Đề án Phát triển thành phần kinh tế tư nhân định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện hiện nay

MỤC LỤC

Trang

Lời mở đầu 1

I. Những vấn đề lí luận về kinh tế tư nhân trong nền kinh tế nhiều thành phần. 2

1. Kinh tế tư nhân là gì? 2

2. Tính tất yếu của sự tồn tại thành phần KTTN trong nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta. 2

3. Vai trò và vị trí KTTN. 3

II. Thực trạng phát triển kinh tế tư nhân ở việt nam. 4

1. Trước đổi mới. 4

2. Thời kỳ đổi mới. 5

3. Sự đóng góp của KTTN vào sự phát triển kinh tế của nước ta- Những thành tựu và hạn chế. 7

III. Quan điểm của Đảng và nhà nước ta và giải pháp phát triển kttn. 12

1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước. 12

2. Các giải pháp cơ bản nhằm phát triển kinh tế tư nhân. 13

Kết luận 16

Tài liệu tham khảo 17

 

doc20 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1599 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề án Phát triển thành phần kinh tế tư nhân định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ớng XHCN ở nước ta. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH hiện nay, nước ta vẫn chưa chuẩn bị đủ các điều kiện vật chất kinh tế cho sự phất triển của XH XHCN. Vì vậy, Đảng ta đả xác định xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN. Trong nền Kinh tế Quốc dân mỗi một thành phần kinh tế khác nhau đóng một vai trò khác nhau, góp phần phát triển kinh tế, đẩy nhanh hội nhập quốc tế để đưa nước ta tiến thẳng lên CNXH. KTTN- nếu loại bỏ đi những yếu kém trong quan hệ sở hửu, quan hệ bóc lột, chiếm hữu lao động bằng sự quản lí điều tiết của Nhà nước theo định hướng XHCN thì KTTN sẻ là một động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế. Việc đa dạng hoá thành phần kinh tế là rất quan trọng đối với nước ta trong thời kì đổi mới, vì như vậy sẻ tận dụng được hết các sức mạnh, ưu điểm của từng thành phần tạo nên sức mạnh tổng hợp đẩy nhanh phát triển kinh tế- Yêu cầu bức thiết của chúng ta hiện nay. 3. Vai trò và vị trí KTTN. Vai trò của khu vực KTTN đối với nền kinh tế Việt Nam cũng trải qua hiều bước thăng trầm. KTTN, vốn đã kém phát triển trước năm1954 do bị chế độ thực dân và tư sản mại bản chèn ép, lại không được công nhận và dần dần bị thay thế bởi kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể từ sau năm 1954 ở miền Bắc và từ sau năm 1975 trên phạm vi cả nước. Nhận thấy “ cơ chế quản lí tập trung quan liêu bao cấp từ nhiều năm nay không tạo được động lực phát triển, làm suy yếu kinh tế xã hội chủ nghĩa, hạn chế việc sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế khác, kìm hảm sản xuất làm giảm năng suất, chất lượng, hiệu quả, gây rối loạn trong phân phối lưu thông và đẻ ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội”, nên Đại hội VI của Đảng (1986) chủ trương phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nứơc theo hướng XHCN, vai trò của khu vực KTTN ở nước ta đã được thật sự thừa nhận. Nhờ có chủ trương sáng suốt của Đảng và Nhà nước mà khu vực KTTN nước ta liên tục phát triển đóng góp phần quan trọng vào những thành tựu kinh tế xã hội suốt những năm đổi mới. Sự phát triển của kinh tế tư nhân đã góp phần giải phóng lực lượng sản xuất thúc đẩy phân công lao động xã hội; chuyển dịch cơ cấu kinh tế teo hướng