Hiện nay công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng vẫn là một khâu làm “nhức đầu” các nhà lãnh đạo Hà Tây và các nhà đầu tư. Hiện tượng nhân dân khiếu kiện vì cho rằng chính sách bồi thường giải phóng mặt bằng không thỏa đáng là một trong những hiện tượng phổ biến tại Hà Tây, chẳng hạn như cụm công nghiệp Lại Yên, Lô 2, Lô 5 cụm công nghiệp An Khánh, dự án sân gôn của công ty TNHH DK ENC Việt Nam ở Chương Mỹ Có thể dẫn chiếu một số nguyên nhân chính dẫn đến việc thực hiện công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng ở Hà Tây khó khăn như:
- Quy định của pháp luật hiện hành trong việc xác định giá đất bồi thường, đắc biệt giá đất nông nghiệp chưa hợp lý, dẫn đến giá bồi thường thấp, nhân dân khiếu kiện, dẫn đến thười gian bồi thường kéo dài làm chậm tiến độ thực hiện dự án.
62 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1669 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Phương hướng và giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư vào tỉnh Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ắng của các tầng lớp nhân dân và các doanh nghiệp, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy, HĐND, UBND các cấp, các ngành chức năng và các đoàn thể đóng vai trò rất quan trọng trong việc triển khai thực hiện chủ trương, quan điểm của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, đảm bảo độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích chính trị, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường… Tỉnh đã chủ động xây dựng và tổ chức triển khai nhiều chương trình phát triển kinh tế - xã hội gắn kết với lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế, bám sát Nghị quyết của Bộ Chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế và lộ trình gia nhập WTO của quốc gia… Cùng với đó, Hà Tây tiếp tục tăng cường công tác quản lý Nhà nước trong việc thực hiện các chính sách đối với người lao động, chú trọng đào tạo nghề, vừa qua, đã giải quyết việc làm mới cho 30.500 lao động trong các doanh nghiệp trên địa bàn, đưa 1.900 người đi lao động có thời hạn ở nước ngoài… UBND tỉnh đã chỉ đạo xây dựng quy hoạch các khu đô thị, khu nhà ở, trên cơ sở đó, lựa chọn các nhà đầu tư có đủ năng lực để thực hiện các dự án. Đặc biệt, là công tác cải cách hành chính diễn ra mạnh mẽ, tạo điều kiện để các doanh nghiệp tiếp cận các nguồn vốn, thuê đất, phát triển sản xuất kinh doanh. Hàng năm, UBND tỉnh ban hành Kế hoạch cải cách hành chính để thực hiện Nghị quyết về cải cách hành chính nhằm nâng cao hiệu lực điều hành của bộ máy chính quyền các cấp. Từ đó, môi trường đầu tư của tỉnh được cải thiện rõ rệt: Tính đến hết 31/12/2007, trên địa bàn Hà Tây đã có 595 dự án đầu tư trong nước, với tổng số vốn đầu tư đăng ký là 38.273 tỉ đồng. Riêng năm 2007, thu hút 143 dự án với số vốn đăng ký 24.697,8 tỉ đồng. Môi trường thu hút đầu tư không ngừng được cải thiện. Tính đến nay, trên địa bàn tỉnh có 118 dự án có vốn đầu tư nước ngoài; vốn đầu tư đăng ký đạt 2.255,6 triệu USD. Dự kiến, các dự án sẽ thu hút được khoảng 28.000 lao động, nộp ngân sách hàng năm khoảng 900 tỉ đồng, đưa Hà Tây vào nhóm các tỉnh, thành phố có đầu tư trực tiếp nước ngoài với giá trị trên 1 tỉ USD. Đồng thời, Hà Tây đã mở rộng quan hệ hợp tác đầu tư với 20 quốc gia, hình thành 1 khu công nghệ cao, 5 khu công nghiệp, 27 cụm công nghiệp, nhiều nhà máy lớn đang hoạt động trong các lĩnh vực cơ khí, điện tử, sản xuất vật liệu xây dựng, dệt may, chế biến nông sản thực phẩm… Bên cạnh những kết quả tích cực, Hà Tây vẫn còn một số hạn chế được chỉ ra như: nhận thức, tiếp nhận thông tin, việc triển khai, hiệu quả trong hội nhập kinh tế quốc tế còn chưa đạt hiệu quả tốt; Cơ cấu vốn, chất lượng nguồn nhân lực, quy mô, trình độ khoa học công nghệ và quản lý của doanh nghiệp