Đề án Phương hướng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may trong điều kiện Việt Nam đã là thành viên chính thức của WTO

MỤC LỤC

Phần Mở Đầu 2

Chương I. Tổng Quan Về Những Cam Kết Của Việt Nam Trong Lĩnh Vực Dệt May Khi Gia Nhập WTO. 5

1. Mức và lộ trình giảm thuế 5

2. Về trợ cấp: Việt Nam cam kết cắt giảm các hình thức trợ cấp vi phạm quy định của WTO 7

3. Về tham gia các Hiệp dịnh tự do hóa theo ngành 7

4. Các mặt hàng sẽ được cắt giảm thuế ngay từ đầu năm 2007 9

5. Về vấn đề hạn ngạch 11

6. Theo cam kết với Mỹ, Việt Nam phải bãi bỏ quyết định về tăng tốc dệt may 11

Chương II. Thực Trạng Hoạt Động Xuất Nhập Khẩu Hàng Dệt May Của Việt Nam 13

1. Thực trạng xuất nhập khẩu hàng dệt may trước khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO 13

2. Thực trạng xuất nhập khẩu hàng dệt may sau khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO 18

3. Những tác động đến lĩnh vực dệt may 24

3.1. Những cơ hội của ngành dệt may Việt Nam khi gia nhập WTO 24

3.2. Thách thức đối với ngành dệt may Việt Nam khi gia nhập WTO 28

Chương III. Phương Hướng Và Giải Pháp Thúc Đẩy Xuất Khẩu Hàng Dệt May Trong Điều Kiện Đã Là Thành Viên Chính Thức Của WTO 34

1. Định hướng xuất khẩu hàng dệt may đến năm 2010 34

1.1. Tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu sang các thị trường trọng điểm là Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản 34

1.2. Phát triển công nghiệp thời trang 37

2. Giải pháp cho ngành dệt may Việt Nam 38

2.1. Nhóm giải pháp về phía Nhà nước 38

2.2. Nhóm giải pháp về phía các doanh nghiệp dệt may 40

TÀI LIỆU THAM KHẢO 44

 

 