CNH, HĐH, phát triển KTTT định hướng XHCN, tăng thêm số lượng công nhân, lao động và doanh nhân Việt Nam, thực hiện các chủ trương xã hội hoá y tế, văn hoá, giáo dục… Những năm gần đây, KTTN luôn đóng góp ổn định ở mức khoảng 60% GDP. KTTN giữ vai trò trọng yếu trong các nghành nông nghiệp (tới 96% GDP nghành này năm 2002) có tốc độ tăng trưởng cao hơn và xấp xỉ khu vực nhà nước trong lĩnh vực dịch vụ( 47,3% GDP khu vực dịch vụ năm 2002). Tính riêng trong giá trị sản xuất công nghiệp năm 2003 khu vực KTTN có mức đóng góp trên 3/5 . Thực tế ở những trung tâm công nghiệp lớn như thành phố Hồ Chí Minh hay Hà Nội cũng cho thấy rõ vai trò quan trọng của KTTN trong sản xuất công nghiệp. Đặc biệt, ở những trung tâm công nghiệp mới như Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa, Vũng Tàu… KTTN chủ yếu là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài- giữ vai trò tuyệt đối trong phát triển các nghành công nghiệp. Vai trò KTTN trong sản xuất cũng ngày càng được khẳng định vững chắc. Bên cạnh đóng góp chủ yếu vào xuất khẩu những sản phẩm nông nghiệp then chốt như thủy sản, gạo, cafê…KTTN đang từng bước nâng cao vai trò và vị trí của mình trong tham gia xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp có kim ngạch lớn như hàng dệt may, giày dép, , điện- điện tử… Trong thương mại nội địa năm 2003 KTTN chiếm tới 82,5% tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ. KTTN đang và sẽ đóng vai trò quyết định trong giải quyết việc làm cho người lao động. Hiện có tới 90% lực lượng lao động đang làm việc trong khu vực KTTN chưa ( hoặc ít) được đào tạo. Như vậy khu vực KTTN đang không ngừng phát triển và khẳng định vai trò quan trọng của mình trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.( Những đóng góp của KTTN vào nhiều mặt đời sống kinh tế- xã hội là rất quan trọng và không thể phủ nhận) ii. thực trạng phát triển kinh tế tư nhân ở việt nam. 1. Trước đổi mới. Thành phần KTTN là đối tượng cải tạo của CNXH là mục tiêu cần bị xoá bỏ, gạt bỏ ra khỏi nền kinh tế XHCN. Bởi vì theo quan điểm của Đảng ta thời kỳ trước đổi mới, khi đất nước ta mới giành được độc lập, đang từng bước khôi phục kinh tế, củng cố chính trị thì thành phần KTTN là thành phần mang tính chất bóc lột, quyền sở hữu thuộc về số ít. Mà đấy chính là mục tiêu loại bỏ của Đảng ta để xây dựng một xã hội XHCN công bằng, dân chủ, văn minh. Do đó thời kỳ 1945-1975 KTTN bị chèn ép dần dần bị thủ tiêu và bị thay thế bởi kinh tế nhà nước kinh tế tập thể. 2. Thời kỳ đổi mới. Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV( Tháng 12/ 1986) và nhất là từ khi ban hành Luật DNTN( năm 1990) cùng nhiều chỉ thị, Nghị quyết và chính sách khuyến khích khác KTTN đã được hồi sinh và phát triển trở lại. Năm 1991, sau 1 năm ban hành luật DNTN, mới có 44 DNTN, CTTNHH và CTCP thì đến năm 1992 là 5198 doanh nghiệp, tương tự các năm 1993 , 1994,1995,1996, 1997 là : 6.808 doanh nghiệp, 10.881 doanh nghiệp, 15.276 doanh nghiệp, 18.894 doanh nghịêp, 25..002 doanh nghiệp và năm 1998 đã tăng lên đến 26.021 doanh nghiệp( tăng 4%) gấp 62 lần so với doanh nghiệp năm 1991. Tính bình quân giai đoạn 1991- 1998 mỗi năm tăng thêm 3.252 doanh nghiệp, khoảng 32% trong đó n ăm 1992 có tốc độ tăng về số lượng doanh nghiệp đặc biệt cao( 1.252%). Từ Đại hội lần thưs