chưa cao; thiếu sản phẩm hàng hóa và dịch vụ chủ lực có thương hiệu trên thị trường; đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại chưa đáp ứng yêu cầu hội nhập… Để công tác kinh tế đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế đạt hiệu quả cao, thời gian tới, Hà Tây sẽ tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục và thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị, các chủ trương, chính sách của Tỉnh ủy về Hội nhập kinh tế quốc tế. Đồng thời, tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh về môi trường đầu tư. Trong đó, chủ động chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới công nghiệp và trình độ quản lý, phát huy lợi thế của tỉnh, tạo ra những ngành, sản phẩm chủ lực cạnh tranh, phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường theo định hướng XHCN; Có kế hoạch cụ thể đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực vững vàng về chính trị, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, nghiệp vụ giỏi, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế gắn kết với nhiệm vụ giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội…
4. Đánh giá về thực trạng thu hút vốn đầu tư của tỉnh.
4.1. Mặt được:
Sau sự kiện Ban thường vụ Tỉnh ủy Hà Tây đã có nghị quyết 14 và kế hoạch số 59 KH/TU ngày 4/6/2005 về tổ chức đợt sinh hoạt kiển điểm nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh về môi trường đầu tư, khắc phục những điểm yếu, quyết tâm nâng cao năng lực cạnh tranh và cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh trên địa bàn tỉnh, đổi mới nhận thức coi thu hút đầu tư là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong việc thúc đẩy kinh tế xã hội địa phương phát triển và hội nhập, giải pháp cải thiện môi trường đầu tư ở đây là: đề ra và quyết tâm thực hiện đúng “ Quy định về một số chính sách khuyến khích đầu tư trên địa bàn Hà Tây” để tạo động lực cho đầu tư phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới. Quyết tâm thực hiện tốt quy định về cơ chế “một cửa” đối với các dự án đầu tư, trong đó quy định rõ trình tự, thời gian, cơ quan giải quyết các thủ tục hành chính theo nguyên tắc tuân thủ pháp luật, minh bạch, đơn giản, thuận tiện, góp phần tiết kiệm thời gian và chi phí cho các nhà đầu tư. Quy định và áp dụng các chế tài mạnh, sử lý các vi phạm từ phía cơ quan công quyền làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư. Tăng cường hiệu quả và tính pháp chế của công tác quản lý nhà nước về đầu tư, tạo lập và duy trì giữa nhà đầu tư và nhân dân, chính quyền địa phương sự hợp tác, hữu nghị, cùng có lợi về kinh tế, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ về mặt pháp lý, áp dụng công nghệ thong tin hiện đại, tạo lập các kênh thông tin, cơ sở dữ liệu phục vụ việc tìm hiểu, tra cứu của các nhà đầu tư muốn tìm cơ hội đầu tư tại tỉnh Hà Tây.
Đặc biệt để tiếp tục đẩy mạnh công tác thu hút các nguồn vốn đầu tư trong phát triển kinh tế, đồng thời đưa công tác này trở thành một trong những công tác trọng tâm và mang tính chuyên nghiệp, ngày 31/5/2005, chủ tịch UBND tỉnh đã ký quyết định số 608 QD – UB thành lập trung tâm xúc tiến đầu tư trực thuộc Sở Kế hoạch đầu tư Tỉnh.
Việc ban hành nghị quyết 14, kế hoạch số 59 KH/TU, thành lập trung tâm xúc tiến đầu tư và những chính sách đổi mới, cải thiện môi trường đầu tư của Hà Tây là những quyết định sáng suốt và là những giải pháp mang tính đột phá của ban thường vụ tỉnh ủy và lãnh đạo tỉnh Hà Tây. Kế quả là năm 2006 Hà Tây đã vươn lên đứng ở vị trí thứ 3 cả nước về thu hút đầu tư nước ngoài. Đặc biệt là các dự án thu hút được nguồn vốn đầu tư lớn như: dự án khu chung cư quốc tế booyoung với số vốn đầu tư đăng ký 171 triệu USD và dự án xây dựng làng việt kiều Châu Âu TSQ, vốn đầu tư đăng ký là 59.2 triệu USD.
