MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU 1
B. NỘI DUNG 2
I. Những vấn đề lý luận chung về nền kinh tế thị trường 2
1. Các điều kiện để hình thành nền kinh tế thị trường 2
2. Các giai đoạn phát triển của nền kinh tế thị trường 4
3. Cơ chế thị trường 5
4. Vai trò kinh tế củaNhà nước trong nền kinh tế thị trường 7
II. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 9
1. Sự cần thiết khách quan phải chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta 9
2. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay 14
3. Thực trạng và các mâu thuẫn trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay 18
III. Giải pháp 22
1. Tạo lập, duy trì và phát triển tự do kinh tế 22
2. Xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật, một điều kiện cho sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 23
3. Tạo dựng hành lang và cơ chế đảm bảo giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế thị trường 23
4Tạo lập bộ máy Nhà nước vững mạnh 24
C. KẾT LUẬN 28
46 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1491 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Quá trình hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủa sự phát triển LLSX đạt đến một trình độ nhất định, đạt đến trình độ cao của kinh tế thị trường như hiện nay là phản ánh trình độ phát triển cao của LLSX. Đến lượt nó, kinh tế thị trường phát triển cao cũng có những tác động thúc đẩy LLSX vốn đã phát triển cao lại càng cao thêm.
Với những tư duy mới, chúng ta có thể khẳng định rằng : Kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng có của chủ nghĩa tư bản. Nó không đối lập mà là sản phẩm chung của nền văn minh nhân loại. Xây dựng và phát triển kinh tế thị trường là một trong những tính quy luật phổ biến của sự phát triển lực lượng sản xuất xã hội.
Do điều kiện kinh tế, chính trị và xã hội khác nhau nên mỗi nước có một mô hình kinh tế thị trường riêng. Chẳng hạn, ở Cộng hoà liên bang Đức có mô hình kinh tế thị trường- xã hội; ở Trung Quốc có mô hình kinh tế thị trường mang màu sắc Trung Quốc....
Việt Nam từ giữa những năm 80 của thế kỷ XX đã tiến hành công cuộc đổi mới và nền kinh tế của đất nước được xây dựng theo mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Sự hình thành và phát triển KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã trải qua quá trình nghiên cứu, thử nghiệm và tổng kết thực tiễn. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đánh dấu công cuộc đổi mới nền kinh tế được khởi xướng, nhưng phải trải qua 5 năm thực hiện, đến Đại hội lần thứ VII (1991), mới đưa ra phương hướng : “ Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ khoá VII bổ sung thêm cơ chế vận hành nhằm cụ thể hoá thêm một bước phương hướng nói trên là : “Xây dựng đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN”. Đại hội Đảng lần thứ VIII (1996) lại cụ thể hoá thêm một bước nữa là : “ Xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN”; ... “ phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN”. Trong dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội IX có viết về con đường đi lên CNXH ở nước ta. Đây là thành quả tổng kết lý luận qua nhiều năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng. Một trong bốn nội dung về con đường này, dự thảo chỉ rõ : “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, nói gọn lại là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN”.
Cơ chế của nền kinh tế ở nước ta là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Trong mô hình này nổi lên 3 khía cạnh chủ yếu :
Thứ nhất: Với tư cách cái chung-KTTT- đòi hỏi trong quá trình kết hợp phải tạo lập và vận dụng đồng bộ các yếu tố:
Cơ sở kinh tế mang tính đa dạng về sở hữu và thành phần kinh tế để nền kinh tế có thể “tự do hoá kinh tế” (tự do cạnh tranh, tự do kinh doanh và tự chủ).
Các phạm trù kinh tế vốn có của KTTT như hàng hoá, tiền tệ, thị trường, cạnh tranh, cung-cầu, giá trị thị trường, giá cả thị trường và lợi nhuận.
Các quy luật kinh tế của KTTT (quy luật giá trị, quy luật lưu thông tiền tệ, quy luật cạnh tranh và quy luật cung cầu)
Cơ chế vận hành nền KTTT- cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
Thứ hai : Với tư cách là cái đặc thù- định hướng XHCN- trong quá trình kết hợp đòi hỏi phải tuân theo các mục tiêu, nguyên tắc và nhiệm vụ kinh tế cơ bản hướng đến mục tiêu và các đặc trưng của CNXH mà nước ta cần xây dựng. Định hướng XHCN ở nước ta là một sự lựa chọn tất yếu, một khái niệm khoa học. Tuy vậy, vẫn còn có một số cách hiểu khác nhau, thậm chí không phải không có tư tưởng hoài nghi về tính hiện thực của định hướng XHCN mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã lựa chọn.