doc44 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1818 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Phương hướng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may trong điều kiện Việt Nam đã là thành viên chính thức của WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Loan còn sản xuất sơ sợi tổng hợp và xuất khẩu sang Trung Quốc nhưng ngày nay Trung Quốc đã sản xuất sơ sợi tổng hợp lớn nhất thế giới, thành ra Đài Loan phải nghĩ ra một dòng sản phẩm mới có tính năng khác biệt cao để cạnh tranh. Với sản phẩm này họ bán ít hơn nhưng giá cao và ngành dệt của Đài Loan vẫn phát triển. Qua bài học Đài Loan chúng ta hy vọng sẽ có khoảng 50% doanh nghiệp Việt Nam sẽ đi theo con đường này. Tuy nhiên, lộ trình này hiện chúng ta đang thực hiện rất chậm, dòng sản phẩm cao cấp hiện còn rất ít doanh nghiệp làm, đây là điểm yếu mà dệt may Việt Nam phải khắc phục trong thời gian tới. Hiện nay, ngành may Việt Nam vẫn chủ yếu thực hiện phương thức gia công cho các hãng nước ngoài. Theo phương thức này, các hãng nước ngoài đặt gia công sẽ cung cấp mẫu mã sản phẩm và các nguyên phụ liệu chủ yếu, các doanh nghiệp Việt Nam sử dụng lao động và cơ sở vật chất của mình, tổ chức quá trình sản xuất theo yêu cầu của bên đặt hàng và nhận tiền gia công theo đơn giá và sản phẩm đã nghiệm thu. Phương thức này thích hợp với điều kiện năng lực kỹ thuật, vốn và tiếp cận thị trường nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều hạn chế. Tuy độ rủi ro trong sản xuất kinh doanh thấp, nhưng hiệu quả kinh tế mà các doanh nghiệp thu được cũng thấp kém, vì các doanh nghiệp chủ yếu xuất khẩu “sức lao động”. Để hiểu sâu hơn về ngành dệt may, chúng ta có thể tham khảo kim ngạch xuất nhập khẩu hàng dệt may một số năm trước đây. Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng dệt may ( triệu USD ) Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Xuất khẩu 1881.9 1975.9 2732.0 3609.1 4385.6 4850.0 5917.0 Thiết bị, phụ tùng --- 242.6 325.1 402.3 --- --- --- Bông 90.4 15.4 111.6 105.4 190.2 --- --- Xơ dệt 89.1 1119.1 119.0 158.7 --- --- --- Sợi dệt 273.3 228.4 272.6 317.5 338.8 --- --- Vải các loại 761.3 880.2 1523.1 1805.4 1926.7 --- --- Phụ liệu may 971.4 1036.2 1069.2 1264.9 2252.7* --- --- * Tính cả phụ liệu cho giày dép (Nguồn: Niên giám thống kê.) 2. Thực trạng xuất nhập khẩu hàng dệt may sau khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO. Việc Việt Nam gia nhập WTO vào cuối năm 2006 đã đánh dấu một bước ngoặt, ngành Dệt may Việt Nam có cơ hội bình đẳng với các nước trên thế giới trong việc xuất khẩu hàng dệt may, đồng thời chế độ hạn ngạch áp dụng với hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ và Thổ Nhĩ Kỳ được bãi bỏ. Ngay sau năm đầu gia nhập WTO, chúng ta đã thực hiện nhiều cam kết mở rộng thị trường, giảm thuế... nhưng nền kinh tế Việt Nam vẫn đứng vững và phát triển, GDP tăng 8,5%, xuất khẩu tăng 20,5%. Trong đó ngành dệt may đã có đóng góp xứng đáng, xuất khẩu tăng trên 33%, đưa Việt Nam vào danh sách 10 nước xuất khẩu dệt may hàng đầu thế giới, thị trường trong nước vẫn được giữ vững và phát triển. Bên cạnh đó là nỗi lo vì giá cả vật tư, tiêu dùng biến động mạnh, sẽ ảnh hưởng lớn đến sản xuất kinh doanh của các đơn vị, đến đời sống của người lao động. Và điều lo lắng nhất là cơ chế giám sát nhập khẩu và nguy cơ điều tra chống bán phá giá tại thị trường Hoa Kỳ vẫn còn hiện hữu với 2 lần công bố kết quả giám sát vào tháng 3 và tháng 9/2008 trong bối cảnh của năm bầu cử Tổng thống Mỹ có nhiều diễn biến phức tạp, không thể lường trước được. Do vậy, vừa phải đẩy mạnh sản xuất, xuất khẩu nhằm thực hiện mục tiêu 9,5 tỷ USD năm 2008 nhưng cũng vừa phải hết sức thận trọng với các diễn biến xảy ra trên thị trường Hoa kỳ. Tính đến hết