Cho đến nay, Hà Tây vẫn tiếp tục đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư, tạo dựng và quảng bá hình ảnh về môi trường đầu tư thông thoáng, minh bạch và lành mạnh để thu hút đầu tư vào tỉnh. Cụ thể, trong lộ trình cải thiện môi trường đầu tư, thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính. Sở Kế Hoạch Đầu tư đã phối hợp với các ngành lien quan soạn thảo văn bản và ban hành quy chế mới về tiếp nhận, cấp phép các dự án đầu tư với mục đích giảm các phiền hà, rút ngắn thời gian xuống còn một nửa so với quy trình trước. Hiện nay, tỉnh Hà Tây thực hiện cơ chế “một cửa liên thông” tại sở kế hoạch đầu tư. Văn phòng này có trách nhiệm tiếp nhận, giái quyết công việc của 3 ngành: kế hoạch đầu tư, công an, thuế, giúp doanh nghiệp thực hiện các thủ tục đăng ký kinh doanh. Kết quả cho thấy, chỉ tính riêng 5 tháng đầu năm 2007, Hà Tây đã thu hút được 45 dự án đầu tư với tổng số vốn là 6.644 tỷ đồng nhiều hơn cả năm 2006, khẳng định chủ trương cải thiện môi trường đầu tư gắn với thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính của địa phương là đúng đắn.
Về công tác đào tạo nguồn nhân lực: Tỉnh Hà Tây cũng chủ trương thúc đẩy đầu tư cho giáo dục nhằm từng bước tạo nguồn nhân lực có chất lượng phục vụ cho việc phát triển kinh tế và hội nhập.
4.2. Mặt hạn chế.
Có được kết quả thu hút đầu tư nêu trên trước hết là do lãnh đạo tỉnh Hà Tây, các sở, ngành, địa phương lien quan đã rất chú trọng đến vai trò của vốn và công tác thu hút đầu tư; tạo lập môi trường đầu tư thông thoáng như xây dựng cơ sở hà tầng: đường giao thông, hệ thống cấp điện, cấp, thoát nước, hệ thống thông tin liên lạc; đổi mới cơ chế chính sách theo hướng đầu tư vào tỉnh Hà Tây được hưởng quyền lợi cao nhất và đóng góp nghĩa vụ thấp nhất theo quy định hiện hành của pháp luật; công tác cải cách thủ tục hành chính được đề cao và tập trung thực hiện khẩn trương; công tác quy hoạch, chuẩn bị đầu tư đã được quan tâm, chỉ đạo đúng hướng nên đã được một số kết quả về phát triển sản xuất, tạo thêm nguồn thu ngân sách, giải quyết việc làm cho người lao động,
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn một số hạn chế trong thu hút đầu tư ở tỉnh như sau:
- Năng lực cạnh tranh của môi trường đầu tư – kinh doanh của tỉnh đã được cải thiện hơn so với trước, tuy vậy so với yêu cầu của công cuộc phát triển kinh tế - xã hội theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập, yêu cầu của doanh nghiệp so với các địa phương khác trong cả nước thì vẫn còn chưa cao và chưa ổn định. Theo kết quả của PCL – chỉ số năng lực cạnh tranh của Việt Nam năm 2007, Hà Tây đứng thứ 41 trong 64 tỉnh, năng lực cạnh tranh đạt mức trung bình.
- Tiềm năng và lợi thế về phát triển sản xuất kinh doanh và thu hút đầu tư của tỉnh là rất lớn. Tuy nhiên, do môi trường kinh doanh còn có một số mặt chưa hấp dẫn, nhất là công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng còn chậm, nên kết quả thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài mặc dù đã đạt mức tăng trưởng tương đối cao, nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế của địa phương.
