Hiện nay,mặc dù khu kinh tế tư nhân đă phát triển rộng khắp và có hướng phát triển với qu mô lớn trên các vùng lãnh thổ khác nhau, nhưng sự phát triển đó vẫn không đồng đều ở các vùng đặc biệt là các địa phương ,nông thôn ,làng xã dẫn đến mức phân hoá giàu nghèo giữa thành thị –nông thôn vẫn còn tồn tại ,mặc dù chúng ta khôngthể phủ nhận rằng từ khi kinh tế tư nhân ra đời đã góp phần rất nhiều trong việc điều tiết lao động,tăng thu nhập của người dân ở thành thị và nông thôn .Song thực tế ,thì các doanh nghiệp tư nhân lớn đa số vẫn tập trung ở đô thị thành phố lớnđể tiện lợi cho sản xuất ,cho tiêu thụ sản phẩm Trong khi đó ,xét về nhu cầu sử dụng lao động ,các doanh nghiệp ngày này cần lực lượng lao dộng khá đông đảo . Đây cũng có thể được coi là một nhân tố thúc đẩy xu hướng di dân từ nông thôn đổ dồn về thành thị ngày càng phổ biến .Xu hướng di dân này đã bước đầu tạo ra một số thị trường lao động không chinh thức ỏ các thành phố lớn ,gây ra các khó khăn đối với công tác quản lí Nhà nước về lao động và việc làm .
36 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1848 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Phát triển kinh tế tư nhân, lý luận, thực trạng, giải pháp trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c này .Thực tế ,đại hội Đảng lần VIII đã xem xét vấn đề Nhà nước cần làm gì để giảm bớt đi 20% tỷ trọng của chính các công ty tư nhân trong GDP .Các công ty tư nhân ,bao gồm công ty TNHH va công ty cổ phần chiếm một phần rất nhỏ bé trong nền kinh tế với tỷ trọng không quá 1%GDP và vì vậy họ không phải là mối đe doa đối với các doanh nghiệp nhà nước hay các mục tiêu xã hội của chính phủ .Ngược lại, các mục tiêu tăng trưởng , việc làm và công bằng , thậm chí cả mục tiêu duy trì các doanh nghiệp nhà nước phụ thuộc vào thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá và sự vững mạnh của các công ty tư nhân.
Bảng 4 :Cơ cấu sản lượng sản xuất công nghiệp theo hình thức sở hữu.
1991
1992
1993
1994
1995
1996
Số lượng công ty
Công ty một chủ sở hữu
76
3126
8690
14165
18243
21000
Công ty TNHH
43
1170
3389
5310
7346
8900
Công ty cổ phần
3
65
106
134
165
1900
Vốn ( tỷ đồng VN )
Công ty một sở hữu
na
930
1351
2090
2500
3000
Công ty TNHH
na
1490
2723
3882
4237
7300
Công ty cổ phần
na
310
850
1071
1244
2500
Bảng 5 :Thống kê sự đóng góp của các doanh nghiệp trong các ngành
Công ty tư nhân%
Doanh nghiệp gia đình %
Doanh nghiệp nhà nước %
Tỉ trọng của các công ty trong tổng SI%
Lương thực ,thực phẩm
31,0
44,5
29,9
3,7
Dệt may
27,0
7,9
8,1
12,4
Gỗ\sản phẩm gỗ
11,4
7,8
0,9
15,5
Vật liệu XD
4,7
18,3
7,4
2,4
Các nghành khác
25,3
21,5
53,7
2,2
Tổng số
100,0
100,0
100,0
4,0
Cuối cùng thì thực tế cho thấy thống kê sáu tháng đầu năm2000 số công ty tư nhân có tư cách pháp nhân là chiếm đa phần và nhiều hơn số công ty DNNN với sư tăng trưởng hàng năm ngày càng lớn.