tháng 11/2007, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đạt 7 tỷ USD, tăng 32% so với cùng kỳ năm 2006, chiếm 16% tổng kim ngạch xuất khẩu. Dự kiến, xuất khẩu dệt may năm 2007 đạt khoảng 7,8 tỷ USD, tăng 31% so với năm 2006. Như vậy, đến cuối năm 2007 mặt hàng dệt may sẽ vượt dầu thô, lần đầu tiên trở thành mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất. Trong đó, thị trường Hoa Kỳ chiếm vị trí chủ đạo, đạt 4,4 - 4,5 tỷ USD, chiếm 56% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may, tăng 32%. Tiếp theo là EU, đạt khoảng 1,45 - 1,5 tỷ USD, chiếm 19%, tăng khoảng 20,6% so với năm ngoái. Thị trường Nhật Bản đạt khoảng 700 triệu USD, chiếm 9%, tăng khoảng 12% so với năm ngoái. Thị trường Hoa Kỳ hiện chiếm khoảng 56% kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam, trong tháng 8/2007, xuất khẩu sang Mỹ đạt 466 triệu USD, tăng 4,87% so với tháng 7/2007 và tăng tới 36% so với cùng kỳ năm ngoái. Đây cũng là thời điểm xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Mỹ bứt phá mạnh trong năm ngoái và tiếp tục duy trì mức tăng trưởng cao trong những tháng cuối năm 2006 và 8 tháng của năm 2007. Dự đoán, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của VN vào Mỹ sẽ đạt 4,3 tỉ USD, tăng gần 26,5% so với năm 2006, có mức tăng trưởng cao nhất từ trước đến nay và sẽ tiếp tục duy trì ở mức cao trong các tháng cuối năm 2007. Thị trường Hoa Kỳ vẫn là thị trường chủ lực đóng góp nhiều nhất vào mức tăng trưởng xuất khẩu đầy ấn tượng của ngành dệt may, mặc dù trong hoàn cảnh việc xuất khẩu sang thị trường này gặp khó khăn do chính sách bảo hộ không rõ ràng của Hoa Kỳ. Hiện nay, xuất khẩu dệt may của Việt Nam vào Hoa Kỳ mới chiếm khoảng 3,26% tổng hàng nhập khẩu của Hoa Kỳ và đứng thứ tư sau Trung Quốc, Ấn Độ và Indonesia. Hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ bị nước này đối xử thiếu công bằng so với các nước khác là thành viên WTO như áp dụng cơ chế hạn ngạch đến đầu năm 2007 và sau đó thay thế bằng Chương trình giám sát hàng nhập khẩu từ Việt Nam. Mặc dù cơ chế này mới dừng ở việc theo dõi số liệu nhưng nó đã làm ảnh hưởng đáng kể tới tốc độ tăng trưởng xuất khẩu vào thị trường này, làm cản trở các kế hoạch đầu tư nâng cao năng lực của các doanh nghiệp dệt may trong nước và nước ngoài, ngăn cản các khách hàng vào Việt Nam đặt hàng...  Thị trường EU, trong 9 tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU tăng 6%, đạt hơn 608 triệu USD. Đức là nước nhập khẩu nhiều mặt hàng dệt may nhất của Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Đức chiếm tới 27% tổng kim ngạch xuất khẩu. Tiếp đến là Vương quốc Anh, tăng 54% so với cùng kỳ, đạt 105 triệu USD, chiếm 17% tổng kim ngạch xuất khẩu. Nhìn chung, kim ngạch xuất khẩu dệt may sang các nước thành viên trong khối EU tăng trưởng khá. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu sang các nước như Đức, Pháp, Tây Ban Nha, Italia… giảm và kim ngạch xuất khẩu tăng sang các nước như Anh, Bỉ, Cộng hòa Séc, Ba lan… Mức độ sụt giảm ở từng nước là khá thấp, riêng chỉ có xuất sang Italia là giảm mạnh nhất, giảm tới 42% đạt 25 triệu USD. Áo Jackét là mặt hàng dệt may xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang EU, tính chung 9 tháng đầu năm đạt 134,6 triệu USD, chiếm 28% tổng kim ngạch xuất khẩu. Đây là điểm khá thuận lợi cho hàng dệt may Việt Nam trong thời gian tới. Thị trường Nhật Bản, Nhật Bản là thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn thứ 3 các sản phẩm của Việt Nam ( sau Mỹ và EU ), đồng thời Việt Nam cũng đứng thứ 3 ( sau Trung Quốc và EU ) trong các nước xuất khẩu hàng dệt may vào Nhật. Trong những năm gần đây, tuy không tạo được sự tăng đột biến, nhưng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Nhật vẫn duy