lớn trên thế giới, ký kết các hiệp định thương mại với các quốc gia khác, tham gia tích cực vào các vấn đề thế giới, các diễn đàn, hội nghị từng bước quảng bá hình ảnh Việt Nam với bạn bè quốc tế. Đay chính là những thành công cơ bản của nước ta sau 15 năm đổi mới.
Mặc dù vậy không phải chúng ta không còn những hạn chế. Cơ cấu kinh tế nói chung vẫn chưa phù hợp, cơ sở hạ tầng không theo kịp với sự phát triển của kinh tế đã và đang đặt ra những yêu cầu cấp thiết cần tiếp tục thay đổi cho phù hợp với yêu cầu của quá trình đổi mới. Vấn đề phát triển thị trường nước ngoài còn nhiều hạn chế chưa phát huy hết năng lực sản xuất trong nước. Việc đầu tư vốn còn chưa được nghiên cứu kỹ và chưa phát huy hết hiệu quả sử dụng vốn. Nhiều ngành kinh tế còn phải nhờ vào sự bảo hộ của Nhà nước để có thể tồn tại. Một số cơ sỏ kinh tế quốc doanh hoạt động không hiệu quả chưa đợc xử lý vẫn đang là gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. Hệ thống luật chưa ổn định và đặc biệt là vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế, chưa phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế, thủ tục hành chính còn chồng chéo
2.2. Những thành công trong cải cách xây dựng cơ chế kinh tế mới.
Để đánh giá những thành công của công cuộc đổi mới kinh tế ở nước ta chúng ta hãy xem xét một số những kết quả phát triển kinh tế trong những năm qua, đặc biệt trong năm 2001.
Bảng 1:
Tổng sản phẩm trong nước theo giá thực tế phân theo khu vực kinh tế
Tổng số
Nông, lâm nghiệp
Công nghiệp
Dịch vụ
Năm
và thuỷ sản
và xây dựng
Tỷ đồng
Cơ cấu
Tỷ đồng
Cơ cấu
Tỷ đồng
Cơ cấu
Tỷ đồng
Cơ cấu
1990
41955
100
16252
38.74
9513
22.67
16190
38.59
1991
76707
100
31058
40.49
18252
23.79
27397
35.72
1992
110532
100
37513
33.94
30135
27.26
42884
38.8
1993
140258
100
41895
29.87
40535
28.9
57828
41.23
1994
178550
100
48968
27.43
51540
28.87
78026
43.7
1995
228892
100
62219
27.18
65820
28.76
100853
44.06
1996
272036
100
75514
27.76
80876
29.73
115646
42.51
1997
313623
100
80826
25.77
100595
32.08
132202
42.15
1998
361017
100
93073
25.78
117299
32.49
150645
41.73
1999
399942
100
101723
25.43
137959
34.49
160260
40.08
2000
441646
100
108356
24.53
162220
36.73
171070
38.74
2001
484493
100
114412
23.62
183291
37.83
186790
38.55
Qua kết quả trên, chúng ta có thể phần nào đánh giá được tốc độ phát triển kinh tế của Việt Nam trong các khu vực kinh tế cơ bản. Từ năm 1990 đến nay, tổng sản phẩm trong nước GDP liên tục tăng với tốc độ khá cao, trung bình khoảng 7%/năm (chỉ số phát triển tổng sản phẩm trong nước được trình bày ở phần sau).Trong đó, khu vực kinh tế nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản mặc dù có kết quả tăng tốt nhưng tỷ trọng lại liên tục giảm. Điều này phản ánh bước chuyển biến đáng mừng trong cơ cấu GDP. Đến năm 2001 tỷ trọng của ngành chỉ còn khoảng 23,62%, thấp nhất trong cả ba khu vực kinh tế. Trong khi đó tỷ trọng của công nghiệp và xây dựng lại liên tục tăng lên và tăng khá nhanh trong những năm gần đây. Thực tế theo báo cáo đầu năm của chính phủ, trong 6 tháng đầu năm 2003 ngành công nghiệp cũng là ngành có tốc độ tăng trưởng cao nhất, khoảng 15% so với cùng kỳ năm 2002. Trong khoảng 3 năm trở lại đây, khu vực kinh tế này đang có những dấu hiệu cho thấy sự phát triển mạnh mẽ đặc biệt trong khối công nghiệp nặng vốn khá nặng nề và chậm chạp. Có thể coi đó là những kết quả đáng mừng thu được từ hàng loạt chính sách ưu đãi mà Nhà nước dành cho khu vực này. Cũng theo báo cáo trên thì vài năm trở lại đây đã xuất hiện khá nhiều nhà đầu tư quan tâm đầu tư và ngành kinh tế quan trọng này.