Lý thuyết hình thái kinh tế-xã hội của K.Marx cho rằng xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là xã hội XHCN, được ra đời và phát triển trên cơ sở thay thế, kế tiếp xã hội tư bản chủ nghĩa. Nghiên cứu sự ra đời và phát triển xã hội mới phải được tiếp cận như một quá trình phủ định biện chứng- phủ nhận có kế thừa. Cũng theo lý thuyết này và có tính đến lý thuyết phát triển nền văn minh thì xã hội XHCN phải là một xã hội hàm chứa trong nó những nhân tố kinh tế, chính trị, văn hoá và gắn với mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Xã hội cộng sản chủ nghĩa theo K. Marx, lẽ ra phải xuất hiện từ “các nước tư bản văn minh” có nền kinh tế đã phát triển cao. Song, xã hội đó do những điều kiện lịch sử đặc biệt và do sự lựa chọn của Đảng và nhân dân ta, lại xuất hiện ở Việt Nam, một nước mà nền kinh tế có điểm xuất phát thấp. Mặc dù vậy, cũng không nên lấy sự sụp đổ của chế độ XHCN ở Đông Âu và Liên Xô cũng như ta từ bỏ mô hình kinh tế chỉ huy tập trung quan liêu, bao cấp để chứng minh sự lựa chọn CNXH là sai lầm. Thật ra hai sự việc trên chỉ chứng tỏ sai lầm của nhận thức giản đơn, thậm chí nhận thức lệch lạc về CNXH. Cần ý thức rằng định hướng XHCN đã chọn là một tất yếu, vì sự lựa chọn phù hợp với nội dung thời đại- “Thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới”. Đảng ta nhận định : “XHCN trên thế giới, từ những bài học thành công và thất bại cũng như từ khát vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc, có điều kiện và khả năng tạo ra bước phát triển mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới XHCN” (Văn kiện Đại hội IX, tr.14). Định hướng XHCN không chỉ là một tất yếu về chính trị và nguyện vọng mong muốn của nhân dân ta, mà còn là một tất yếu kinh tế, nếu chúng ta đặt những tiền đề kinh tế cho việc xây dựng CNXH ở nước ta theo tư duy mới, mở cửa về kinh tế với tất cả các nước trên thế giới,và nếu chúng ta xem xét các tiền đề kinh tế không dừng lại ở điểm xuất phát ban đầu mà xem xét những thành tựu đã đạt được sau hơn 15 năm đổi mới nền kinh tế.
Tuy vậy, cũng phải nhận thấy rằng bên cạnh những thành tựu đã đạt được, đất nước ta còn đang đứng trước những cơ hội và thách thức. Trong bối cảnh đó, để đạt được đầy đủ các mục tiêu của một xã hội XHCN đích thực không đơn giản, mà nên coi các mục tiêu đó chỉ có thể được hình thành từng bước, chỉ là mục tiêu hướng tới, gắn liền với cả thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Điều đó giúp ta hiểu vì sao Đảng ta không sử dụng khái niệm KTTT xã hội chủ nghĩa mà chọn và sử dụng khái niệm KTTT định hướng XHCN . Từ mục tiêu của CNXH cần ý thức rằng xã hội XHCN đích thực mà ta hướng tới không phải đã có sẵn hình mẫu. Mô hình này còn đang trong quá trình hình thành. Vì vậy những đặc trưng của mô hình CNXH chỉ nên xác định những thuộc tính khái quát nhất và cơ bản nhất. Trên cơ sở đó, làm thử tổng kết từng bước bổ sung và hoàn thiện. Hiện tại có thể sử dụng các đặc trưng đã được Đảng ta xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước của thời kỳ quá độ lên XHCN ở nước ta, đó là “ xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội :
Do nhân dân lao động làm chủ.
Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.
Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, bất công,làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.
Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết, và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới” (Văn kiện Đại hội Đảng VII).