trì được mức tăng trưởng hàng năm. Tuy nhiên, Bộ Công Thương nhận định, hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam sẽ gặp khó khăn về cạnh tranh trong thời gian tới. Số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan cho thấy, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản tăng dần trong những năm qua. Cụ thể, năm 2004 đạt 531 triệu USD, năm 2005 đạt 604 triệu USD, năm 2006 đạt 628 triệu USD, 10 tháng đầu năm 2007 đạt 587 triệu USD, tăng 12% so cùng kỳ năm 2006, riêng tháng 10/2007 đạt 64,8 triệu USD, tăng 4% so tháng trước và 9% so cùng kỳ năm ngoái. Các chuyên gia cho rằng, xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Nhật Bản tăng khá trong 10 tháng đầu năm 2007 là do xuất khẩu mặt hàng quần dài tăng đáng kể, đạt 12 triệu chiếc, trị giá 107 triệu USD, tăng 18,9% về lượng và 15,5% về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái, chiếm 19% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Nhật Bản. Ngoài ra xuất khẩu áo jackét, áo khoác, bộ quần áo vest, áo thun và đặc biệt là mặt hàng quần jean sang Nhật Bản tăng rất mạnh. Xuất khẩu áo kimono sang Nhật Bản trong 10 tháng đầu năm 2007 diễn ra khá chậm, đạt 346 ngàn bộ, trị giá 77,8 triệu USD, tăng 9% về lượng, tương đương về trị giá so cùng kỳ năm ngoái. Giá xuất khẩu trung bình mặt hàng quần sang Nhật Bản trong tháng 10/2007 đạt cao nhất từ đầu năm đến nay, với 9,25 USD/chiếc FOB, tăng 3% so với tháng trước và tăng 8% so với cùng kỳ năm ngoái. Giá xuất áo kimono của Việt Nam sang Nhật trong các tháng đầu năm đạt thấp, sau đó nhích tăng vào quý II và quý III. Giá xuất khẩu trung bình trong tháng 10/2007 đạt 236 USD/bộ FOB, tăng 2% so với tháng trước và tăng 7% so với tháng 8/2007. Theo Hiệp hội Dệt may Việt Nam, Nhật Bản hiện là một trong những thị trường nhập khẩu hàng dệt may rất lớn. Trong đó, dệt may Trung Quốc đang đứng đầu về thị phần tại đây với 73,6%, tiếp đến là EU 8,1%, ASEAN 7,5% (Việt Nam chiếm lớn nhất với 34,4% trong khối), Mỹ 2,5% và Đài Loan 1,3%. Mặc dù là một thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn, nhưng Nhật Bản cũng là nơi đòi hỏi cao về chất lượng sản phẩm cũng như quy tắc xuất xứ hàng hóa. Bởi vậy, việc cân nhắc kỹ lưỡng để thúc đẩy quan hệ thương mại, đảm bảo lợi ích cho ngành hàng này, nhất là về quy tắc xuất xứ hàng dệt may trong đàm phán Hiệp định đối tác kinh tế (EPA) Việt Nam - Nhật Bản đang được các doanh nghiệp dệt may quan tâm. Thị Trường Xuất Khẩu Hàng Dệt May Của Việt Nam Thành công của dệt may Việt Nam trong năm 2007 vừa qua không chỉ dừng lại ở việc gia tăng kim ngạch xuất khẩu vào ba thị trường chính là Mỹ, EU và Nhật Bản, mà còn mở rộng xuất khẩu sang nhiều thị trường khác như Canada, Mexico, Hàn Quốc, Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Thổ Nhĩ Kỳ… đặc biệt phải kể đến là Thổ Nhĩ Kỳ. Từ đầu năm 2007, chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ chính thức dỡ bỏ hạn ngạch đối với hàng dệt may nhập khẩu từ Việt Nam. Nhờ vậy, xuất khẩu hàng dệt may của nước ta sang thị trường Thổ Nhĩ Kỳ từ đầu năm 2007 đến nay liên tục đạt mức tăng trưởng rất cao. Theo số liệu thống kê, tháng 10/2007, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Thổ Nhĩ Kỳ tăng 811,54%, đạt 2,37 triệu USD, đưa kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Thổ Nhĩ Kỳ trong 10 tháng năm 2007 đạt 31,73 triệu USD, tăng 584,94% so với cùng kỳ năm 2006. Điều này khẳng định hàng dệt may của Việt Nam có sức cạnh tranh rất lớn trên thị trường Thổ Nhĩ Kỳ. Hiện nay, Thổ Nhĩ Kỳ trở thành 1 trong 10 thị trường xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất của nước ta, sau Mỹ, EU, Nhật Bản, Đài Loan, Canada, Hàn Quốc, Nga, Mêhicô và Trung Quốc. Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Thổ Nhĩ Kỳ mới chỉ chiếm 0,5% kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của nước ta. Như vậy cái được lớn nhất của dệt may Việt Nam khi vào WTO là được đối xử bình đẳng như các thành viên khác của tổ chức này. Từ chỗ chỉ được xuất khẩu theo hạn ngạch khi xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ, bây giờ các doanh nghiệp dệt may có thể xuất khẩu theo năng lực thị trường mà không lo về hạn ngạch. Thuế nhập khẩu dệt may của Việt Nam vào các nước thành viên WTO sẽ theo khung NTR. Doanh nghiệp Việt Nam sẽ có điều kiện thâm nhập mạnh hơn vào thị trường nước ngoài, tăng thêm kim ngạch xuất khẩu. Trở thành thành viên WTO, Việt Nam có cơ hội thu hút dòng đầu tư trực tiếp và gián tiếp từ nước ngoài, đặc biệt là vào ngành dệt may và các lĩnh vực hạ tầng phục vụ cho sản xuất tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế cũng như ngành dệt may phát triển hơn nữa. Việt Nam cũng sẽ có thêm cơ hội để tiếp cận trình độ quản lý và công nghệ kỹ thuật mới. Bên cạnh đó thì ngành dệt may Việt Nam cũng phải đối mặt với nhiều thách thức lớn trong cạnh tranh. Đó là hàng rào bảo hộ hàng sản xuất trong nước đã giảm đến mức tối đa. Thuế nhập khẩu hàng dệt may giảm ngay tức thì từ 11/01/2007 (thuế nhập khẩu hàng may mặc giảm từ 50% xuống còn 20%, vải từ 40% xuống còn 12%). Vì vậy, các nhà sản xuất dệt may trong nước sẽ phải cạnh tranh khôc liệt với các sản phẩm của một số nước cạnh tranh lớn như Trung Quốc, Ấn Độ… Ngoài ra, ngành dệt may còn phải đối mặt với hiện tượng biến động lao động. Các doanh nghiệp sẽ phải cạnh tranh trong việc thu hút nguồn nhân lực. Theo dự kiến của Bộ Công Thương, năm 2008, ngành dệt may sẽ xuất khẩu đạt khoảng 9,5 tỷ USD, tăng 21,8% so với ước thực hiện, trong đó dự kiến các thị trường chính như: Hoa Kỳ ước đạt 5,3 - 5,5 tỷ USD, thị trường EU đạt khoảng 1,6 - 1,8 tỷ USD và thị trường Nhật đạt khoảng 800 triệu USD.  3. Những tác động đến lĩnh vực dệt may. 3.1. Những cơ hội của ngành dệt may Việt Nam khi gia nhập WTO. Thứ nhất, Ngành dệt may Việt Nam được hưởng lợi từ việc bài bỏ hạn ngạch và giảm thuể nhập khẩu vào một số thị trường, từ đó có cơ hội mở rộng thị trường. Khi Việt nam gia nhập WTO, các nước thành viên WTO sẽ phải bãi bỏ hạn ngạch đối với hàng dệt may Việt Nam. Khi đó các doanh nghiệp dệt may có thể xuất khẩu theo khả năng của mình mà không còn lo ngại về hạn ngạch ở bất kỳ thị trường nào. Bên cạnh đó các doanh nghiệp dệt may cũng có cơ hội thâm nhập mạnh hơn vào thị trường nước ngoài, tăng thêm kim ngạch xuất khẩu. Ngoài các thị trường xuất khẩu chính là Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản, các doanh nghiệp còn có cơ hội thâm nhập vào một số thị trường khác như: Canada, Mexico, Hàn Quốc, Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Thổ Nhĩ Kỳ… Cụ thể là xuất khẩu sang Đài Loan tăng 13%, sang Canada, Mexico, Hàn Quốc, Trung Quốc, Hồng Kông… đều có mức tăng trưởng từ 20% - 50%. Riêng xuất khẩu sang Thổ Nhĩ Kỳ tăng gấp 5 lần năm ngoái. Thứ hai, Môi trường kinh doanh ngày càng được cải thiện tạo điều kiện thuận lợi thu hút đầu tư nước ngoài. Khi vào WTO, Việt Nam cam kết thực hiện áp dụng và giám sát hệ thống luật của mình theo những nguyên tắc quốc tế: minh bạch, hợp lý, công bằng và đồng bộ. Bên cạnh đó chúng ta cũng tích cực cải thiện môi trường đầu tư. Hiện nay, hiệp hội Dệt may Việt Nam đã và đang xây dựng một số chương trình trọng điểm cho ngành dệt may đến năm 2010. Cụ thể: - Tập trung đầu tư sản xuất xơ sợi tổng hợp để đủ sức cung ứng cho nhu cầu dệt; - Phát triển bông xơ sợi nội địa; - Đầu tư phát triển 1 tỷ mét vải phục vụ may mặc xuất khẩu vào năm 2015; - Chương trình nâng cao chất lượng ngành dệt, nhộm; xây dựng 3 khu công nghiệp dệt nhuộm có hạ tầng cấp nước sạch và xử lý nước thải