Trong những năm qua ngành du lịch Việt Nam đã có bước phát triển đáng kể. Đặc biệt trong năm 2002 du lịch đã có sự tăng trưởng đột biến. Năm 2003 mặc dù bị ảnh hưởng bởi chiến tranh Irắc và nhất là dịch SARS nhưng ngành du lịch Việt Nam đã nhanh chóng phục hồi thông qua các hoạt động tuyên truyền quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam. Kết qảu phân tích cho thấy trong 6 tháng đầu năm ngành du lịch vẫn đạt được những thành công đáng kể đặc biệt là lượng khách quốc tế không hề giảm, trong khi lượng khách du lịch trong nước lại tăng lên. Đó là kết quả của chính sách chuyển hướng từ thị trường nước ngoài vào thị trường trong nước được đưa ra khi dịch SARS bùng nổ. Trong 6 tháng cuối năm, ViệtNam đang có chủ trương đẩy mạnh phát triển du lịch đặc biệt là thị trường quốc tế do dịch SARS đã được khống chế hoàn toàn.
Bảng 2:
Tổng sản phẩm một số ngành kinh tế quan trọng
Năm
1995
1998
1999
2000
2001
Tống sản phẩm quốc nội
228892
361017
399942
441646
484493
Nông nghiệp
52713
76170
83335
87537
91687
Lâm nghiệp
2842
5304
5737
5913
6080
Thuỷ sản
6664
11598
12651
14906
16645
Công nghiệp khai thác mỏ
11009
24196
33703
42606
44544
Công nghiệp chế biến
34318
61906
70158
81979
95129
Sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước
4701
10339
11725
13993
16197
Xây dựng
15792
20858
21764
23642
27421
Khách sạn nhà hàng
8625
12404
13412
14343
15808
Vận tải kho bãi và thông tin liên lạc
9117
14076
15546
17341
19431
Tài chính tín dụng
4604
6274
7488
8148
8847
Khoa học công nghệ
1405
2026
1902
2345
2656
Giáo dục đào tạo
8293
13202
14004
14841
16489
Y tế và hoạt động cứu trợ xã hội
3642
4979
5401
5999
6367
Hoạt động phục vụ cá nhân và cộng đồng
4979
8874
9323
9853
10672
Các ngành khác
60188
88808
93184
98200
106520
Quan sát bảng trên chúng ta có thể thấy các ngành kinh tế quan trọng nhất đều có sự tăng trưởng liên tục trong những năm qua với tốc độ tương đối cao và ổn định. Quan trong nhất ở đây là yếu tố ổn định vì chính sự ổn định mới có tác dụng hạn chế khủng hoảng cũng như các yếu tố bất thường khác có thể ảnh hưởng đến nền kinh tế. Trong các ngành trên đáng chú ý có ngành giáo dục và các hoạt động khoa học công nghệ có mức độ tăng trưởng khá nhanh. Đến năm 2001 hoạt động giáo dục đào tạo đã đạt 3.4% tổng sản phẩm GDP. Mặc dù tỷ trọng trong GDP của ngành thực tế không tăng mà còn có xu hướng giảm so với những năm trước nhưng số tuyệt đối lại liên tục tăng chứng tỏ sự phát trên của ngành. Tuy nhiên qua đó cũng có thể thấy thực trạng là ngành giáo dục đào tạo cũng như các hoạt động khoa học công nghệ vẫn chưa được chú ý đầu tư đầu tư đúng mức nên mặc dù số tuyệt đối tăng nhưng tỷ trọng vẫn giảm tức là mức phát triển chưa tương xứng với mức tăng trưởng chung của toàn xã hội. Cũng từ bảng 2 người ta dễ dàng nhận thấy mặc dù không còn giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhưng ngành nông nghiệp vẫn chiếm tỷ lệ khá cao và nhất là sự phát triển không đồng đều của các ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản. Ngành lâm nghiệp vẫn hầu như không phát triển. Thuỷ sản phát triển chậm và chỉ thực sự phát triển trong khoảng 2-3 năm trở lại đây. Các ngành thuộc lĩnh vực công nghiệp nói chung đều tăng trưởng khá trừ khai thác mỏ mặc dù vẫn tăng trưởng nhưng dường như đang có dấu hiệu chững lại. Đây là vấn để các nhà quản lý cần quan tâm. Công nghiệp chế biến tăng trưởng nhanh cả về số tuyệt đối lẫn tỷ trọng đóng góp vào nền kinh tế. Đây là tín hiệu đáng mừng cho thấy chúng ta đã đi dần đến sản xuất hàng hoá thay vì chỉ sản xuất và cung cấp những sản phẩm thô hoặc mới qua sơ chế , bán sơ chế. Đến năm 2001 tỷ trong của ngành đạt 19,63% tức là cao nhất nền kinh tế. Chỉ số phát triển của ngành trong năm qua là 111.3% tức là chỉ sau tốc độ phát triển của công nghiệp nặng 114%.