“Định hướng XHCN”, vừa là mục tiêu và đặc trưng vừa là con đường mà xã hội dùng để đạt đến mục tiêu. Vì vậy, ngoài các mục tiêu và đặc trưng nói trên, còn phải đề cập đến các vấn đề gắn với con đường, hành lang để thực hiện mục tiêu định hướng, đó là : những nhiệm vụ kinh tế cơ bản của thời kỳ quá độ lên CNXH được triển khai thông qua các mô hình tổ chức quá độ, chính sách kinh tế quá độ, các khâu, bước đi trung gian quá độ và mở cửa. Bằng cách đó, rút ngắn đáng kể thời gian thực hiện các trật tự phát triển tự nhiên theo định hướng mục tiêu CNXH đã chọn.
Thứ ba : trong mối quan hệ giữa cái chung- KTTT với cái đặc thù- định hướng XHCN, không thể lấy KTTT làm chủ đạo, mà nhất thiết phải lấy định hướng XHCN làm chủ đạo. Đây là nguyên tắc cơ bản trong mối quan hệ kết hợp giữa cái chung và cái đặc thù, vì chúng ta không chủ trương xây dựng mô hình KTTT bất kỳ, trừu tượng, càng không chủ trương xây dựng mô hình KTTT tư bản chủ nghĩa, mà chủ trương xây dựng mô hình KTTT định hướng XHCN, tất yếu phải lấy định hướng XHCN làm chủ đạo. Hơn nữa, KTTT mặc dù có nhiều yếu tố tích cực, song vẫn có một số tiêu cực nhất định, muốn phát huy yếu tố tích cực, hạn chế tiêu cực không thể không định hướng XHCN trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế thị trường. Xa rời nguyên tắc này sẽ làm cho việc xây dựng KTTT dễ đi chệch định hướng XHCN. Vì vậy, lấy định hướng XHCN làm chủ đạo trở thành nguyên tắc cơ bản chi phối lương tâm, trách nhiệm đối với các cấp, các ngành và các chủ doanh nghiệp trong việc ban hành và thực hiện các chủ trương, quyết định về sản xuất, kinh doanh trong tiến trình xây dựng KTTT ở nước ta.
Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phải là một nền kinh tế có trình độ phát triển ngày càng cao, có khả năng làm cho dân giàu nước mạnh, hay nói cách khác là nền kinh tế phồn thịnh. Quan hệ giữa con người với con người trong xã hội là bình đẳng, hay công bằng, dân chủ và xã hội ngày càng văn minh. Vì vậy, định hướng XHCN là định hướng đưa kinh tế- xã hội nước ta tiến tới phồn thịnh, bình đẳng và văn minh, và đó cũng chính là đặc trưng của nền kinh tế thị trường Việt Nam.
KTTT định hướng XHCN là một nền kinh tế bao gồm nhiều thành phần , trong đó kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác trở thành nền tảng. Và kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Các thành phần kinh tế đều vận động theo định hướng chung và theo khuôn khổ pháp luật của nhà nước XHCN.
Nền kinh tế thị trường phải được xây dựng trên cơ sở đa dạng hóa loại hình và hình thức sở hữu, đa dạng hoá hình thức kinh tế hay hình thức kinh doanh
Hiện nay ở nước ta có 3 loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất, và trong mỗi loại hình lại có những hình thức sở hữu khác nhau. Ba loại hình sở hữu là sở hữu quốc gia; sở hữu nhóm, tập thể; và tư hữu. Loại sở hữu quốc gia có các hình thức như ngân sách, các quỹ quốc gia, kinh tế doanh nghiệp nhà nước. Loại sở hữu tập thể, nhóm có các hình thức kinh tế hợp tác xã, tư bản nhà nước và kinh tế hỗn hợp khác. Loại sở hữu tư nhân bao gồm kinh tế tư nhân sản xuất lớn và kinh tế tư nhân sản xuất nhỏ.