- Số dự án đăng ký nhiều nhưng dự án triển khai ít. Phần lớn dự án chiển khai chậm, do nhiều nguyên nhân cả về phía tỉnh và phía nhà đầu tư, chẳng hạn như dự án sân gôn của công ty TNHH DK End tại Chương Mỹ (lý do chính là do chính sách bồi thường giải phóng mặt bằng, nhân dân khiếu kiện); dự án khu chung cư quốc tế Booyoung (lý do chính là cơ sở hạ tầng khu thực hiện dự án không đáp ứng được chỉ tiêu quy hoạch cho dự án)…
- hiệu quả kinh tế do các dự án trên mạng lại chưa cao; tỷ trọng đóng góp nguồn thu ngân sách và thu nhập cho người lao động còn thấp, chưa tương xứng với sự quan tâm, tập trung chỉ đạo và chủ trương thu hút đầu tư của tỉnh.
5. Nguyên nhân của những hạn chế mắc phải.
5.1. Nguyên nhân khách quan:
Hệ thống văn bản của trung ương có liên quan đến đầu tư như luật xây dựng, luật đất đai, luật đầu tư, luật kinh doanh bất động sản… chưa đồng bộ, thống nhất, lại luôn được xem xét để sửa đổi bổ sung. Văn bản hướng dẫn thi hành của chính phủ và một số bộ, ngành Trung ương chưa thường xuyên, kịp thời dẫn đến khó khăn cho địa phương trong việc áp dụng các quy định của pháp luật để thu hút đầu tư.
Là một tỉnh có dân số đứng thư 5 toàn quốc, nhưng diện tích chỉ vào hàng 47 toàn quốc, mật độ dân số vào loại cao, nên đã tạo áp lực quá nặng lên một hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật – xã hội của một tỉnh nông nghiệp đang chuyển đổi; trong khi đó một phần khá lớn diện tích lại thuốc khu vực phân lũ, chậm lũ, bảo vệ an ninh quốc phòng mà về mặt pháp lý bị hạn chế phát triển công nghiệp – xây dựng, du lịch – dịch vụ. Do vậy, quỹ đất có khả năng chuyển đổi thành đất chuyên dùng là khá thấp so với các tỉnh khác. Đây là một trong những khó khăn rất lớn khi thực hiện thu hồi đất nông nghiệp cho các dự án đầu tư.
Là tỉnh có nhiều dự án lớn của Trung ương được triển khai trên địa bàn nên công tác quy hoạch liên tục phải điều chỉnh, bổ sung theo quy hoạch của Trung ương; trong khi đó các quy hoạch cho các dự án này cũng chưa thạt cụ thể, ảnh hưởng không nhỏ đến việc xây dựng và duyệt quy hoạch của địa phương.
Có khá nhiều dự án đầu tư triển khai trên địa bàn tỉnh trong cùng một khoảng thời gian, trong khi đó tỉnh chưa có khả năng hội tụ đầy đủ ngay điều kiện về nhân lực, quy hoạch, xây dựng hạ tầng, cơ chế chính sách nên tạo ra nhiều bất cập, lúng túng.
5.2. Nguyên nhân chủ quan:
5.2.1. Công tác quy hoạc còn yếu.
Các quy hoạch chuyên ngành, đặc biệt là quy hoạch chung xây dựng, quy hoạch tổng thể về phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật… mặc dù đã được hoàn thiện nhiều nhưng vẫn còn trong tình trạng vừa thiếu, vừa yếu, lại không đồng bộ đã làm cho việc thu hút, triển khai các dự án đầu tư của các doanh nghiệp gặp không ít khó khăn
Công tác khảo sát, nghiên cứu lập danh mục quy hoạch các khu, cụm, điểm công nghiệp mặc dù đã được điều chỉnh nhưng vẫn chưa thực sự sát với nhu cầu đầu tư thực tế của doanh nghiệp và phù hợp với các quy định có liên quan khác, cá biệt có những cụm, điểm công nghiệp được quy hoạch vào cả vùng phân lũ, chậm lũ hoăch phải điều chỉnh quy mô, quy hoạch chi tiết làm cho việc tiếp nhận các dự án đầu tư gặp nhiều rào cản pháp lý của Nhà nước. Định hướng của tỉnh thể hiện trong các quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất ở một số nơi khác với ý muốn của nhà đầu tư, do vậy, để tiếp nhận và triển khai được các dự án đầu tư trong hoàn cảnh này luôn mất rất nhiều thời gian vì phải cân nhắc rất nhiều khía cạnh và thực hiện các thủ tục bổ sung quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất theo quy định.