để thu hút đầu tư. Thời gian vừa qua cũng đã có nhiều doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào ngành dệt may của Việt Nam, tuy nhiên chủ yếu là đầu tư vào các ngành công nghiệp phụ trợ, giúp cho Việt Nam chủ động hơn trong sản xuất sản phẩm, giảm bớt sự phụ thuộc vào nước ngoài cũng như đầu tư công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm. Thứ ba, giảm chi phí xuất khẩu gắn với việc phân bổ hạn ngạch, từ đó làm tăng khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu. Chi phí phân bổ hạn ngạch chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng chi phí xuất khẩu của Việt Nam. Chi phí do hạn ngạch sinh ra đối với mặt hàng dệt xuất khẩu sang US/Canada chiếm 6.9% tổng chi phí, đối với mặt hàng may mặc vào hai thị trường này là 7.1% và chi phí do hạn ngạch sinh ra khi xuất khẩu sang EU đã là 7.5% đối với mặt hàng dệt và 7.2% đối với mặt hàng may mặc. Khi gia nhập WTO, với việc các thành viên WTO phải bỏ hạn ngạch đối với Việt Nam, hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam sẽ có điều kiện giảm giá xuất khẩu do không phải mất chi phí do việc cấp hạn ngạch gây ra. Tỷ trọng chi phí do hạn ngạch gây ra trong tổng chi phí XK:  USA/Canada (%) EU (%) Dệt May mặc Dệt May mặc Bangladesh 15.3 8.1 8.4 7.3 Trung Quốc 20.0 33.0 12.0 15.0 Hồng Kông 1.0 10.0 1.0 5.0 Hungary 6.9 5.0 0 0 Ấn Độ 9.8 34.2 12.0 15.2 Indonesia 8.1 7.8 6.3 6.0 Philippin 6.5 7.8 5.7 6.0 Balan 6.9 5.0 0 0 Sri Lanka 15.3 8.3 5.5 6.6 Thái Lan 8.3 13.2 6.4 7.8 Thổ Nhĩ Kỳ 7.0 4.9 1.5 0 Việt Nam 6.9 7.1 7.5 7.2 Các nước trung Âu khác 6.9 5.0 0 0 (Nguồn: Hildegunn Kyvik Nordas (2004), The Global Textile and Clothing Industry post the Agreement on Textiles and Clothing, WTO – Cẩm nang hội nhập). Thứ tư, Gia nhập WTO, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam được bảo vệ bởi các công cụ giải quyết tranh chấp của WTO. Khi đã là thành viên chính thức của WTO, Việt Nam sẽ được hưởng nguyên tắc đối xử tối huệ quốc MFN và nguyên tắc đối xử quốc gia NT. Quy chế tối huệ quốc có nghĩa là tất cả hàng hóa, dịch vụ và công ty của các thành viên WTO đều được hưởng một chính sách chung bình đẳng. Quy chế đối xử quốc gia có nghĩa là không có sự phân biệt đối xử giữa hàng hóa, dịch vụ và các công ty của mình với hàng hóa, dịch vụ và các công ty của nước ngoài trên thị trường nội địa. Hai nguyên tắc này cho phép đảm bảo sự đối xử bình đẳng giữa các thành viên với nhau trên cả thị trường trong nước và trên thế giới. Ngoài ra, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cũng được hưởng cơ chế giải quyết tranh chấp công bằng và hiệu quả của WTO, tránh tinh trạng bị chèn ép, áp đặt đơn phương như trước đây.Khi đó các doanh nghiệp dệt may Việt Nam có cơ hội cạnh tranh bình đẳng như bất kỳ quốc gia thành viên nào khác của WTO. Thứ năm, Gia nhập WTO đảm bảo tiến trình cải cách hoàn thiện hơn, có hiệu quả hơn, từ đó đẩy nhanh quá trình làm thủ tục xuất khẩu hàng dệt may ra nước ngoài cũng như nhập khẩu nguyên liệu vào trong nước. Cơ chế hạn ngạch làm nảy sinh những vấn đề xã hội như nạn tham nhũng, tiêu cực và sách nhiễu doanh nghiệp. Trong nhiều trường hợp, các doanh nghiệp có năng lực sản xuất và chất lượng hàng hóa tốt lại không có cơ hội xuất khẩu do không có hạn ngạch. Việc xóa bỏ hạn ngạch của các nước đối với Việt Nam khi Việt Nam gia nhập WTO sẽ góp phần giải quyết dứt điểm tình trạng này, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp cạnh tranh bình đẳng trong việc xuất khẩu hàng dệt may và góp phần nâng cao uy tín về chất lượng hàng dệt may trên thị trường thế giới. Mặt khác, nước ta đã áp dụng biện pháp cải cách hành chính theo cơ chế một cửa, giúp các doanh nghiệp làm thủ tục hải quan và thông quan hải quan nhanh chóng. Ngoài ra thì việc