Bảng 6 :Thống kê số công ty tư nhân và tăng trưởng hàng năm
( 1996-2000 )
1996
1997
1998
1999
2000
Công ty Ngoài quốc doanh
31.143
33.713
36.753
39.915
46.523
Tăng trưởng hàng năm
8,3%
8,6%
8,6%
16,6%
Công ty tư nhân
21.905
23.009
24.998
26.989
30.077
Tăng trưởng hàng năm
5%
8,6
7,9%
11,5%
Công ty TNHH
9.316
10.420
11.834
12.473
15.701
Tăng trưởng hang năm
11%
9,2
9,5%
25,9%
Công ty cổ phần
216
302
372
453
745
Tăng trưởng hàng năm
9,42%
22,8%
21,1%
64,5%
Như vậy khu vực kinh tế tư nhân đã được tạo lập và sự phát triển của khu vực này trong những năm qua đã tự khẳng định vị trí của nó trong nền kinh tế quốc dân va chứng tỏ khu vực kinh tế tư nhân đã đang và sẽ trở thành khu vực kinh tế trọng điểm trong nền kinh tế Việt Nam.
1.3 Các bộ phận của kinh tế tư nhân .
* Bộ phận kinh tế cá thể , tiểu chủ :
Là những người trực tiếp điều hành các hoạt động sản xuất kkinh doanh của doanh nghiệp .để làm công iệc đó , họ gắn vứi thực quyền kinh doanh của doanh nghiệp ở hai dạng khác nhau.
+ Là chủ sở hữu hoặc đồng sở hữu tài sản của doanh nghiệp kiêm luôn việc trực tiếp điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp .
+ Không phảI là chủ sở hữu , nhưng được chủ sở hữu gia cho quyền sử dụng tài sản và trực tiếp điều hành các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp .
+ trong kinh tế thị trường định hướng Xã Hội CHủ Nghĩa , mặc dù hoạt động trong hai bối cảnh còn có khía cạnh khác nhau đó , nhưng cáI chung nhất , bản chất nhất cua kinh tế cá thể , tiểu chủ vẫn không khác , đó là gắn với thực quyền của chủ thể kinh doanh , các cá thể là người đại diện và giữ vai trò lớn nhất , toàn diện nhất , trong việc thực , thực quyền đó của doanh nghiệp băng chính tài năng và trí tuệ của mình .
Một khía cạnh lý thuyết có thể cho chúng ta vững tin và kết luận đó là :
A, Sự thoả hiệp đồng thuận xã hội ngày càng được mở rộng và nâng cao trong môi trường chính trị – xã hội căn bản đặt trên nền tảng Đảng lãnh đạo , Nhà nước quản lý ,nhân dân làm chủ , được thể chế hoá bằng pháp luật , đã tạo nên những nét tương đồng , mang tính xã hội hóa cao trong thực quyền của chủ thể kinh doanh và tạo những nét mới trong bản chất của cá thể và tiểu chủ .
Thực quyền kinh doanh của doanh nghiệp không phải được hình thành chủ yếu bởi sự chi phối của quyền sở hữu , tài sản mà chủ yếu bằng sự tác động của môi trường chính trị , xã hội , bằng quyền của con người , trong sự thoả hiêp và đồng thuận xã hội cao.
Với xu thế và đa dạng hoá sở hữu và hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh , nhất là sự mở rộng khu vực kinh tế hỗn hợp , trong đó có sự đan xen , pha loãng quyền lực của đồng chu sở hữu . Vị trí và mối qua hệ giữ quyền sở hữu và quyền sử dụng các yếu tố sản xuất đã có sự thay đổi , hoán vị theo hướng nâng quyền kinh doanh của doanh nghiệp .
Văn hoá với tư cách là mục đích , nguồn động lực và là hệ điều tiết của kinh doanh được khuyến khích và tạo điều kiện phát triển làm cho các cá thể , các tiểu chủ có văn hoá hơn trong kinh doanh.
B, Không phải là đất đai , tiền vốn mà là tri thức mới là yếu tố đóng vai trò quyết định sự thành đạt của kinh tế nói chung và sản suất kinh doanh nói riêng. Theo đó con đường phát triển của tầng lớp tiểu chủ , cá thể mới là con đường chiếm lĩnh tri thức , chứ không phảI là nắm lấy đặc quyền từ sự ban cho của sở hữu đất đai và tiền vốn.