Xem xét nền kinh tế ngoài chỉ số GDP còn có chỉ số GNP (Gross National Product- tổng sản phẩm quốc gia). Cùng với sự tăng trưởng của GDP thì chỉ số GNP cũng tăng lên tương ứng. Hơn thế nữa tỷ lệ GNP so với GDP tăng lên liên tục trong những năm qua cho thấy xu hướng mới xuất khẩu tư bản ra nước ngoài đã bắt đầu xuất hiện trong nền kinh tế Việt Nam nhằm tận dụng các điều kiện thuận lợi cũng như các ưu đãi khi đầu tư ở nước ngoài để từng bước đưa hàng hoá mang thương hiệu Việt Nam tiến ra thị trường thế giới.
Bảng 3:
Tổng sản phẩm quốc gia
Năm
Tổng sản phẩm quốc gia GNP (tỷ đồng)
Tổng sản phẩm quốc nội GDP (tỷ đồng)
Tỷ lệ GNP so với GDP (%)
1990
39284
41955
93.6
1997
307875
313623
98.2
1998
354368
361016
98.2
1999
394614
399942
98.7
2000
436922
441646
98.9
Tiếp theo chúng ta sẽ xem xét cơ cấu tổng sản phẩm quốc nội GDP theo thành phần kinh tế. Chúng ta cũng xem xét và phân tích cơ cấu vốn sản xuất theo thành phần kinh tế trong quan hệ với tổng giá trị sản phẩm của ngành công nghiệp để qua đó đánh giá toàn bộ nền kinh tế nước ta. Theo nghị quyết Đại hội Đảng IX nền kinh tế nước ta bao gồm 6 thành phần kinh tế:
Thành phần kinh tế Nhà nước.
Thành phần kinh tế tập thể
Thành phần kinh tế tư nhân
Thành phần kinh tế cá thể
Thành phần kinh tế hỗn hợp
Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
Trong 6 thành phần kinh tế trên thì kinh tế Nhà nước được xem là thành phần kinh tế đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân nắm giữ các ngành sản xuất quan trọng nhất, đảm bảo cung cấp các sản phẩm công cộng và những sản phẩm thuộc các lĩnh vực quốc kế dân sinh. Nó tạo cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế hàng hoá hỗ trợ cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được đặc biệt coi trọng, khuyến khích, thành phần kinh tế cá thể cần được đẩy mạnh và tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển đồng thời cần tăng cường công tác quản lý để xây dựng nền nếp. Thành phần kinh tế tư nhân cũng cần được đẩy mạnh và coi trọng để phát huy hết những tiềm lực đưa vào phát triển kinh tế. Cả 6 thành phần kinh tế này cùng thống nhất và phát triển trong nền kinh tế mặc dù giữa chúng vẫn tồn tại khá nhiều mâu thuẫn thậm chí không thể dung hoà được.