ứng dụng các phần mềm công nghệ thông tin cũn giúp cho các doanh nghiệp nâng cao khả năng quản lý, năng suất lao động và làm việc có hiệu quả hơn. 3.2. Thách thức đối với ngành dệt may Việt Nam khi gia nhập WTO. Thứ nhất, các chính sách hỗ trợ của Chính phủ dành cho ngành sẽ không còn và hàng rào thuế quan bảo hộ doanh nghiệp ở thị trường nội địa cũng mất gần hết. Ngành dệt may trước khi Việt Nam gia nhập WTO được hưởng các hình thức trợ cấp: ưu đãi về tín dụng, ưu đãi về đầu tư; bảo lãnh tín dụng đầu tư và hỗ trợ kinh phí cho hoạt động xúc tiến thương mại. Khoản ưu đãi lớn nhất mà ngành dệt may nhận là được vay vốn từ Quỹ Tín dụng ưu đãi của Chính phủ để thực hiện các dự án đầu tư. Bên cạnh đó, ngành còn được hỗ trợ chi phí xúc tiến thương mại lấy từ khoản lệ phí hạn ngạch do doanh nghiệp nộp, thưởng xuất khẩu cho một số doanh nghiệp có thành tích tốt. Tuy nhiên sau khi gia nhập, Việt Nam cam kết bãi bỏ ngay từ thời điểm gia nhập các hình thức trợ cấp dưới dạng cấp phát tiền trực tiếp cho doanh nghiệp theo doanh số xuất khẩu khi tham gia các chương trình xúc tiến thương mại. Như vậy, tác động đối với ngành dệt may đến từ việc Việt Nam sẽ phải cắt giảm 3 hình thức ưu đãi còn lại: ưu đãi về tín dụng, ưu đãi về đầu tư; bảo lãnh tín dụng đầu tư. Như vậy, ngành dệt may sẽ nhận được ít hỗ trợ hơn từ phía Chính phủ, do đó sẽ bị ảnh hưởng sau khi Việt Nam gia nhập. Trước đây, số tiền hỗ trợ thực tế mà một số doanh nghiệp nhận được cũng không lớn. Trong bốn năm qua toàn ngành chỉ vay được khoảng 110 triệu Đôla Mỹ tín dụng ưu đãi và tổng số tiền Chính phủ chi để bù lãi suất cho khoản vay này chỉ khoảng 4 triệu Đôla Mỹ mỗi năm. Nếu tính thêm gần 1 triệu đô la Mỹ để thưởng xuất khẩu và hỗ trợ chi phí xúc tiến thương mại, thì mỗi năm ngành được trợ cấp chưa đầy 5 triệu đô la Mỹ. Một số doanh nghiệp nhà nước có được cấp bổ sung vốn lưu động, bình quân gần 1 triệu đô la Mỹ/năm, chỉ đáp ứng 3,8% nhu cầu. Nhưng trên thực tế, số tiền các doanh nghiệp ngành dệt, may phải nộp cho Nhà nước thông qua các khoản phí và lệ phí còn cao hơn nhiều lần so với những gì họ được nhận. Riêng phí sử dụng hạn ngạch xuất khẩu đi Mỹ, mỗi năm Nhà nước thu của họ tới 10 triệu đô la Mỹ (từ năm 2006 khoản lệ phí này đã được bỏ). Ngoài ra, doanh nghiệp trong nước còn phải nộp thay cho công nhân lệ phí công đoàn bằng 2% tổng quỹ lương (doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không phải đóng lệ phí này). Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) đang sử dụng khoảng 100.000 lao động và tiền lệ phí công đoàn phải đóng hàng năm gần 36 tỉ đồng, đây không phải là một khoản tiền nhỏ. Như vậy, việc bãi bỏ hoặc cắt giảm các hình thức trợ cấp hiện tại sẽ ảnh hưởng đến ngành dệt may. Nhưng mức độ ảnh hưởng cụ thể còn tùy thuộc vào khả năng chủ động, lường trước khó khăn và chủ động điều chỉnh chính sách sản xuất và xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp. Thứ hai, hàng dệt may sản xuất trong nước có thể bị cạnh tranh mạnh hơn do thuế giảm. Trước khi gia nhập WTO, thuế nhập khẩu hàng may mặc vào Việt Nam là 50%, thuế nhập khẩu vải là 40%, thuế nhập khẩu sợi là 20%. Sau khi gia nhập WTO, tất cả phải giảm xuống 2/3 ( khoảng 10-15% ), là mức chung của các thành viên WTO. Như vậy, các doanh nghiệp dệt may sẽ phải chịu sức ép cạnh tranh lớn trên thị trường nội địa. Bên cạnh đó, ngành dệt sẽ gặp nhiều khó khăn nhất, vì khoảng cách về trình độ phát triển giữa ngành dệt Việt Nam và các nước khá xa. Nếu xếp theo thang điểm 10, thì ngành dệt Việt Nam chỉ đạt khoảng 3-3,5 điểm, nghĩa là nằm ở nửa sau của thế giới. Hiện nay, đến 80% nguyên, phụ liệu cung cấp cho ngành may xuất khẩu là từ nước ngoài. Điều này cho thấy phần nào năng lực cạnh tranh kém cỏi của ngành dệt Việt Nam. Nếu