Trong nền kinh tế của xã hội nông nghiệp truyền thống , đất dai là yếu tố quyết định sự phát triển . Đất qua trọng như vậy , nhưng có hạn , nên ai chiếm lĩnh được đất thì chi phối được sản xuất và chi phối được người khác không có đất . Do đó , quyền sở hữu đất cũng chi phối gần như tuyệt đối các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Ngay nay trong xu thế phát triển mạnh mẽ , nhanh chóng của tri thức và chuyển giao chi thức nên yếu tố quyết định sự thành đạt của kinh doanh là tri thức mới chứ không phải vốn đất vốn tiền . Tri thức mới với những sáng kiến , phát minh ngày càng nhiều và được nhanh chóng ứng dụng vào đổi mới công nghệ kỹ thuật và quả lý sản xuất kinh doanh . Quỹ đất và quỹ tiền vốn ít có khả năng chia sẻ , nên mới có sự độc quyền và lộng quyền của những ai chiếm hữu đươc đất đai, tiền vốn. Còn tri thức có khả năng phát triển vô hạn , có thể chia sẻ cho nhau để có nhiều người có tri thức mà không làm mất tri thức của ai hết. Sự phát triển và lan toả , mở rộng phạm vi ảnh hưởng của tri thức như vậy nó sẽ tong buớc toạ khả năng loại bỏ sự chỉãe và đối kháng trong cộng đoòng người, theo đó hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cũng thay đổi về chất . Không còn cách nào khác cho tầng lớp doanh nhân mới là phải nắm lấy tri thức , có tri thức mới quy tụ và phát triển được nguồn lực cộng đồng, mới thành đạt trong kinh doanh .
C, Ngày nay với nhưng thánh tựu khoa khọc và công nghệ đã đưa lực lượng sản xuất lên một trình độ phát triển mới cùng với trình xã hội hoá sản xuất ngày càng phát triển, đã làm thay đổi sự cấu thành các yếu tố sản xuất và phân phối so với trước. Sự cấu thành mới cho thấy qua hệ giữ sản xuất và phân phối vè lý thuyết có thể diễn tả trong sự tương đồng giữ sự đóng góp và hưởng thụ. Quyền tư hữu tài sản , không phải lúc nào cũng lung đoạn được phân phối và đưa phân phối vào quan hẹ bóc lột. Các cá thể , tiểu chủ trong kinh tế tư nhân với trường hợp vừa là chủ sở hữu vừa là người trực tiềp điều hành sản xuất kinh doanh không phải lúc cũng là người bóc lột .
Từ những phân tích trên cho chúng ta đi đến kết luận là, các thể , tiểu chủ trong khu vực kinh tế tư nhân hoặc có yếu tố sở hữu tư , cũng như cá thể trong khu vực kinh tế khác đều là những nhà quản trị kinh doanh bằng chính lao động , nhất là lao động trí tuệ của họ . Cá thể là người đại diện thực quyền của chủ thể kinh doanh và trực tiếp thực thi , thực quyền đó trong khuôn khổ pháp luật . Cá thể xứng đáng và cần thiết được đứng trong hàng ngũ các bộ phận vượt trội trong cộng đồng dân tộc , là tầng lớp tri thức và những nhà lãnh đạo quản lý đất nước .
D, Bộ phận kinh tế tư bản :
Là những nhà tư bản nước Ngoài có vốn lớn , họ đầu tư dựa trên cơ sở sở hữu tư nhân hoặc sở hữu hỗn hợp . Bộ phân này đóng vai trò khá quan trọng trong nền kinh tế của nước ta hiện nay , và chúng có khuynh hướng tăng lên hàng năm . Với điều kiện như nước ta hiện nay thì bộ phận kinh tế tư bản đã góp phần hỗ trợ lớn về vốn , hỗ trợ về công nghệ giúp cho nền kinh tế nước ta bắt kịp và có thể hoà nhập vào nền kinh tế toàn cầu , mặt khác nó còn giảI quyết việc làm cho hàng nghìn lao động dư thừa ở nước ta. Chính vì nó có vai trò quan trọng như vậy lên nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi về môI trường kinh doanh , cần sửa đổi các luật về đầu tư cho thích hợp làm sao cho Việt Nam là điểm đến của các nhà đầu tư .
1.4 NHữNG HạN CHế CủA THàNH PHầN KINH Tế TƯ NHÂN .
1.4.1 Những hạn chế đối với nền kinh tế quốc dân .
Chính là do nền tảng pháp lý và cơ sở pháp luật của nhà nước đặt ra cho khu vực kinh tế tư nhân mà tạo ra cho khu vực này khá nhiều khó khăn trong sự hoạt động và phát triển, do đó khu vực này đã gây lên một số hạn chế sự phát triển kinh tế đất nước nếu không nói quá đến sự phát triển đất nước về mọi phương diện.