Phạm trù kinh tế Nhà nước hiện có nhiều quan điểm khác nhau, trong đó có ý kiến coi kinh tế Nhà nước như là một thành phần kinh tế, có ý kiến thứ hai cho rằng, kinh tế Nhà nước không phải là một thành phần kinh tế mà là tài sản của một quốc gia. Nội dung kinh tế của nó gồm ngân sách nhà nước, các quỹ mà quốc gia nắm giữ, sở hữu các doanh nghiệp Nhà nước. Như vậy, sở hữu các doanh nghiệp Nhà nước chỉ là một bộ phận của kinh tế Nhà nước, của sở hữu quốc gia. Không nên đặt kinh tế nhà nước ngang với các hình thức tổ chức kinh doanh khác.
Về vấn đề hình thức kinh tế hay hình thức tổ chức kinh doanh. Trong dự thảo nêu lên 6 hình thức tổ chức kinh doanh (hình thức kinh tế). Hình thức kinh tế hay hình thức kinh doanh là kiểu tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh dựa trên một hình thức sở hữu nhất định. ở nước ta hiện nay có những hình thức kinh tế chủ yếu sau đây :
Hình thức kinh tế Nhà nước
Hình thức kinh tế tập thể hay hợp tác xã, gọi tắt là hợp tác xã.
Hình thức kinh tế hỗn hợp hay tư bản nhà nước, gọi tắt là doanh nghiệp hỗn hợp, gồm cả hình thức kinh tế 100% vốn đầu tư nước ngoài.
Hình thức kinh tế tư nhân sản xuất lớn, gọi tắt là tư bản tư nhân.
Hình thức kinh tế tư nhân sản xuất nhỏ, gọi tắt là kinh tế cá thể.
Trong kinh tế , doanh nghiệp là nơi làm giàu cho đất nước. Sứ mệnh của nó là sinh lợi cho nền kinh tế quốc dân. Một đất nước muốn phát triển thì doanh nghiệp phải hoạt động có hiệu quả, có lãi để thực sự đóng góp cho ngân sách nhà nước. Tuy nhiên mỗi loại hình kinh tế đóng góp vai trò nhất định trong quá trình sinh lợi cho nền kinh tế. Hiện nay, ở nước ta còn nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này. Theo tôi cho rằng, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, bởi lẽ nó tạo ra hiệu quả kinh tế xã hội cho toàn nền kinh tế thông qua việc cung cấp hàng hoá công cộng và mở đường cho các thành phần kinh tế khác phát triển. Các hình thức kinh tế khác có vai trò trực tiếp sinh lợi cho nền kinh tế quốc dân. Trong nền kinh tế định hướng XHCN, mục tiêu căn bản nhất là bình đẳng xã hội vì những đặc điểm có tính nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội là dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh, hay nói gọn hơn là phồn thịnh, bình đẳng và văn minh thì nhân tố bình đẳng là cốt lõi. Vì vậy, tính chất chủ đạo của nền kinh tế này không phải là hiệu quả kinh tế đơn thuần, mà là hiệu quả kinh tế- xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp nhà nước cũng là một đơn vị sản xuất hàng hoá, song cái chính yếu nhất là nó phải là người cung cấp những hàng hoá công cộng cho nền kinh tế, mở đường, dẫn dắt, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát triển, nó trở thành công cụ để Nhà nước có thể khắc phục được những khuyết tật của thị trường, có như vậy mới thể hiện tính chất chủ đạo là hiệu quả kinh tế- xã hội.
KTTT định hướng XHCN thực chất là kiểu tổ chức nền kinh tế dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường và dựa trên những nguyên tắc và bản chất của CNXH. Do đó, KTTT định hướng XHCN có hai nhóm nhân tố cơ bản tồn tại trong nhau, kết hợp với nhau và bổ sung cho nhau. Đó là, nhóm các nhân tố của KTTT và nhóm các nhân tố của xã hội đang định hướng XHCN. Trong đó, nhóm các nhân tố của KTTT đóng vai trò như một động lực thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển nhanh, nhóm các nhân tố XHCN đóng vai trò hướng dẫn, chế định sự vận động của nền kinh tế theo những mục tiêu đã được xác định. Xem như vậy thì có thể quan niệm rằng KTTT định hướng XHCN là một cơ thể sống giữa “ chủ thể”- KTTT, và sắc thái đặc thù của chủ thể đó- định hướng XHCN.
KTTT định hướng XHCN là mô hình kinh tế "mở ". Độ "mở” của nền kinh tế tuỳ thuộc vào :
Bối cảnh quốc tế, khu vực và năng lực nội sinh của nền kinh tế trong quá trình vươn ra tiếp cận với nền kinh tế thế giới.