VI của Đảng ( 1986) đến nay Đảng và Nhà nước đã nhất quán thực hiện chiến lược phát triển kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng XHCN. Theo định hướng đó khu vực KTTN được Nhà nước khuyến khích hỗ trợ về mặt chính sách, tạo môi trường sản xuất – kinh doanh thuận lợi hơn. Thực tế đã thúc đẩy khu vực kinh tế này phát triển ngày càng mạnh mẽ và có hiệu quả hơn. Theo Báo cáo đánh giá tình hình thực hiện Luật Doanh nghiệp của Bộ Kế Hoạch và Đầu tư tính đến tháng 10- 2003 cả nước có 120.000 Doanh nghiệp trong đó Doanh nghiệp tư nhân là 40.800, chiếm 34% còn có hơn 2,5 triệu hộ kinh doanh cá thể. Số vốn đầu tư mới và bổ sung vốn là 145.000 tỉ đồng, giải quyết việc làm cho hơn 21 triệu người chiếm hơn 56,3% lực lượng lao động xã hội, đóng góp vào ngân sách nhà nước ngày càng tăng. Riêng quý I-2003 số thu từ Doanh nghiệp dân doanh chiếm 11% tổng thu, tăng 25% so với cùng kỳ. Khu vực KTTN đã góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại tăng tỉ trọng đầu tư tăng kim ngạch xuất khẩu( chiếm 30% tỉ trọng xuất khẩu) thúc đẩy cạnh tranh, xoá đói giảm nghèo tạo ra được những hình thức tổ chức kinh doanh hiệu quả, đóng góp đáng kể vào việc cải thiện mức sống dân cư. Tuy nhiên, hiện nay đối với khu vực KTTN, nhận thức và tâm lý của xã hội vẫn còn những định kiến. Theo số liệu điều tra xã hội học của các nhà khoa học TP. Hồ Chí Minh tháng 5- 2003 cho thấy: 42% ý kiến cho rằng doanh nghiệp tư nhân là nơi thường lươn lậu, đút lót trên thuế và 35% cho rằng: đa số những người kinh doanh tư nhân khong biết trọng chữ tín. Mặt khác, kết quả khảo sát của nhiều nhà khoa học và nhà quản lý trong năm 2003 cho thấy vẫn còn tình trạng bất bình đẳng giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN thể hiện trên 5 phương diện: Sự phân biệt trong nhận thức của các công chức trong các cơ quan công trình và của các tầng lớp xã hội, sự phân biệt đối xử trong từng vụ việc, từng hoạt động có liên quan; trong một số văn bản pháp quy điều chỉnh mối quan hệ kinh tế tài chính, trong chính sách nhất là chính sách về đất đai, tín dụng và trong thực thi pháp luật( có đến 60% DNTN không tiếp cận được vơí nguồn vốn vay ngân hàng; DNTN được đem quyền sử dụng đất để liên doanh liên kết, nhưng phải trả tiền thuê ít nhất là 5 năm, trong khi Doanh nghiệp Nhà nước nợ tiền thuê đất vẫn được đem quyền sử dụng đất để liên doanh). Một số DN nhà nước độc quyền chậm cải tiến đổi mới quản lí không công khai, minh bạch dẫn đến hạ thấp năng lực cạnh tranh của khu vực KTTN sử dụng dịch vụ của các DN độc quyền này. Chẳng hạn một số loại chi phí đầu vào nước ta hiện nay như gía điện, giá dầu, than, ga cao hơn trung Quốc và các nước trong khu vực 30-40% chi phí vận chuyển cao hơn 1,5 lần Cước điện thoại, Internet cao hơn Xingapore 6 lần nhưng tốc độ đường truyền rất chậm nên chi phí thực tế cao hơn nhiều. Các doanh nghiệp NN kinh doanh trong các lĩnh vực này được nhà nước bảo hộ, hỗ trợ giá.. Trong khi đó các doanh nghiệp tư nhân lại không những không được hỗ trợ giá.. mà còn phải chịu nhiều loại tỷ lệ phí. Vậy, trong quá trình đổi mới nhất là trong thời gian gần đây, kinh tế tư nhân nước ta phát triển khá nhanh và mạnh . Trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN Nhà nước ta đã có những cơ chế thông thoáng tạo điều kiện cho