+ Cơ sở pháp lý quá chặt chẽ trong việc công nhận tư cách pháp nhân , lại thêm vào đó là mức thuế đặt ra với các doanh nghiệp là còn cao , còn nghiêm ngặt. Cho lên hiện nay mặc dù nhiều doanh nghiệp tư nhân với nguồn vốn tự phát và đã có hiệu qủa trong hoạt động kinh doanh nhưng vẫn không đăng ký và cũng không đóng thuế cho nhà nước , dẫn đến hậu quả là ngân sách nhà nước cũng không thu được gì trong hiệu quả đạt được của các doanh nghiệp này . Đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ phàt triển ở vùng nông thôn hay các doanh nghiệp hộ gia đình thì phần lớn họ cũng muốn tự do kinh doanh mà không chịu sự rằng buộc của pháp luật nhà nước . Chính vì vậy số lượng thống kê sự đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào tỷ trọng GDP của nhà nước đôi khi chưa đánh giá được hết tiềm năng và hiệu quả do sản xuất kinh doanh của khu vực này mang lại .
+ Mức thuế thu cho sản xuất kinh doanh chưa phảI là nguyên nhân chính làm xuất hiện những hạn chế do khu vực tư nhân tạo ra . Mà ngay cả mức thuế dành cho xuất – nhập khẩu cũng kém phần ưu đãi cho các doanh nghiệp tư nhân … Chính điều này đã làm cho các doanh nghiệo tư nhân ở Việt Nam mặc dù vốn của họ đủ khả năng để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh sang thị trường nước Ngoài hay sản phẩm của họ đủ khả năngđể đáp ứn nhu cầu tiêu thụ của thị trường nước Ngoài , nhưng họ không muốn xuất khẩu vì thủ tục khá rườm , rích rắc – khó khăn và mức thuế xuất khẩu quá cao. Cũng vì thế mà họ không muón nhập khẩu các loại phụ ting , các linh kiện máy móc hiện đại cho hoạt động sản xuất vì mức thuế nhập khẩu vẫn còn rất cao, hảI quan khó khăn và phảI qua nhiều cửa, nhiều ngạch..Mà nếu chỉ mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước thôi thì khó có thể nâng cao mức lợi nhuận và hiệu quả sản xuất, từ đó mức đóng góp cho ngân sách Nhà nước cũng thấp.
2. Hạn chế về mặt xã hội
Các doanh nghiệp tư nhân với nguồn vốn trong dân, vốn tự có, vốn góp từ bạn kinh doanh là chính cho nên sản phảm tạo ra yêu cầu phảI đạt chất lung cao mẫu mã phong phú để thu được lợi nhuận là nhiều nhất. Họ tìm đủ mọi cách để thu lợi nhuận về cho mình như: Cạnh tranh bằng mọi giá trên cả lĩnh vực sản xuất mẫu hàng hoá ,thị trường ,khách hàng và thu hút nguồn vốn . Chính vì mục đích như vậy mà các doanh nghiệp khi biết cách quản lí biết cách điều hành thì sẽ thu được nhiều kết quả tích cực nhưng còn một số khác sẽ là tiêu cưc vì họ hong đu khéo léo để canh tranh ma ding mọi thủ đoạn ,biện pháp kể cả căng thẳng giữa các doanh nghiệp miễn là sao thu được lợi nhuận cao nhất sản phẩm tiêu thụ được nhiều nhất . Nên đôi khi chính sự cạnh tranh tiêu cực đó đã làm giảm tính đạo đức , văn hoá trong kinh doanh. Trong sản xuấ, sử dụng nhân công một cách tối đa;lực lượng nhân công nhưng vẫn phải làm với lượng công việc nhiều và thời gian dài trong một ngày ,cho nên đôi khi thiếu sự giao lưu giữa chủ –thợ ;thiếu tình cảm giữa chủ với công…Tạo nên bầu không khí không tốt cho sản xuất và lực lượng lao động bị ức chế và căng thẳng trong công việc , Trong một số tình huống , họ thậm chí cảm thấy bị bóc lột sức lao động . Bởi thực chất các doanh nghiệp tư nhân dặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân chưa đăng ký hợp pháp thì ít có chính sách hỗ trợ khuyến khích cho công nhân như :Bảo hiểm ,thưởng công thăm hỏi động viên khi đau ốm…Một số nhà doanh nghiệp còn quá cứng nhắc trong quản lý điều hành, nếu tình trạng này là phổ biến và quy mô áp dụng rộng rãI thì sẽ gây nên sự mâu thuân trong công nhân ,nguồn vốn trong dân giảm ma con tạo động cơ đấu tranh trong công nhân ,quần chúng nhân dân .Vì vậy ,trong công tác điều hành sản xuất đòi hỏi phải có sự kết hợp khéo léo giữa nguyên tắc trong sản xuất ,mềm dẻo trong vận động trong sử dụng công nhân: như tăng cường các chính sách vận động hỗ trợ lao động cho công nhân sẽ đem lại hiệu quả trong quản lý và sử dụng lao động . Đây là vấn đề vùa có ý nghĩa kinh tế nhưng đồng thời cũng là trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp đối với cộng đồng.