Việc phối hợp giữa một số chủ đầu tư kinh doanh hạ tầng cụm, điểm công nghiệp với địa phương chưa được tốt, do vậy, về cơ bản, vẫn chưa tạo lập sẵn sang được quỹ “mặt bằng sạch và cơ sở hạ tầng” với diện tích đáng kể để đáp ứng một cách nhanh chóng và chủ động nhu cầu của các nhà đầu tư đặc biệt là các nhà đầu tư lớn trong và ngoài nước. Tốc độ và diện tích đất quy hoạch và cấp phép đầu tư trong thời gian qua là khá cao, tuy nhiên, trên thực tế, tốc độ “chuyển hóa” diện tích đất đã được quy hoạch và cấp phép đầu tư thành “đất sạch” để có thể thựch thi dự án còn khá chậm. Hình ảnh, ấn tượng về một số địa phương luôn khó khăn trong tiếp cận mặt bằng mặc dù đã được cải thiện đáng kể, tuy nhiên, vẫn còn chưa phai nhạt hẳn trong suy nghĩ của một số nhà đầu tư.
5.2.2. Khó khăn trong công tác bồi thường giải phóng mặt bằng.
Hiện nay công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng vẫn là một khâu làm “nhức đầu” các nhà lãnh đạo Hà Tây và các nhà đầu tư. Hiện tượng nhân dân khiếu kiện vì cho rằng chính sách bồi thường giải phóng mặt bằng không thỏa đáng là một trong những hiện tượng phổ biến tại Hà Tây, chẳng hạn như cụm công nghiệp Lại Yên, Lô 2, Lô 5 cụm công nghiệp An Khánh, dự án sân gôn của công ty TNHH DK ENC Việt Nam ở Chương Mỹ…Có thể dẫn chiếu một số nguyên nhân chính dẫn đến việc thực hiện công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng ở Hà Tây khó khăn như:
- Quy định của pháp luật hiện hành trong việc xác định giá đất bồi thường, đắc biệt giá đất nông nghiệp chưa hợp lý, dẫn đến giá bồi thường thấp, nhân dân khiếu kiện, dẫn đến thười gian bồi thường kéo dài làm chậm tiến độ thực hiện dự án.
- Công tác công khai, phổ biến, tuyên truyền các chủ trương, chính sách của nhà nước, các chế độ, chính sách hỗ trợ và tái định cư cho nhân dân trong khu vực dự án chưa được thực hiện tốt và triệt để.
- Công tác tái định cư, ổn định chỗ ở cho người dân khi di dời, đào tạo nghề, giải quyết việc làm và tạo điều kiện cho người dân có môi trường sống tốt hơn chưa thực sự được quan tâm giải quyết.
- Chủ đầu tư dự án chậm nộp tiền bồi thường và chi phí sử dụng hạn tầng để xây dựng khu tái định cư.
5.2.3. Thông tin không đối xứng.
- Mặc dù doanh nghiệp đã dễ dàng hơn trong việc tiếp cận nguồn thông tin về môi trường đầu tư, chính sách ưu đãi đầu tư, quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch phát triển ngành và quy hoạch kế hoạch sử dụng đất. Tuy nhiên, tính công khai và minh bạch hiện còn nhiều hạn chế gây khó khăn cho doanh nghiệp và các nhà đầu tư tiềm năng tiếp cận nguồn thông tin này. Bên cạnh đó việc ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại để thực hiện nhiệm vụ cung cấp kịp thời cho các nhà đầu tư và doanh nghiệp các thông tin về chủ trương, chính sách của nhà nước đặc biệt là của tỉnh đối với các vấn đề liên quan đến việc đầu tư – kinh doanh của họ như: giá đất, đơn giá bồi thường giải phóng mặt bằng…còn hạn chế.