Năng lực tổ chức quản lý điều hành của nhà nước XHCN và khả năng “ nội sinh hoá” có hiệu quả các yếu tố “ngoại sinh” (vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, tri thức kinh doanh...) du nhập vào nước ta.
Như vậy sự hiện diện của nhà nước XHCN trong KTTT định hướng XHCN vừa với tư cách là “ bộ phận cấu thành trọng yếu” (kinh tế nhà nước), vừa với tư cách là chủ thể tổ chức, xây dựng quan hệ quản lý vĩ mô nền kinh tế thị trường.
Cơ chế quản lý và vận hành nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Cơ chế đó đảm bảo tính hướng dẫn, điều khiển hướng tới đích XHCN của nền kinh tế theo phương châm : nhà nước điều tiết vĩ mô, thị trường hướng dẫn doanh nghiệp.
Trong điều hành quản lý vĩ mô nền kinh tế, nhà nước cần hạn chế tối đa những mệnh lệnh hành chính để cho các hoạt động thị trường được diễn ra chủ yếu theo sự hướng dẫn của các quy luật chính trị, cung - cầu, cạnh tranh; đảm bảo nguyên tắc vận hành của nền kinh tế thị trường " tự điều chỉnh" . Mặt khác, do thị trường trong nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa không phải là thị trường tự điều tiết hoàn toàn, mà còn phải phục vụ sát mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ, do đó nó lại vừa chịu sự điều chỉnh, quản lý của nhà nước XHCN. Do vậy, không thể xem xét các quan hệ thị trường hoạt động theo quy luật kinh tế khách quan một cách độc lập hoàn toàn với kế hoạch hoá định hướng và các chính sách kinh tế của nhà nước.
Cơ chế vận hành nền KTTT định hướng XHCN nêu ở trên thể hiện rõ các mặt cơ bản :
Một là, nhà nước XHCN - nhà nước của dân, do dân và vì dân, là nhân tố đóng vai trò "nhân vật trung tâm" và điều tiết nền kinh tế vĩ mô nhằm:
Tạo dựng và đảm bảo môi trường pháp lý, kinh tế... thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường.
Thực hiện chính sách xã hội, đảm bảo công bằng xã hội.
Can thiệp trực tiếp vào các hoạt động kinh tế nhằm đạt được các mục tiêu đặt ra.
Hai là, cơ chế thị trường là "nhân tố trung tâm" của nền kinh tế, đóng vai trò "trung gian" giữa nhà nước và doanh nghiệp.
Một vấn đề quan trọng nữa là Nhà nước ta quản lý nền kinh tế và xã hội theo nguyên tắc kết hợp thị trường với kế hoạch, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của người lao động và của toàn thể nhân dân.
Có một số người cho rằng, khi chuyển sang KTTT thì Nhà nước đừng có can thiệp vào kinh tế và kế hoạch hoá vĩ mô của Nhà nước cũng không cần thiết nữa. Quan niệm đó là giản đơn, hoàn toàn sai lầm và không có căn cứ lý luận, thực tiễn. Mọi người đều biết rằng, trong tất cả các mô hình kinh tế được đúc kết đến nay trên thế giới đều có hai dạng điều tiết kinh tế: thứ nhất, điều khiển trực tiếp bằng kế hoạch hoá và các biện pháp hành chính; thứ hai, điều tiết gián tiếp thông qua thị trường, vận dụng cơ chế thị trường để tác động đến hoạt động của các doanh nghiệp, dùng các đòn bẩy kinh tế để khuyến khích hoặc gây áp lực buộc các doanh nghiệp phát triển trong khuôn khổ và theo hướng kế hoạch do nhà nước đề ra. Hai dạng điều tiết kinh tế này chỉ khác nhau ở mức độ, liều lượng và hình thức của mỗi dạng trong cơ chế chung. Sở dĩ như vậy là vì, với tư cách là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô, là biện pháp, thủ đoạn kinh tế, cả kế hoạch hoá và thị trường đều có ưu thế và khuyết tật của nó.