Hiện nay,mặc dù khu kinh tế tư nhân đă phát triển rộng khắp và có hướng phát triển với qu mô lớn trên các vùng lãnh thổ khác nhau, nhưng sự phát triển đó vẫn không đồng đều ở các vùng đặc biệt là các địa phương ,nông thôn ,làng xã …dẫn đến mức phân hoá giàu nghèo giữa thành thị –nông thôn vẫn còn tồn tại ,mặc dù chúng ta khôngthể phủ nhận rằng từ khi kinh tế tư nhân ra đời đã góp phần rất nhiều trong việc điều tiết lao động,tăng thu nhập của người dân ở thành thị và nông thôn .Song thực tế ,thì các doanh nghiệp tư nhân lớn đa số vẫn tập trung ở đô thị thành phố lớnđể tiện lợi cho sản xuất ,cho tiêu thụ sản phẩm…Trong khi đó ,xét về nhu cầu sử dụng lao động ,các doanh nghiệp ngày này cần lực lượng lao dộng khá đông đảo . Đây cũng có thể được coi là một nhân tố thúc đẩy xu hướng di dân từ nông thôn đổ dồn về thành thị ngày càng phổ biến .Xu hướng di dân này đã bước đầu tạo ra một số thị trường lao động không chinh thức ỏ các thành phố lớn ,gây ra các khó khăn đối với công tác quản lí Nhà nước về lao động và việc làm .
Như vậy thì sự phát triển ,đóng góp to lớn đến GDP cho đất nước, tạo đà cho sự phát triển kinh tế chứng tỏ khu vực kinh tế tư nhân đạt hiệu quả sản xuất cao hơn so với các khu vực kinh tế Nhà nước khác và cũng là khu vực thu hút lực lượng lao động nhiều nhất mặc dù thực tế phần lớn lao động hiện nay tập trung vào khu vực kinh tế tư nhân .Song khu vực này cũng không tránh khỏi những tồn tại hạn chế nếu không muốn nói đó là ảnh hưởng của nó đến kinh tế đất nước ,đến sự phát triển của xã hội ; nhưng cũng phảI thừa nhận là những hạn chế và ảnh hưởng đó là nhỏ,them chí rất nhỏ chúng ta hoàn toàn có thể khắc phục được.Dù sao thì những hạn chế đó không thể làm lu mờ dược vai trò và vị trí của khu vực kinh tế tư nhân đối với đất nước ta hiện nay.
II . THực TRạNG CủA KINH Tế TƯ NHÂN .
. Thực trạng .
Thực hiện đường nối đổi mới của đảng và nhà nước , hơn 10 năm qua , kinh tế tư nhân được khuyến khích phát triển . Kinh tế tư nhân tăng nhanh cả về số lượng đơn vị , vốn kinh doanh và lao động , phát triển rộng khắp trong cả nước ở các nghành nghề mà pháp luật không cấm . Đặc biệt , số lượng doanh nghiệp tư nhân tăng nhanh sau khi thực hiện luật doanh nghiệp .