sự phát triển của thành phần KTTN tuy nhiên, nó vẫn còn nhiền hạn chế về mọi phương diện. 3. Sự đóng góp của KTTN vào sự phát triển kinh tế của nước ta- Những thành tựu và hạn chế. a. Những thành tựu chủ yếu. - Khơi dậy và phát huy tiềm năng của một bộ phận lớn dân cư tham gia vào công việc phát triển đất nước thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo mở việc làm. Năm 1996 các DNNT đã huy động được lượng vốn vào kinh doanh là 20.665 tỉ đồng, bình quân từ năm 1991- 1996 mỗi năm tăng thêm 3.940 tỉ đồng, chiếm khoảng 5% tổng số vốn đầu tư phát triển của toàn xã hội và 6,9% vốn kinh doanh của các nghành. Nếu tính cho cả khu vực KTTN thì tổng lượng vốn lên đến 47.165 tỉ đồng chiếm tới 15% tổng số vốn đầu tư phát triển toàn xã hội. Mặc dù đã thu hút thêm nguồn FDI ngày một tăng( từ 13,7%( năm 1990) lên đến 35% ( năm 2003) tổng nguồn vốn đầu tư phát triển của cả nước ) nhưng khu vực KTTN trong nước đã đóng góp lượng vốn đầu tư rất đáng kể cho nền kinh tế: đến nay chiếm gần 30% ( năm 2003). Ngoài thu hút vốn đầu tư phát triển KTTN và có thể tiểu chủ đã giải quyết việc làm cho 4.700.742 lao động., chiếm gần 70% lực lượng lao động xã hội trong khu vực sản xuất ngoài nông nghiệp. Xét về góc độ giải quyết việc làm thì đây là khu vực có tỉ lệ thu hút lao động trên vốn đầu tư cao trong nền kinh tế( cụ thể là : cá thể thu hút 165 lao động/ 1 tỉ đồng vốn doanh nghiệp tư nhân 20 lao động / 1 tỉ đồng vốn DNNH chỉ thu hút được 11,5 lao động/ 1 tỉ đồng vốn. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có 1,7 lao động/ 1 tỉ đồng vốn.) Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý theo hướng thị trường, thúc đẩy cạnh tranh nền kinh tế. Trước đây hầu hết các lĩnh vực kinh tế, các nghành nghề sản xuất kinh doanh … đều do khu vực KTQD và HTX đảm nhiệm. Hiện nay, trừ một số lĩnh vực nghành nghề mà KTQD và Nhà nước độc quyền cấm kinh tế tư nhân kinh doanh còn lại hầu hết các ngành nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh… khu vực KTTT đều tham gia. Trong đó nhiều lĩnh vực, ngành nghề , khu vực KTTN đã chiếm tỉ trọng áp đảo ( như: sản xuất lương thực thực phẩm, nuôi trồng thủy sản, đánh cá, lâm nghiệp hàng hoá bán lẻ chế biến hàng tiêu dùng…) KTTN đã tham gia và chiếm tỉ trọng lớn trong không ít ngành nghề, chính sự phát triển phong phú đa dạng các cơ sở sản xuất, các ngành nghề đó đã tác động mạnh đến các DNNN buộc kinh tế khu vực này phải cải tổ, sắp xếp lại đầu tư đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức kinh doanh dịch vụ… để tồn tại và đứng vững trong cơ chế thị trường. Như vậy, KTTN đã thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các khu vực kinh tế, làm cho nền kinh tế trở nên năng động, đồng thời cũng tạo nên sức ép lớn buộc cơ chế quản lí hành chính của Nhà nước phải thay đổi nhanh nhạy đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của các doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế thị trường nói chung. Hình thành và phát triển các doanh nghiệp tư nhân góp phần xây dựng đội ngũ các nhà doanh nghiệp Việt Nam. Nhờ đổi mới và phát triển khu vực KTTN chúng ta đã từng bước hình thành được đội ngũ các nhà doanh nghiệp tư nhân hoạt động trong hầu hết các lĩnh vực, các ngành nghề của nền kinh tế quốc dân với số lượng lớn hơn 26.000 chủ DNTN và