Thực chất của vấn đề kế hoạch hóa thị trường, xét từ góc độ nhà nước, có thể được coi là sự kết hợp giữa điều khiển trực tiếp bằng kế hoạch và điều khiển gián tiếp thông qua cơ chế thị trường đối với các hoạt động kinh tế trong xã hội. Thực tế ngày càng chứng tỏ rằng, sẽ hợp lý và hiệu quả hơn nếu thông qua công cụ kế hoạch hoá mà nhà nước điều tiết thị trường để thị trường điều tiết sản xuất và điều chỉnh hành vi của doanh nghiệp. Trong nền KTTT định hướng XHCN, quản lý kinh tế theo nguyên tắc kết hợp kế hoạch với thị trường sẽ càng có thêm điều kiện giải phóng lực lượng sản xuất, đẩy nhanh sự phát triển kinh tế - xã hội.
Nguyên tắc về phân phối thu nhập
Sự thành công của nền KTTT định hướng XHCN, không chỉ dừng lại ở tốc độ tăng trưởng kinh tế, mà còn phải không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo tốt các vấn đề xã hội và công bằng, bình đẳng trong xã hội.
Thể hiện đặc trưng xã hội trong nền KTTT định hướng XHCN là:
Xác định các chỉ tiêu hiệu quả cần đạt được của nền KTTT, như : tốc độ tăng trưởng GDP; các chỉ tiêu về phát triển giáo dục, y tế, việc làm, về xoá đói giảm nghèo, về văn hoá xã hội, đảm bảo môi trường, môi sinh...
Nâng cao chức năng xã hội của nhà nước XHCN trong chế độ bảo hiểm xã hội, trong chính sách phân phối thu nhập, đồng thời có chính sách đảm bảo xã hội đối với những đối tượng đặc biệt ( gia đình có công với cách mạng, thương binh, người tàn tật...)
Tình hình đó đặt ra cho nền KTTT định hướng XHCN phải thực hiện hài hoà ba vấn đề sau đây :
Kết hợp vấn đề lợi nhuận với vấn đề xã hội. Mục đích của sự kết hợp này là vừa đảm bảo cho các chủ thể của KTTT có được lợi nhuận cao, vừa tạo được điều kiện chính trị - xã hội bình thường cho sự phát triển kinh tế. Vì vậy, trong nền KTTT định hướng XHCN, mục tiêu hoạt động của KTTT rộng hơn, tức là ngoài mục tiêu lợi nhuận, các chủ thể tham gia KTTT đều phải tính đến các vấn đề xã hội, nếu không, chính lợi nhuận cũng sẽ bị triệt tiêu.
Kết hợp chặt chẽ những nguyên tắc phân phối của CNXH và nguyên tắc của KTTT, như: phân phối theo lao động, theo vốn, theo tài năng, phân phối qua quỹ phúc lợi xã hội... Trong đó, nguyên tắc phân phối theo lao động là chính. Sự kết hợp đó tạo ra sự cùng tồn tại nhiều hình thức, nhiều cơ chế phân phối và phân phối lại thu nhập.
Điều tiết phân phối thu nhập, một mặt, đòi hỏi nhà nước phải có chính sách sao cho giảm bớt khoảng cách chênh lệch giữa người giàu và người nghèo...., mặt khác, phải có chính sách, biện pháp nâng cao thu nhập chính đáng của người giàu, người nghèo và của toàn xã hội.
Việc điều tiết phân phối thu nhập được thực hiện theo hai kênh: Thứ nhất, nhà nước XHCN là chủ thể duy nhất tiến hành tổ chức điều tiết phân phối lại trên phạm vi toàn xã hội đảm bảo công bằng xã hội và bình đẳng phúc lợi cho toàn xã hội. Thứ hai, điều tiết phân phối thu nhập theo những nguyên tắc của thị trường, cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
Thực trạng và các mâu thuẫn trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
Nền kinh tế thị trường ở nước ta mới ở giai đoạn sơ khai, sự vận động của nền KTTT còn mang nhiều yếu tố tự phát, rối loạn, cơ chế vận hành nền KTTT còn thô sơ...nghĩa là chưa đạt đến trình độ KTTT hiện đại, thể hiện ở những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, trình độ phát triển của sản xuất hàng hoá thấp do phân công lao động xã hội kém phát triển. 80% dân cư sống ở nông thôn, 71% lực lượng lao động làm trong nông nghiệp và do đó, cơ cấu kinh tế lạc hậu và dịch chuyển chậm, nhất là cơ cấu kinh tế nông nghiệp : sản xuất lương thực vẫn là ngành chính chiếm đại bộ phận đất canh tác, tỷ suất hàng hoá lương thực thấp, chăn nuôi chưa trở thành ngành chính...