Cùng với các thành phần kinh tế khác , sự phát riển của kinh tế tư nhân đã góp phần giải phóng lược lượng sản xuất , thúc đẩy phân công lao động xã hội , chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH – HĐH , thúc đẩy cạnh tranh , phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa . Khu vực này đã đóng góp qua trọng vào tăng tổng sản phẩm trong nước :
Hai năm qua 2001- 2002 , sau khi có luật doanh nghiệp ra đời , số doanh nghiệp tư nhân ra đời 35440 với số vốn đăng kí đạt 40455 tỷ đồng , nhiều hơn số doanh nghiệp được thành lập trong 5 năm trước đó cộng lại đưa số doanh nghiệp đăng hí hinh doanh đén cuối năm 2001 là 74393 doanh nghiệp và chiếm tỷ trọng 24,3% tổng số vốn đầu tư xâ hội .Năm 2001 khu vực doanh nghiệp tư nhân nộp ngân sách trên 11075 tỷ đồng ,chiếm 14,8%tổng thu ngân sách
Theo số liệu thống kê năm 2000giá trị tổng sản phẩm của KTTN chiếm 42,3%GDP toàn quốc trong đó ,hộ kinh doanh cá thể chiếm 34,8% DNTN chiếm 7,46% . KTTN đã huy động ngày càng nhiều hơn các nguồn vốn trong xã hội đầu tư vào sản xuất kinh doanh .Năm 1999 khu vực này chiếm 24,05%,năm 2000 chiếm 24,31% tổng vốn đầu tư xã hội .Theo số liệu của tổng cục thuế ,năm 2000 KTTNđóng góp 16,1%tổng thu ngân sách .Nét nổi bật của KTTN thời gian qua là tạo được nhiều chỗlàm việc mới ,thu hút nhiều lao động trong xã hội , nhất là số đến tuổi lao động chưa có việc làm ,giảI quyết số lao động dôI dư tư các cơ quan ,DN nhà nước do tinh giản biên chế ,giảI thể .Khu vực này góp phần thực hiện chủ trương xã hội hoá y tế , văn hoá giáo dục của nhà nước
Đạt được những kết quả như trên là do Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương chinh sách phù hợp đối với các thành phần kinh tế ,khẳng định rõ vai trò quan trọng của KTTN trong nên kinh tế thị trường định hướng XHCN
Những kết quả chủ yếu
KhơI dậy và phát huy tiềm năng của một bộ phận lớn dân cư tham gia vào công cuộc phát triển đất nước ,thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý theo hướng thị trường ,thúc đẩy cạnh tran trong nền kinh tế
Hình thành và phát triển các nhà doanh nghiệp tư nhân góp phần xây dựng đội ngũ các nhà doanh nghiệp Việt Nam
Góp phần xây dựng quan hệ sản xuấ mới phù hợp ,thúc đảy lực lượng sản xuất phát triển .
1.4 Những tồn tại yếu kém
Những khó khăn và thách thức
Như đã nói ở trên sự phát triển của khu vựckinh tế ngoai quốc doanh nói chung và khu vực kinh tế tư nhân nói riêng đã có nhiều tác động tích cực tới nền kinh tế quốc dân nó thực sự đóng góp một vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của đất nước .Tuy nhiên hiện nay trong quá trình phát triển ,kinh tế tư nhân cũng đãvấp phảI nhiều khó khăn vướng mắc.
1.4.1
Thị trườngchật hẹp,việc tiếp cận với thông tin về thị trường nước Ngoài còn hạn chế đó là một trong những khó khăn lớn đối với sự phát triển của kinh tế tư nhân.
Một trong những vấn đề quan trọng mang tính chất sông còn của kinh tế tư nhân là vấn đề thị trường là yếu tố quyết định sự tồn tại của một doanh nghiệp.
Trình độ công nghệ sản xuất trong các doanh nghiệp tư nhân ở nước ta còn thấp và lạc hậu ,kỹ thuật công nghệ còn nhiều bất cập .Nếu so sánh với tiêu chuẩn công nghệ của các nước láng giềng thì công nghệ của Viêt Nam lạc hậu hơn từ 20-25 năm.Do lượng vốn có hạn nên kinh tế tư nhân khó có khả năng đầu tư để xây dựng công nghệ hiện đại đồng thời việc tái đầu tư vào nâng cao công nghệ cũng vô cùng khó khăn.Điều đó làm sản phẩm không cạnh tranh được.Do vậy mà nhiều sản phẩm của khu vcj kinh tế tư nhan bị hàng nhập lậu chèn ép ,một số doanh nghiệp bị phá sản , mất đI thị trường ngay trên sân nhà.Mặt khác , khu vực kinh tế tư nhân vẫn chưa có khả năng tham gia xuất khẩu trực tiếp , chưa tự tìm khách hàng để xuất khẩu sản phẩm của mình mà chỉ xuất khẩu sản phẩm thông qua các công t thương mại nước Ngoài:khả năng tiếp cận thị trường còn kém .Việc này gây ra nhiều tiêu cực , tốn kém cụ thể là rơI vào tình trạng bị ép giá.Do khó khăn trong việc tìm nguồn vốn cho xuất khẩu nên sản phẩm cả các doanh nghiệp này hầu như chưa xuất khẩu ra thị trường nước Ngoài.Điều đó dẫn đến thị trường tiêu thụ –chủ yếu là trong nước –bị thu hẹp ,rất bấp bênh và thêm vào đó là sức mua của dân cư hạn hẹp .Do phảI chịu những thông lệ ,điều kiện cạnh tranh bất bình đẳng nên sức cạnh tranh của các doanh nghiệp tư nhân đã giảm đang kể.