trên 100.000 chủ trang trại ( trong lĩnh vực nông thôn- lâm – ngư nghiệp). Nếu so sánh với gần 6.000 giám đốc DNQD được Nhà nước đào tạo trong nhiều thập kỷ trước đây thì số lượng các DNTN dã vựơt hơn hẳn. Góp phần xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, thực hiện công bằng xã hội. Chính nhờ sự phát triển KTTN với nhiều loại hình kinh tế khác nhau đã góp phần làm cho quan hệ sản xuất chuyển biến phù hợp với lực lượng sản xuất trong giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế nước ta. Trước hết là sự chuyển biến trong quan hệ sở hữu sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể thì giờ đây quan hệ sản xuất, vốn, sức lao động của hộ cá thể, tiểu chủ và hộ nông dân, có sở hữu tư nhân trong các DNTN, CTCP, CTTNHH có sở hữu hỗn hợp dưới hình thức chủ nghĩa Tư bản Nhà nước. Sự chuyển biến trong quan hệ sở hữu nói trên kéo theo sự chuyển biến trong quan hệ quản lý hình thành tầng lớp chủ doanh nghiệp tư nhân bên cạnh đội ngũ giám đốc các DNNN, hình thành đội ngũ những người lao động làm thuê trong các DNTN bên cạnh những người làm công ăn lương trong các DNNN… xuất hiện quan hệ chủ thợ, quan hệ thuê mướn lao động thông qua hợp đồng kinh tế; thị trường lao động được hình thành và ngày càng mở rộng tạo cơ hội tìm kiếm việc làm cho mọi người thay cho việc phân bố lao động vào các doanh nghiệp theo chỉ tiêu. Quan hệ phân phối giờ đây ngày càng trở nên linh hoạt, đa dạng, ngoài phân phối chủ yếu dựa trên lao động, còn sử dụng các hình thức phân phối theo vốn góp theo tài sản, theo cổ phần và các hình thức khác… Chính sự chuyển biến của các quan hệ sở hữu, quản lí và phân phối nói trên đã làm cho quan hệ sản xuất trở nên mềm dẻo đa dạng, linh hoạt để được chấp nhận và phù hợp với điều kiện hoàn cảnh nền kinh tế và tâm lý xã hội ở nước ta hiện nay. Nhờ vậy đã khơi dậy và phát huy được tiềm năng về vốn, tư liệu sản xuất, tài nguyên thiên nhiên đặc biệt là nguồn lao động dồi dào cá thể – tiểu chủ và tư bản tư nhân vào công cuộc phát triển kinh tế, trấn hưng đất nước. Thông qua đó quảng đại quần chúng nhân dân thực hiện được quyền tham gia phát triển kinh tế và hưởng thụ thành quả tăng trưởng, nhờ vậy công bằng xã hội từng bước được thực hiện. b. Những tồn tại, yếu kém và nguyên nhân chủ yếu KTTN ở nước ta đã phải đóng góp một phần quan trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng trong quá trình tồn tại và phát triển nó không tránh khỏi những yếu kém cần phải khắc phục. - Phần lớn các cơ sở kinh tế tư nhân đều có quy mô nhỏ, năng lực hạn chế, dễ bị tổn thương trong cơ chế thị trường. Hiện nay, có tới 87,2% doanh nghiệp có mức vốn dưới 1 tỷ đồng trong đó 29,4% có mức vốn dưới 100 triệu đồng những doanh nghiệp có mức vốn từ 10 tỉ đồng trở lên có tới 0,1%. Thiếu vốn để sản xuất và mở rộng sản xuất kinh doanh là hiện tượng phổ biến đối với các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân hiện nay và được coi là một trong những cản trở lớn nhất ( sau vấn đề thị trường tiêu thụ và cạnh tranh) đến sự phát triển sản xuất kinh doanh của các cơ sở kinh tế tư nhân. - Máy móc, thiết bị, công nghệ lạc hậu và nguồn nhân lực còn nhiều bất cập. Mặc dù nhận thức được nhu cầu cấp bách phải nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá, song khả năng đổi mới thiết bị công