- Các giải pháp thực thi trong thời gian qua trong khuôn khổ các nghị quyết, kế hoạch, chương trình của tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh mới chỉ tập trung cải thienj các vấn đề thời sự nóng bỏng với địa phương như: quy hoạch, bồi thường, giải phóng mặt bằng, đất đai, an ninh trật tự cho doanh nghiệp, thủ tục cấp phép đầu tư mà chưa tập trung mạnh trong việc xây dựng, công khai và minh bạch hóa hệ thống cơ sở dữ liệu các thông tin đầu vào lien quan đến đầu tư như: chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư của tỉnh, quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất; chi phí đầu tư: chi phí xây dựng, chi phí đất, cơ sở hạ tầng, điện nước và nhân công; quy trình, thủ tục và biểu mẫu xin cấp giấy chứng nhận đầu tư, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy phép xây dựng, xin ưu đãi đầu tư…và danh mục kêu gọi dự án đầu tư.
- Sở kế hoạch đầu tư, trung tâm xúc tiến đầu tư là cơ quan đầu mối cung cấp thông tin liên quan đến đầu tư cho nhà đầu tư, nhưng lượng thông tin thu thập được từ cơ quan này chưa đủ để nhà đầu tư quyết định đầu tư vào Hà Tây mà thường phải liên hệ tìm hiểu thêm thông tin từ cơ quan ban ngành khác của tỉnh. Và như vậy, nhà đầu tư gặp khó khăn ngay từ khâu ban đầu khi tìm hiểu khả năng đầu tư vào Hà Tây. Theo kết quả khảo sát ý kiến doanh nghiệp chỉ có 30% ý kiến doanh nghiệp cho rằng Hà Tây thực hiện tốt công việc công khai minh bạch các thông tin đầu tư, 40% doanh nghiệp cho rằng gặp khó khăn khi liên hệ với chính quyền địa phương để tìm hiểu thông tin đầu tư.
- Các cơ quan có liên quan trong việc tiếp nhận đơn cấp phép đầu tư chưa chú trọng đến công tác tìm hiểu thông tin về các nhà đầu tư. Tâm lý các nhà đầu tư cũng không muốn minh bạch thông tin của mình. Dẫn đến hiệu quả đầu tư của các dự án đầu tư không cao hoặc không thực hiện được trong quá trình thực hiện
5.2.4. Sự chồng chéo giữa chức năng quản lý của cơ quan quản lý nhà nước và chức năng của cơ quan sự nghiệp trong việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ thu hút đầu tư.
Hiện nay tỉnh Hà Tây có nhiều đầu mối thực hiện công tác thu hút đầu tư, thương mại, du lịch gồm: Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Du lịch, Sở Thương mại, Trung tâm xúc tiến và đầu tư; ban quản lý các khu công nghiệp… Từ đó, dẫn đến tình trạng vừa trùng lặp về nội dung vừa dàn trải về kinh phí, đồng thời lẫn lộn giữa chức năng quản lý nhà nước và tổ chức thực hiện nhiệm vụ thu hút đầu tư. Hiện nay, tỉnh chưa có một cơ chế phối hợp trong hoạt động thu hút đầu tư giữa các cơ quan này.