Bên cạnh đó việc hạn chế trong khả năng tiếp cận thông tin đã gây khó khăn cho khu vực kinh tế tư nhân.Do thiếu những thông tin quan trọng về sản phẩm thị trường ,khoa học công nghệ và các xu hướng phát triển của xã hội nên sẽ là rất khó khăn khi các doanh nghiệp tư nhân lựa chọn cho mình một hướng đI đúng đắn , trong khi sai lầm và rủi ro luôn là những nguy cơ thường trực .Muốn có thông tin doanh nghiệp tư nhân phảI thông qua các cơ quan tình báo thương mại ,tại đây ,thông tin sẽ đựoc đánh giá ,phân tích.Nhưng chi phí cho hoạt động này khá cao nên với nguồn vốn ít ỏi thì các doanh nghiệp tư nhân không thể làm việc qua các cơ quan này .Vì vậy mà làm sao để có những thông tin co giá trị về thị trường ,làm sao để tiếp cận được với thị trường vẫn là vấn đề nan giảI gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp tư nhân ,đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1.4.2.Những hạn chế về vốn và chính sách thuế
a)Khó khăn về vốn
Hầu hết các doanh nghiệp tư nhân ở nước ta hiện nay đều ở qui mô vừa và nhỏ.Đối với các doanh nghiệp này thì vấn luôn là ưu tiên hàng đầu .Phần lớn các doanh nghiệp tư nhân đều thiếu vốn kinh doanh ,vốn tự có thì hạn hẹp. Trong khi đó việc huy động vốn kinh doanh ,sản xuất đối với các doanh nghiệp này đang rất khó khăn. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ của thành phần kinh tế tư nhân không có cơ hội tiếp cận các nguồn vốn và các khoản vay từ ngân hàng,nếu có được vay thì chỉ được vay ngắn hạn(từ 3 đến 6 tháng).Do đó tiếp cận với các khoản tiếp cận tín dụng trung hạn và dài hạn nên các doanh nghiệp tư nhân không thể đầu tư vào máy móc,trang thiết bị.Với các khoản vay có bảo lãnh thì các doanh nghiệp tư nhân không có đủ tài sản nhất là so với bất động sản để đảm bảo tại các ngân hàng.Về phía các ngân hàng thì họ có rất ít kinh nghiệm trong việc cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tư nhân vay vốn.Do vậy cacs doanh nghệp này không có khả năngđảm bảo vốn đối ứng hay tài sản thế chấp,đồng thời các ngân hàng cảm thấy thiếu tự tin và không muốn gặp rủi ro nên họ không sẵn sàng cho các doanh nghiệp này vay.Hơn nữâ lãi suất ở các khoản cho vayhiện nay đang ở mức quá cao so với tỉ suất lợi nhuận cúa các ngành sản xuất,nó không khuyến khích đầu tư để phát triển sản xuất kinh doanh,thủ tục vay vốn còn rất phức tạp .Điều này khiến nhiều doanh nghiệp tư nhân tuy đang rất cần vốn nhưng không dám vay tiền ngân hàng mà huy động vốn chi phí chính thuế lãi suất cao và nhiều rửi ro.