nghệ của các cơ sở sản xuất tư nhân còn hạn chế( do thiếu vốn đầu tư) vì vậy phần lớn các cơ sỏ này đều đang sử dụng máy móc thiết bị cũ lạc hậu. Lao động trong các DNTN chủ yếu là lao động phổ thông, ít được đào tạo thiếu kỹ năng, trình độ văn hoá thấp. Số liệu điều tra cho thấy: chỉ có 5,13% lao động có trình độ đại học trên 60% số chủ DN tuổi trên 40 khoảng 48,4% số chủ DN không có bằng cấp chuyên môn và chỉ có 31,2% số chủ DN có trình độ cao đẳng và đại học trở nên. Thiếu mặt bằng sản xuất và mặt bằng sản xuất không ổn định là tình trạng phổ biến. Luật đất đai chỉ quy định quyền sử dụng đất không cho phép tư nhân có quyền sở hữu và hạn chế nghiêm ngặt việc mua bán đất đai. Thêm vào đó sự phân biệt đối xử trong việc giao đất của Nhà nước đối với ĐNQ và cho thuê đất đối với DNTN cũng gây ra bất lợi và thiệt thòi cho khu vực KTTN. Thị trường tiêu thụ sản phẩm không ổn định chủ yếu xuất khẩu qua trung gian thông qua các công ty của Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản nên giá trị gia tăng rất thấp ( khoảng 20%). Khả năng tiếp thị, xúc tiến thương mại trong và ngoài nước rất hạn chế. Đa số các DNTN chưa có bộ phận chuyên trách về thơng hiệu, nhiều DNTN chưa có chức doanh quản lí thương hiệu dẫn đến khó tiếp cận, chiếm lĩnh và mở rộng thị trường. Một số DNTN chưa có chức doanh quản lí thương hiệu dẫn đến khó tiếp cận, chiếm lĩnh và mở rộng thị trường. Một số DNTN có thương hiệu mạnh, nhưng không tiến hành đăng ký bảo hộ, bị đối tác nước ngoài đánh cắp ở thị trường quốc tế. Phần lớn sản phẩm của khu vực tư nhân được tiêu thụ trên thị trường nội địa. Nhưng hàng hoá trong nước còn tồn đọng với khối lượng lớn cùng với hàng nhập lậu tràn lan không kiểm soát nổi qua biên giới, giá rẻ đã làm cho việc tiêu thụ hàng hoá của khu vực tư nhân lâm vào tình thế cực là bất lợi, làm cho nhiều cơ sở sản xuất bị đình đốn, phá sản, đóng cửa. Khả năng cạnh tranh để tồn tại, đứng vững trong cơ chế thị trường còn hạn chế, một số mặt tiêu cực nảy sinh đã làm tốc độ phát triển của cả khu vực KTTN có biểu hiện suy thoái. Những chính sách, luật pháp cơ chế quản lý vĩ mô của Nhà nước đã được sửa chữa hoàn chỉnh nhiều lần nhưng vẫn chưa đủ tạo lòng tin cho các nhà doanh nghiệp tư nhân – nhất là những nhà doanh nghiệp có vốn lớn có đầu óc kinh doanh… yên tâm làm ăn lâu dài. Bởi vì trong thực tế nhiều chủ trương chính sách bị biến dạng qua các tầng nấc hành chính., sự tha hoá trong bộ máy và đội ngũ cán bộ Nhà nước vẫn không giảm. ở tầm vĩ mô chưa có sự phối hợp chặt chẽ và phân công trách nhiệm rõ ràng giữa các ngành, các cấp trong việc quản lý KTTN, cũng như thiếu một kế hoạch phát triển KTTN có bài bản trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta. Còn thiếu các thể chế, các tổ chức hỗ trợ, phát triển đồng bộ, có hiệu quả ( như cơ chế thương mại, thể chế tài chính tín dụng, chính sách thuế…) nhằm giúp đỡ KTTN hình thành và phát triển lành mạnh trong cơ chế thị trường. Các DNTN vẫn chưa được tiếp cận đầy đủ và thuận lợi các nguồn nhập khẩu và mạng lưới xuất khẩu, tín dụng, ngân hàng, thuế, cũng như các kênh thông tin kinh tế thị trường, đào tạo nguồn nhân lực các tổ chức xúc tiến thương mại, các hợp tác xã ngành nghề trong nước và quốc tế… Điều này đã hạn chế lớn đến sự phát triển bền vững của KTTN. Sau hơn