5.2.5. Thủ tục hành chính xin cấp giấy chứng nhận đầu tư và các thủ tục sau cấp giấy chứng nhận đầu tư.
- Lãnh đạo tỉnh ủy, UBND tỉnh và cơ quan ban hành của tỉnh đã nỗ lực trong việc cải cách thủ tục hành chính và lề lối làm việc của các cán bộ công chức, đặc biệt việc thực hiện quy chế “một cửa liên thông”, giảm thủ tục phiền hà, rút ngắn thời gian xuống còn một nửa so với quy trình cũ. Tuy nhiên nhà đầu tư vẫn gặp một số khó khăn sau:
+ Sự không thống nhất giữa hướng dẫn về quy trình, thủ tục, soạn thảo hồ sơ pháp lý cấp xin cấp giấy chứng nhận đầu tư của trung tâm Xúc tiến Đầu tư và phòng Đầu tư – sở kế hoạch và đầu tư dẫn đến tình trạng nhà đầu tư thực hiện theo đúng như hướng dẫn của trung tâm nhưng vẫn phải chỉnh sửa, bổ sung theo yêu cầu của chuyên viên phòng đầu tư là người trực tiếp thụ lý dự án đầu tư;
+ Việc chỉnh sửa bổ sung tài liệu dẫn đến thời gian cấp giấy chứng nhận đầu tư bị chậm trễ do nhiều nguyên nhân khác nhau: i) Giấy tờ nhà đầu tư soạn thảo không đầy đủ, khônng theo đúng mẫu Sở kế hoạch và Đầu tư quy định; ii) Soạn thảo theo mẫu được cung cấp nhưng khai chưa đúng, câu chữ dùng chưa chuẩn; iii) Soạn thảo, chỉnh sửa lại theo hướng dẫn của cán bộ trực tiếp thụ lý nhưng vẫn chỉnh sửa lại theo ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo.
+ Năng lực chuyên môn của một số cán bộ hướng dẫn, trực tiếp thụ lý dự án chưa tốt, gây phiền hà cho nhà đầu tư cần được bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ.
- Việc thực hiện một số thủ tục hành chính sau cấp giấy chứng nhận đầu tư như thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy phép xây dựng, giấy phép lao động và thủ tục xin chứng nhận ưu đãi đầu tư còn phức tạp, gây phiền hà cho doanh nghiệp
5.2.6. Chưa lựa chọn được các nhà đầu tư có kinh nghiệp và có tiềm lực về tài chính.
Hiện nay việc chưa áp dụng hình thức đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án để lựa chọn chủ đầu tư có tiềm lực tài chính và kinh nghiệm theo quy định của luật đất đai 2003 cũng là một trong những hạn chế dẫn đến một số dự án đã được cấp giấy chứng nhận đầu tư nhưng lại không được triển khai do nhà đầu tư không có năng lực tài chính thực sự.
6. Kết luận và bài học kinh nghiệm từ một số nước.
Nhìn vào lịch sử phát triển của các nước trên thế giới, ta thấy hầu như các nước khi bước vào công nghiệp hoá - hiện đại hoa đất nước đều phải trải qua một giai đoạn chuẩn bị nhằm tạo tiền đề và cơ sở cho các bước tiếp theo. Trong giai đoạn này phải chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cần thiết, đặc biệt là vốn cho quá trình đó. Tuy nhiên, tuỳ vào điều kiện và lợi thế của mình mà mổi nước có những cách thức tạo vốn khác nhau, nhưng nhìn chung có thể phân thành hai cách thức tạo dựng vốn cơ bản sau.
Thứ nhất, các nước tìm cách tạo dựng vốn theo con đường hướng nội tức nguồn vốn được tạo dựng dựa vào tích luỹ nội bộ, đề ra các cách thức các biện pháp nhằm thu hút và huy động nguồn vốn từ dân chúng.
Thứ hại, các nước tìm cách tạo dựng vốn theo con đường hướng ngoại. Bằng cách đưa ra các giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư của nước ngoài.
6.1. Tạo dựng vốn theo con đường hướng nội – kinh nghiệm của Nhật Bản.
Nhằm huy động nguồn vốn trong nước cho phát triển cơ sở hạ tầng, Chính phủ Nhật Bản đã thực hiện đa dạng hoá nguồn tài chính từ trung ương đến địa phương và thông qua các tổng công ty phát triển công trình công cộng, gọi tắt là “tổng công ty”. Thực hiện việc giảm nhẹ gánh nặng đối với thuế chung, chính phủ đưa ra một số biện pháp như là (a) phát hành công trái ở cả trung ương và địa phương; (b) lập nên các tổng công ty để thu phí người sử dụng và phát hành các trái phiếu liên kết; và (c) xây dựng một số tài khoản riêng cho các dự án trọng tâm được đầu tư bằng nguồn thu phí từ người sử dụng và thông qua các loại thuế riêng. Đối với các dự án rất lớn, Chính phủ đã có những chính sách tạo điệu kiện và khuyến khích để thành phần tư nhân tham gia. Ngoài ra, Nhật Bản còn áp dụng hình thức thu mua những khoảnh đất lân cận các dự án lớn để quy hoạch rồi bán lại cho người sử dụng với mức giá chênh lệch thích hợp nhằm tăng thêm nguồn thu cho đầu tư cơ sở hạ tầng. Việc đa dạng hoá nguồn tài chính như thế này đã giúp cho Chính phủ Nhật Bản đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển cơ sở hạ tầng nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở mức độ cao trong suốt các thập niên từ 50 đến 80.