tình hình này không sớm được cải thiện, các doanh nghiệp dệt có khả năng mất luôn chỗ đứng ở thị trường nội địa trong tương lai gần. Hiện nay hầu hết hàng dệt may nước ngoài có mặt tại Việt Nam là hàng Trung Quốc giá rẻ nhập lậu, nhất là hàng may sẵn. Do vậy, các nhà sản xuất trong nước sẽ phải cạnh tranh với Trung Quốc nhập khẩu, đặc biệt là vải Trung Quốc vì lúc này thuế suất giảm xuống chỉ còn 10%. Đối với nhóm quần áo và đồ may sẵn, việc cắt giảm thuế suất thuế nhập khẩu là cơ hội để các thương hiệu quần áo may sẵn đẩy mạnh hoạt động tại thị trường Việt Nam. Mặt khác, hệ thống bán buôn, bán lẻ hàng vải sợi may mặc trong nước chưa có tổ chức, bản thân các doanh nghiệp dệt may Việt Nam lại chưa tạo được các kênh tiêu thụ ngay, để thả nổi cho một số tư thương làm giả nhãn mác một số công ty có uy tín. Do vậy, để các nhà sản xuất hàng dệt may Việt Nam làm chủ được thị trường nội địa, nên không có biện pháp nào khác ngoài việc phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa sản xuất và lưu thông, bán buôn và bán. Vấn đề mấu chốt trong cuộc cạnh tranh này là kênh phân phối và thương hiệu, vốn là những lĩnh vực yếu của doanh nghiệp Việt Nam. Kết quả cuộc cạnh tranh là gì? Là các thương hiệu may sẵn của Việt Nam sẽ nhường chỗ cho các thương hiệu nước ngoài và sự sụt giảm lượng khách đáng kể tại các nhà may do nhu cầu sử dụng hàng hiệu giá rẻ tăng cao. Bên cạnh đó, khi vào WTO Việt Nam phải dành mức thuế MFN cho hàng dệt may nhập khẩu từ tất cả các nước thành viên WTO khác và thực hiện cắt giảm thuế nhập khẩu theo đúng cam kết. Đồng thời, Việt Nam cũng phải đối xử với hàng dệt may nhập khẩu từ tất cả các nước thành viên khác theo nguyên tắc NT, tức là không phân biệt đối xử giữa hàng nhập khẩu và hàng nội địa. Thứ ba, những thách thức mang tính chính sách như rào cản kĩ thuật, rào cản thương mại. - Nguy cơ bị áp dụng các biện pháp tự vệ. Việc gia nhập WTO một mặt làm tăng cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu, đặc biệt là sang các thị trường đang áp dụng hạn ngạch đối với Việt Nam, nhưng mặt khác cũng kèm theo nguy cơ bị các thành viên, đặc biệt là các thành viên lớn như Hoa Kỳ, EU áp dụng biện pháp tự vệ. Trên nguyên tắc thỏa thuận thương mại song phương với Hoa Kỳ thì khi Việt Nam gia nhập WTO sẽ không bị áp dụng biện pháp tự vệ đặc biệt, nhưng do dệt may thuộc nhóm hàng đặc biệt nhạy cảm, hơn nữa quan hệ thương mại có thể chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố phi thương mại nên mặc dù hiện tại xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang các thị trường lớn như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản chỉ chiếm thị phần dưới 3% nhưng nếu có sự tăng trưởng xuất khẩu nhanh trong thời gian ngắn, không loại trừ khả năng các nước này có thể sử dụng biện pháp tự vệ để hạn chế nhập khẩu. Từ đó có khả năng tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao và ảnh hưởng xấu tới ngành dệt may. Ngoài ra, sức ép về các rào cản phi thương mại bao gồm: các rào cản mang tính chất kỹ thuật, chính sách bảo hộ của các quốc gia nhập khẩu hàng dệt may lớn, yêu cầu về thực hiện tốt trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, yêu cầu về đạo đức kinh doanh… cũng tác động không nhỏ tới các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may của Việt Nam. - Nguy cơ bị áp dụng biện pháp chống bán phá giá. Trong thời gian vừa qua, Việt Nam đã phải đương đầu với nhiều vụ tranh chấp thương mại với một số nước lớn như: vụ kiện thương hiệu cá da trơn và vụ kiện bán phá giá tôm ở Mỹ, vụ kiện bán phá giá xe đạp và giày ở EU, vụ kiện bán phá giá bật lửa ga ở Hàn Quốc… Đặc biệt nếu như tình trạng các doanh nghiệp tran

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc1 185.doc
Tài liệu liên quan