một thập kỷ hình thành và phát triển KTTN đã đạt được những thành tựu nhất định, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo mở việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống, thực hiện công bằng xã hội… nhờ đó khẳng định vai trò vị trí của mình trong nền kinh tế nước ta. Mặt khác, thực trạng phát triển KTTN cũng cho thấy rõ những xu hướng vận động chủ yếu và cả những yếu kém chủ quan của bản thân các DNTN và nhất là những hạn chế, vướng mắc trong thể chế, chính sách, môi trường, vĩ mô… của Nhà nước. Do đó để thúc đẩy KTTN phát triển mạnh mẽ trong thập kỷ tới, cần tiếp tục đổi mới hơn nữa các chính sách giải pháp vĩ mô của Nhà nước, nhằm tạo ra môi trường thông thoáng, thuận lợi cho nó phát triển là cách thức tốt nhất để phát huy vai trò “ nội lực” của KTTN phục vụ mục tiêu tăng trưởng kinh tế và chiến lược CNH, HĐH của Đảng và Nhà nước ta. iii. Quan điểm của Đảng và nhà nước ta và giải pháp phát triển kttn. 1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đã xác đinh “ Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tếthị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cùng phát triển lâu dài hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân” kinh tế cá thể tiểu chủ được “ Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ để phát triển rộng rãi “ Trong những ngành nghề sản xuất kinh doanh mà pháp luật không cấm”. Hội nghị trung Ương lần thứ năm ( khoá IV) cũng khẳng định “ Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế , công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao nội lực của đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế” . KTTN được Nhà nước định hướng hỗ trợ, dẫn dắt và bảo vệ một cách bình đẳng với các thành phần kinh tế khác một cách bình đẳng với các thành phần kinh tế khác. Nhà nước còn khuyến khích kinh tế tư nhân liên kết, liên doanh với kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể khiến cho “ tính chất tư nhân” thuần tuý không còn như trong các nền kinh tế tư nhân trước đây. Hiện nay vấn đề “ Đảng viên làm kinh tế” đã được thông qua. Như vậy Đảng và Nhà nước đã bổ sung cho thành phần KTTN một lực lượng hùng hậu có đầy đủ phẩm chất, nhân cách để đưa KTTN nước ta nói riêng và kinh tế nước ta nói chung phát triển. 2. Các giải pháp cơ bản nhằm phát triển kinh tế tư nhân. Để thực hiện Nghị quyết của Đại hội Đảng IX nhằm phát triển KTTN ở nước ta trong điều kiện hiện nay thì chúng ta cần thực hiện các giải pháp sau: a. Thống nhất nhận thức về quan điểm, tạo môi trường thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển. - Cần có sự giải phóng tư tưởng, đổi mới tư duy và nhận thức về vai trò, vị trí của khu vực kinh tế tư nhân trong nền kinh tế nhiều thành phần, cần xem KTTN là một trong những nhân tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải phóng sức sản xúât đóng góp vào sự phát triển kinh tế xã hội. - Cần ban hành một số chủ trương, chính sách cụ thể để phát triển kinh tế tư nhân, sớm giải quyết vướng mắc về chính sách, luật pháp, cơ chế đối với kinh tế tư nhân tôn trọng và bảo vệ quyền tự do kinh doanh theo pháp luật cho phép các nhà đầu tư được quyền lựa chọn hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh trong những ngành nghề có lợi cho đất nước mà pháp luật không cấm. - Thực hiện