6.2. Tạo dựng vốn theo con đường hướng ngoại.
a. các nước ASEAN.
Để thúc đẩy nhanh chóng quá trình công nghiệp hoá, sử dụng FDI của các nước ASEAN không chỉ nhằm giải quyết các khó khăn về nguồn vốn, kỉ thuật mà còn nhằm vào mục tiêu nâng dần vai trò quản lí và cải thiện vị trí của các thành phần kinh tế trong nước, đặc biệt giai cấp tư bản tư nhân nội địa. Tính chất này được thể hiện rõ ràng trong các đạo luật thu hút đầu tư nước ngoài, các chính sáh phân bố và sử dụng các luồng FDI của các nước ASEAN. Tỷ lệ liên doanh ở các nước ASEAN chiếm khoảng 80%tổng số vốn FDI. Khi các nước ASEAN bước vào thập kỷ 90, do những thay đổi về mặt cầu thị trường quốc tế đòi hỏi các sản phẩm có giá trị gia tăng cao và hàmlượng kỷ thuật cao đã dẩn đến những thay đổi về tỷ lệphân bố FDI trong các ngành kinh tế ở các nước này Mặc dù tỷ lệ FDI trong các ngành công nghiệp chế biến vẩn lớn hơn công nghiệp chế tạo. Nhưng bên cạnh các ngành đó đã xuất hiện nhiều dự án đầu tư trong các ngành sản xuất sản phẩm trung gian. Mặt khác cùng với nhữg thay đổi về kết cấu đầu tư, các hình thức đàu tư của các nước ASEAN cũng có những biến đổi. Hiện nay, bên cạnh các hình thức liên doanh còn xuất hiện các hình thức công ty cổ phần, các xí nghiệp 100% vốn của tư bản nội địa, thậm chí các hình thức liên doanh giữa các nước ASEAN với các đối tác khác ngoài ASEAN hoặc là các hình thức tiếp nhận FDI và tái đầu tư từ ASEAN sang các nền kinh tế chậm phát triển hơn.
b. Trung Quốc.
Trung Quốc được coi là một trong những nước có tốc độ phát triển mạnh nhất khu vực châu Á cũng như toàn thế giới. Từ năm 1979 đến hết năm 1996, Trung Quốc đã phê chuẩn 283793 dự án dùng vốn nước ngoài với tổng số vốn kí kết đạt 469,33 tỷ USD. Trong đó có 177,22tỷ USD đã được đưa vào sử dụng. Tỷ lệ vốn đã được đưa vào sử dụng là 37,76%. Vào thời điểm cuối năm 1996, ở Trung Quốc đã có khoảng 140000 xí nghiệp dùng vốn nườc ngoài đang hoạt động. Khoảng 200 trong số 500 tập đoàn kinh doanh lớn nhất thế giới đã đầu tư vào Trung Quốc. Từ năm 1993 đến nay, Trung Quốc chỉ đứng thứ hai sau Hoa Kỳ xét về khối lượng thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Để đạt được kết quả đó là nhờ vào các chính sách, cơ cấu đầu tư hợp lý của nhà nước, cụ thể là:
b.1. Các chính sách biện pháp hủ yếu.
Một là. Mở rộng địa bàn thu hút vốn và tạo môi trường kinh doanh thuận lợi.
Đối với các khu vực ven biển có nhiều thuận lợi hơn về giao thông, cơ sở hạ tầng ... được chọn mở cữa trước. Ở các nơi như tỉnh Quang Đông, Phúc Kiến gần với Hồng Công, Đại Loan là quê hương của những hoa kiều giàu có được chọn là nơi để thành lập các đặc khu kinh tế. Đồng thời với q
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phương hướng và giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư vào tỉnh Hà Tây.docx