Thu hút vốn đầu tư trong nước đã khó ,việc thu hút vốn nước Ngoài lại càng khó khăn hơn.Do những thông tin về thị trường còn hạn chế các doanh nghiệp chưa đủ kinh nghiệm và kiến thức cần thiết về kí hợp đồng và giao dịch quốc tế.Vì thế việc hội nhập còn khó khăn và cũng không có cơ hội thu hút vốn đầu tư nước Ngoài,bổ sung nguồn vốn,mở rộng quy mô đầu tư.
b.Bên cạnh những khó khăn về vốn thì hạn chế trong chính sách thuế cũng gây nhiều vướng mắc cho sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân.
Chính sách thuế tuy đã có nhiều đổi mới và có ưu đãi hơn với các doanh nghiệp tư nhân như:giảm 1-2 năm cho các doanh nghiệp mới khởi sự,miễn thuế lợi tức cho các cơ sở bắt đầu kinh doanh...
Tuy vậy hệ thống và chính sách thuế ở nước ta vẫn còn nhiều hạn chế:nặng cơ chế thu chưa có cơ chế động viên,nuôi dưỡng nguồn thu.Trong khi đó các doanh nghiệp tư nhân có thể phát triển thì cần có tái đầu tư mà giảm thuế là cơ hội tăng đầu tư.Mặc dù hiện đã có chính sách miễn giảm thuế cho một số đối tượng nhưng thủ tục xin miễn giảm thuế lại phức tạp.
Bên cạnh đó,một trong những nhược điểm của hệ thống thuế nước ta là sự trùng lặp trong việc đánh thuế:thuế doanh thu ,tuế lợi tức ...càng qua nhiều khâu thuế càng cao. Làm cho giá cả bị đẩy lên không những gây thiệt hại cho nguời tiêu dùng mà còn gây khó khăn sức ép với người sản xuất. Do đó làm giả chất lượng sản phẩm hoặc làm sản xuất bị thu hẹp, dẫn tới giảm sức cạnh tranh trên thị trường, tạo điêù kiện hàng ngoại nhập phát triển.
Hiện nay các doanh nghiệp tư nhân đang phải chịu mức thuế doanh thu, thuế lợi tức từ 40- 50% đó là chưa kể các khoản các thuế khác. như vậy , vốn sản xuất thì hạn chế mà mức thuế thì cao làm cho nguồn vốn đã eo hẹp lại càng eo hẹp hơn do đó hạn chế sự phát triển của kinh tế tư nhân.
c.khuôn khổ pháp lý thiếu và còn có sự phân biệt đối xử giữa thành phần kinh tế tư nhân với kinh tế nhà nước
ở nước ta khuôn khổ pháp luật cho nen kinh tế thị trường vãn còn chưa hoàn chỉnh, thiếu đồng bộ,khung pháp lý cho các loại hình doanh nghiệp không đồng nhất và cần được cải cách.Ngoài ra pháp luật chưa đặt các doanh nghiệp vào tình thế cạnh tranh bình đẳng , tính bất ổn định và thường thay đổi của
pháp luật đã tác động xấu đến môi trường đầu tư , chậm huỷ bỏ những căn bản đã lỗi thời . có một số luạt tuy đã ban hành nhưng còn những điều khoản chưa hợp lí .với hệ thống pháp luật như vậy đã cản trở nhiều đến sự phát triển của các thành phần kinh tế nói chung và thành phần kinh tế tư nhân nói riêng . như việc cho phép chính phủ can thiệp vào quá trình quyết định của các công ty tư nhân nhất lìa quyết đinh về đầu tư hay là việc luật của việt
nam chỉ qui định quyền sử dụng nhưng cho phép quyền sở hữu và hạn chế nghiêm ngặt việc chuyển nhượng đất . hậu quả là quyền sử dụng đát thường không được chuyển nhượng công khai , giá đất thiếu ổn định , dẫn đến tình trạng ddaauf cơ và sử dụng đất không hiệu quả . điều này gây nhiều bất lợi cho các công ty tư nhân trong lĩnh vực sản xuất .sau đó 2/1995 chính 9phủ ban hành nghị định trong đó có qui định rõ đối với đát không sử dụng cho mục đích nông nghiệp chỉ được dùng giá trị tiền thuê đất đã trả và giá trị tài sản nằm trên mảnh đất đó để làm tài sản thế chấp . nghị định này đã gây ra tác hại lớn , đẩy các công ty tư nhân vào vị trí bất lợi so với công ty nhà nước trong việc dành quyền sử dụng đất và vay c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phát triển kinh tế tư nhân, lý luận, thực trạng, giải pháp trong giai đoạn hiện nay.DOC