các biện pháp, cơ chế, chính sách khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân xoá bỏ sự phân biệt đối xử giữa kinh tế nhà nước, tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng. - Xoá bỏ các quy định hiện hành gây cản trở đầu tư kinh doanh của các doanh nghiệp, tiếp tục rà soát, loại bỏ các giấy phép trái với luật doanh nghiệp. - Huy động tối đa các nguồn lực cho phát triển cơ sở hạ tầng, xoá bỏ rào cản giữa cán bộ, công chức với các doanh nghiệp KTTN. b. Giải pháp tài chính, tín dụng. - Hỗ trợ tối đa, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tích tụ vốn cho đầu tư, mở rộng sản xuất phải đổi mới phương thức hoạt động của ngân hàng thương mại nhằm bảo đảm sự bình đẳng khi cho vay đối với khu vực KTTN. - Tạo điều kiện để các doanh nghiệp tư nhân tiếp cận vốn vay ưu đãi từ các nguồn vốn vay ưu đãi quốc gia địa phương và quốc tế. - Kiểm tra, giám sát các doanh nghiệp khu vực tư nhân về chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ, chế độ kê khai nộp thuế, sửa đổi, bổ sung chế độ kế toán và báo cáo tài chính cho phù hợp với đặc điểm và trình độ của doanh nghiệp hiện nay. - áp dụng các hình thức thuê mua tài chính nhằm giúp cho doanh nghiệp tư nhân đổi mới công nghệ, tiếp cận máy móc, thiết bị hiện đại hoặc có thể cho doanh nghiệp mua những máy móc thiết bị theo phương thức trả góp. - Xúc tiến, nhanh việc hình thành thị trường chứng khoán cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tư nhân huy động vốn trên thị trường chứng khoán. c. Giải pháp về hỗ trợ thông tin, xúc tiến thương mại tiếp cận thị trường. - Cần có chính sách bảo hộ sản xuất trong nước và xuất khẩu. - Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tư nhân tham gia các hội thợ, các cuộc triển lãm, các cuộc trưng bày hàng hoá ở trong và ngoài nước để họ có điều kiện tiếp cận giá cả, mẫu mã, chất lượng sản phẩm của đối thủ cạnh tranh trên thị trường, từ đó thúc đẩy nâng cao chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng như tìm kiếm đối tác trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá. - Các cơ quan chức năng cung cấp những thông tin cần thiết về thị trường, về những diễn biến và các dự toán về xu hướng vận động của thị trường để doanh nghiệp chủ động sản xuất, kinh doanh. - Tạo điều kiện cho doanh nghiệp tăng cường công tác tiếp thị ở thị trường nước ngoài, phát triển mạng lưới kinh doanh mở rộng thị trường trong nước, tổ chức tốt hệ thống phân phối, bán sản phẩm, từng bước áp dụng những tiêu chuẩn chất lượng quốc tế, tăng cường quan hệ với người tiêu dùng, cho phép giám đốc các doanh nghiệp tư nhân được tham gia vào các đoàn công tác của Chính phủ đi nghiên cứu kinh tế ở các nước. d. Giải pháp hỗ trợ về đào tạo, khoa học và công nghệ. - Thành lập các trung tâm hỗ trợ kỹ thuật cho doanh nghiệp vừa và nhỏ trong đó có doanh nghiệp tư nhân, quy hoạch phát triển mạng lưới đào tạo nghề, hỗ trợ các cơ sở đào tạo, các trung tâm dạy nghề cho người lao động để hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực. - Mở rộng hệ thống dịch vụ tư vấn khoa học, công nghệ cho khu vực kinh tế tư nhân, hỗ trợ các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ thông tin, khen thưởng các doanh nghiệp

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35788.doc
Tài liệu liên quan