Bảng 4:
Tổng sản phẩm trong nước phân theo thành phần kinh tế
Năm
1995
1998
1999
2000
2001
Tỷ đồng
Cơ cấu
Tỷ đồng
Cơ cấu
Tỷ đồng
Cơ cấu
Tỷ đồng
Cơ cấu
Tỷ đồng
Cơ cấu
Tổng số
228892
100.00
361017
100.00
399942
100.00
441646
100.00
484493
100.00
Kinh tế Nhà nước
91977
40.18
144407
40.00
154927
38.74
170141
38.52
186958
38.59
Kinh tế tập thể
23020
10.06
32131
8.90
35347
8.84
37907
8.58
39763
8.21
Kinh tế tư nhân
7139
3.12
12351
3.41
13461
3.37
14943
3.38
18256
3.77
Kinh tế cá thể
82447
36.02
122112
33.83
131706
32.92
142705
32.31
155655
31.13
Kinh tế hỗn hợp
9881
4.32
13802
3.83
15543
3.89
17324
3.92
20337
4.20
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
14428
6.30
36214
10.03
48958
12.24
58626
13.27
63524
13.11
So sánh năm 1995 và năm 2001 chúng ta thấy có nhiều sự khác biệt trong cơ cấu tổng sản phẩm trong nước nếu phân theo thành phần kinh tế. Tuy nhiên tính cho đến thời điểm năm 2001 thì hai thành phần kinh tế Nhà nước và kinh tế cá thể vẫn chiếm tới 70% tổng sản phẩm quốc dân. Thành phần kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài vẫn chỉ đạt khoảng 17% cơ cấu sản phẩm trong nước. Mặc dù vậy so với thời điểm năm 1995, hai thành phần này chỉ chiếm chưa đầy 10% thì đã có sự phát triển lớn đặc biệt là sự tăng trưởng của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Tính ra trong vòng 6 năm tổng sản phẩm của khu vực kinh tế này đã tăng 440% tức là tăng 4.4 lần. Cơ cấu trong GDP cũng tăng gấp đôi. Đó là những hiệu quả dễ thấy của chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài. Mặc dù vẫn còn khá nhiều bất cập và cũng chưa thực sự thông thoáng khi so sánh với các nước Đông Nam á khác nhưng nói chung đã được cải thiện rất nhiều. Trong giai đoạn 1998- 2001 đã có 3672 dự án được cấp giấy phép đầu tư với tổng vốn đăng ký là 41603.8 triệu USD trong đó vốn pháp định là 19617.8 triệu USD, trong đó lĩnh vực công nghiệp đã có tới hơn 2000 dự án với tổng vốn gần 2 tỷ USD.Trong những năm qua số dự án được cấp phép liên tục tăng với tốc độ khá cao. Năm 1996 được coi là năm có tổng vốn đầu tư nước ngoài lớn nhất với số vốn đăng ký là 8497.3 triệu USD trong đó 2940.8 triệu USD là số vốn pháp định. Trong những năm gần đây do ảnh hưởng của cơn bão khủng hoảng tài chính châu á và khủng hoảng kinh tế chung toàn cầu, năm 2003 lại bị ảnh hưởng bởi dịch SARS nên số dự án lớn đầu tư vào Việt Nam giảm đi nhưng bù lại số dự án nhỏ và vừa lại tăng lên. Có một điều đáng chú ý là hiện nay khu vực kinh tế Nhà nước vẫn giữ được vị trí chủ đạo trong nền kinh tế với tốc độ tăng trưởng khá mặc dù tỷ trong trong tổng sản phẩm quốc nội giảm đi liên tục trong các năm 1995 đến 2000. Chỉ đến năm 2001 chỉ số này mới bắt đầu tăng lên. Như vậy khu vực kinh tế này đã không đạt được tốc độ tăng tương ứng với sự tăng trưởng của các ngành kinh tế khác do đó để thành phần kinh tế Nhà nước có thể thực sự trở thành thành phần kinh tế đóng vai trò chủ đạo và định hướng cho nền kinh tế thì chúng ta cần có những biện pháp chính sách hiệu quả hơn để đẩy nhanh tốc độ phát triển. Giải pháp đưa ra có thể là sắp xếp lại các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, thua lỗ lâu dài, các doanh nghiệp Nhà nước cần được chủ động hơn trong hoạt động kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về số vốn sở hữu. Các doanh nghiệp lớn đặc biệt là các tổng công ty lớn cần được xem xét cải tiến cho phù hợp hơn với nền kinh tế thị trường đặc biệt là chấm dứt sự độc quyền trong một số lĩnh vực để nâng cao tính cạnh tranh giữa các doanh nghiệp qua đó nâng cao chất lượng sản phẩm. Việc quốc hội nhanh chóng thông qua Luật phá sản doanh nghiệp sẽ tạo điều kiện để tiến hành giải thể hoặc sát nhập các doanh nghiệp quốc doanh kém hiệu quả. Cũng có thể cho phép các thành phần kinh tế khác thuê lại hoặc mua lại các cơ sở sản xuất kinh doanh trên. Một cuộc khảo sát gần đây đã chứng tỏ đây là một hướng đi đúng để giảm nhẹ gánh nặng cho ngân sách Nhà nước đồng thời các doanh nghiệp mới hoạt động hiệu quả hơn hẳn so với trước đây. Cần chú ý là khu vực kinh tế tập thể. Hai năm sau khi Luật hợp tác xã ra đời và đi vào thực hiện chúng ta mới chuyển đổi được 300 trong tổng số khoảng 1200 hợp tác xã hoạt động kém hiệu quả cần được chuyển đổi. Khi được chuyển đổi sang hợp tác xã nông nghiệp và dịch vụ nông nghiệp các hợp tác xã kiểu mới này sẽ đóng vai trò trung gian giữa nhà nông với thị trường tạo điều kiện ứng dụng khoa học vào nông nghiệp đưa nông nghiệp phát triển thành ngành sản xuất hàng hoá theo nhu cầu thị trường. Có như vậy bộ mặt nông thôn Việt Nam mới được cải thiện, đời sống người nông dân mới được nâng cao nhờ chính mảnh ruộng của mình.
Tiếp theo chúng ta sẽ phân tích cơ cấu vốn trong ngành công nghiệp trong mối quan hệ với kết quả sản xuất để đánh giá nền kinh tế nước ta. Công nghiệp là ngành kinh tế phản ánh rõ nét nhất nền kinh tế nước ta do có sự tham gia của tất cả các thành phần kinh tế và nhất là chúng ta đang muốn xây dựng nước ta trở thành nước công nghiệp vào năm 2020. Chính vì vậy khi xem xét ngành công nghiệp chúng ta có thể đánh giá được cả nền kinh tế nước ta. Như đã nói ở trên trong ngành công nghiệp có sự tham gia của tất cả các thành phần kinh tế. Trong những năm qua chúng ta đã được chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của khu vực kinh tế này đặc biệt là khoảng năm năm trở lại đây. Do số liệu chưa được thống kê đầy đủ chúng ta chỉ xem xét trong ba năm là 1998, 1999 và năm 2000. Nhờ những chính sách mới thuận lợi, khu vực kinh tế quan trọng này đã có sự phát triển đặc biệt. Số liệu được trình bày trong bảng 5 và bảng 6 dưới đây.
Bảng 5:
Vốn sản xuất công nghiệp phân theo thành phần kinh tế
Năm
1998
1999
2000
Tỷ đồng
Cơ cấu
Tỷ đồng
Cơ cấu
Tỷ đồng
Cơ cấu
Tổng số
253560.4
100.00
297547.1
100.00
362372.0
100.00
Khu vực kinh tế trong nước
138143.5
54.50
163492.7
55.10
2000724.7
55.40
Doanh nghiệp Nhà nước
115771.7
45.70
129846.4
43.70
151427.4
41.80
Trung ương
91553.5
36.10
101097.8
34.00
118792.0
32.80
Địa phương
24218.2
9.60
28766.6
9.70
32635.4
9.00
Ngoài quốc doanh
22371.8
8.80
34078.3
11.50
49297.3
13.60
Tập thể
783.3
0.30
994.1
0.40
1271.5
0.40
Tư nhân
2661.3
1.00
3374.4
1.10
5200.8
1.40
Cá thể
7569.4
3.00
13632.9
4.60
16438.2
4.50
Hỗn hợp
11357.8
4.50
16076.9
5.40
26387.8
7.30
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
115416.9
45.50
133604.4
44.90
161647.3
44.60
Bảng 6:
Giá trị sản xuất công nghiệp phân theo thành phần kinh tế
Năm
1995
1998
1999
2000
20001
Tổng số
103374.7
151223.3
168749.4
198326.1
226406.2
Khu vực kinh tế trong nước
77441.5
102864.8
110234.9
1207041.1
146498.7
Doanh nghiệp Nhà nước
51990.5
69462.5
73207.9
82897.0
93393.2
Trung ương
33920.4
45677.2
48395.3
54962.1
62161.4
Địa phương
18070.1
23785.3
24812.6
27934.9
31231.8
Ngoài quốc doanh
25451.0
33402.3
37027.0
44144.1
53105.5
Tập thể
650.0
858.8
1075.6
1334.0
1591.5
Tư nhân
2277.1
3382.7
3718.0
4432.3
5261.2
Cá thể
18190.9
20826.8
21983.0
23432.3
25283.5
Hỗn hợp
4333.0
8334.0
10250.4
14945.5
10969.3
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
25933.2
48358.5
58514.5
71285.0
79907.5
Qua số liệu ở hai bảng trên chúng ta có thể đánh giá được sự tham gia của các thành phần kinh tế vào ngành công nghiệp. Xét về vốn thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm trung bình 45% tổng vốn sản xuất công nghiệp cả nước. Do đó kết quả sản xuất của khu vực này cũng chiếm khoảng 1/3 tổng giá trị sản phẩm. Tốc độ phát triển của khu vực cũng khá nhanh khảng 22%/năm. Đây là tốc độ tăng khá nhanh nếu chúng ta xem xét trong điều kiện tốc độ tăng của cả ngành công nghiệp là khoảng 12%/năm. Ngoài thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài thành phần kinh tế hỗn hợp cũng đạt tốc độ tăng trưởng cao. Chỉ số phát triển công nghiệp thuộc thành phần này trong các năm 1995, 1998, 1999, 2000, 2001 lần lượt là 136.5%, 112.8%, 123.0%, 145.8% và 140.3%, cao nhất trong tất cả các thành phần kinh tế. Trong khi đó thành phần kinh tế cá thể lại có chỉ số phát triển không cao, trung bình 6%/năm. Đây là tốc độ tăng trưởng chậm nhất trong các thành phần kinh tế. Điều đó cho thấy thành phần kinh tế này vẫn chưa tham gia mạnh mẽ vào nền kinh tế đồng thời cũng cho thấy đây không phải là một thành phần kinh tế có thể ảnh hưởng nhiều đến nền kinh tế nước ta. Mặc dù thực tế trong một số khu vực kinh tế khác thành phần kinh tế cá thể có sự tham gia nhiều hơn nhưng nói chung đây vẫn chỉ là thành phần kinh tế yếu khó có thể cạnh tranh với các thành phần kinh tế còn lại đặc biệt là thành phần kinh tế Nhà nước và thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài cả về quy mô vốn lẫn trình độ khoa học công nghệ do đó không thể tham gia hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp. Thành phần kinh tế này chỉ tham gia mạnh trong các ngành kinh tế yêu cầu ít vốn, khả năng quay vòng vốn nhanh và không đòi hỏi trình độ khoa học kỹ thuật cao.
Kết quả thống kê cho thấy trong năm 2001 tổng số dự án được cấp phép là 502 dự án với tổng số vốn đăng ký là 2503 triệu USD trong đó vốn pháp định là 1044.1 triệu USD. Số dự án đầu tư vào ngành công nghiệp là 398 dự án chiếm 80%. Tổng số vốn đăng ký là 2139.1 triệu USD bằng 85.5%tổng số vốn đăng ký. Qua đó có thể thấy các doanh nghiệp nước ngoài chủ yếu vẫn đầu tư vào Việt Nam trong lĩnh vực công nghiệp, nhằm tận dụng ưu thế về khoa học công nghệ, vốn và trình độ quản lý. Chính vì vậy, trong tổng vốn sản xuất công nghiệp, vốn đầu tư nước ngoài mới chiếm tới 45%. Thực tế này đòi hỏi Việt Nam phải có những chính sách tích cực hơn để thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào các khu vực kinh tế khác đặc biệt là nông nghiệp, giao thông vận tải và bưu điện. Trong năm 2001 số dự án đầu tư vào cả ba ngành là 19 dự án chiếm chưa đầy 4% số dự án được cấp phép.
2.2.2. Thành công trong kinh tế Nhà nước
Cùng với sự thành công trong nền kinh tế chúng ta cũng ghi nhận những thành công trong khu vực kinh tế Nhà nước đặc biệt là thành công trong vấn đề điều tiết nền kinh tế nước ta. Trở lại bảng 4 chúng ta có thể nhận thấy khu vực kinh tế Nhà nước đã chiếm khoảng 40% tổng sản phẩm quốc dân. Với việc tổng giá trị sản phẩm ngày càng tăng thì kinh tế Nhà nước đã thực sự trở thành khu vực kinh tế có ảnh hưởng lớn nhất, giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nước nhà. Trong bảng 5 khu vực kinh tế này cũng chiếm hơn 40% tổng số vốn sản xuất công nghiệp và đóng góp khoảng 40% tổng sản phẩm của ngành. Đây là những kết quả đáng khích lệ cho thấy sự phát triển của khu vực kinh tế Nhà nước đã đi vào ổn định với tốc độ tăng trưởng cao, hiệu quả sử dụng vốn được nâng lên. Đặc biệt kể từ năm 2000 trong cơ cấu tổng sản phẩm quốc gia, tỷ trọng của khối kinh tế Nhà nước liên tục tăng lên. Theo đánh giá của các chuyên gia thì đây là một thành công trong việc nâng cao vai trò chủ đạo nền kinh tế của khu vực kinh tế này.
Bảng 7
Chỉ số phát triển tổng sản phẩm trong nước theo thành phần kinh tế
Năm
1995
1998
1999
2000
2001
Tổng số
109.5
105.8
104.8
106.8
106.8
Kinh tế Nhà nước
109.4
105.6
102.6
107.7
107.8
Kinh tế tập thể
104.5
103.5
106.0
105.5
104.0
Kinh tế tư nhân
109.3
107.9
103.2
108.1
112.9
Kinh tế cá thể
109.8
103.4
103.6
103.9
104.2
Kinh tế hỗn hợp
112.7
104.1
106.2
111.0
115.8
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
115.0
119.1
117.6
111.4
107.5
Qua bảng 7 chúng ta dễ nhận ra khu vực kinh tế Nhà nước mặc dù không phải khu vực kinh tế có chỉ số phát triển cao nhất nhưng lại là khu vực có chỉ số này khá ổn định trong điều kiện kinh tế cả nước. Bắt đầu từ năm 2000 chỉ số phát triển của khu vực kinh tế này liên tục tăng và thường xuyên cao hơn chỉ số phát triển cả nước. Trong điều kiện hiện nay kết quả đó chứng tỏ năng lực sản xuất đã được nâng cao, hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng được cải thiện đáng kể. Với việc tiến hành sắp xếp lại những doanh nghiệp Nhà nước hoạt động không hiệu quả hoặc kém hiệu quả thì chắc chắn khu vực kinh tế này sẽ còn có sự phát triển mạnh hơn nữa.
Một trong những thước đo đánh giá nền kinh tế là cán cân thương mại. Chúng ta quan sát bảng 8: Cán cân thương mại Việt Nam qua các năm để đánh giá tình hình xuất nhập khẩu của nước ta.
Bảng 8:
Cán cân thương mại Việt Nam qua các năm
Năm
1995
1996
1997
1998
1999
2000
Xuất khẩu
5449
7256
9185
9360
11541
14483
Nhập khẩu
8155
11144
11592
11500
11742
15367
Cán cân thương mại
-2706
-3888
-2407
-2140
-201
-1154
Đánh giá: trong những năm qua cùng với sự phát triển của kinh tế Việt Nam cán cân thương mại cũng có sự cải thiện rõ rệt. Nhìn chung nước ta vẫn nhập siêu do yêu cầu phát triển kinh tế tuy nhiên khi cán cân thương mại ngày càng trở nên cân bằng thì cũng đồng thời với việc kim ngạch xuất khẩu tăng lên nhanh chóng. Tính đến năm 2000 thì kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đã đạt 14483 triệu USD, đánh dấu bước chuyển mình lớn của nền kinh tế. Xuất khẩu tăng nên trong những năm qua cho thấy thực tế là các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam đã tăng nhanh được tỷ lệ chất xám, hàm lượng kỹ thuật cao, không còn phụ thuộc quá nhiều vào những sản phẩm thô hoặc mới qua bán sơ chế. Nhập khẩu cũng tăng khá nhưng nhìn chung không có sự thay đổi nhiều qua các năm. Theo đánh giá chung việc xuất khẩu tăng lên trong khi nhập khẩu dần đi vào ổn định chứng tỏ hàng hoá trong nước đã dần th
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 11174.doc