Thứ hai, tự do kinh doanh và cạnh tranh theo pháp luật- hai thế mạnh của cơ chế thị trường, chưa được quán triệt đầy đủ và thực thi hữu hiệu trên thị trường. Thị trường dân tộc thống nhất đang trong quá trình hình thành và chưa đồng bộ, thể chế thị trường chưa tạo môi trường ổn định và an toàn cho sản xuất-kinh doanh, đặc biệt là thể chế tài chính, tiền tệ, tín dụng.
Thứ ba, có nhiều chủ thể sản xuất kinh doanh thuộc nhiều thành phần kinh tế tham gia vào thị trường. Nhiều kiểu sản xuất hàng hoá cùng tồn tại đan xen nhau, trong đó sản xuất hàng hoá nhỏ còn phổ biến.
Thứ tư, quá trình chuyển nền kinh tế tự cung, tự cấp lên kinh tế hàng hoá diễn ra đồng thời với quá trình chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang KTTT có sự quản lý của nhà nước. Hai quá trình đó có nội dung, yêu cầu khác nhau.
Thứ năm, sự hình thành thị trường trong nước gắn với việc mở rộng thị trường ngoài nước, với việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, với việc mở cửa, hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực trong điều kiện trình độ phát triển kinh tế- xã hội của ta thấp hơn nhiều so với nước kinh tế phát triển. Vì thế, đây là thời cơ, đồng thời cũng là thách thức lớn đối với các nhà sản xuất hàng hoá.
Thứ sáu, quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội còn yếu kém. “ Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách chưa đồng bộ và nhất quán, thực hiện chưa nghiêm. Công tác tài chính, ngân hàng, giá cả, kế hoạch hoá, quy hoạch xây dựng, quản lý đất đai còn nhiều yếu kém, thủ tục hành chính... đổi mới còn chậm. Thương nghiệp nhà nước bỏ trống một số trận địa quan trọng, chưa phát huy tốt vai trò chủ đạo trên thị trường. Quản lý xuất nhập khẩu còn nhiều sơ hở, tiêu cực, một số trường hợp gây tác động xấu đối với sản xuất. Chế độ phân phối thu nhập còn nhiều bất hợp lý. Bội chi ngân sách và nhập siêu còn lớn hơn. Lạm phát tuy được kìm chế nhưng chưa vững chắc” (Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII).
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là một nền kinh tế quá độ, nên nó không tránh khỏi những mâu thuẫn quá độ của nó. Sau đây là một số mẫu thuẫn và phương hướng giải quyết.
Một là, nền KTTT trong điều kiện sản xuất nhỏ là phổ biến như ở nước ta thì tất nhiên chưa thể thoát khỏi tính tự phát TBCN. Việc định hướng nền kinh tế nước ta đi lên CNXH không phải là sự nhận thức và vận dụng một cách tự giác xu hướng và quy luật khách quan của sự phát triển xã hội trong thời đại ngày nay. Như vậy, phát triển nền KTTT định hướng XHCN đã bao hàm sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập : tính tự phát và tính tự giác trong sự phát triển kinh tế- xã hội.
Trong thời gian hiện nay, tính tự phát vẫn còn là cái cần thiết và không tránh khỏi trong việc điều chỉnh mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng, trong việc giải quyết những khó khăn về việc làm, trong lưu thông hàng hoá, v.v... Tuy vậy, nếu để nền kinh tế phát triển chủ yếu là tự phát thì không thể thực hiện được những mục tiêu của CNXH. Còn hoạt động tự giác là hoạt động dựa trên sự nhận thức đúng đắn xu thế tất yếu và quy luật khách quan của đời sống xã hội, nhưng nếu có sai lầm trong nhận thức, nhất là sai lầm trên bình diện quốc gia thì hậu quả của nó thật khôn lường.Giải quyết mâu thuẫn giữa tính tự giác và tính tự phát trong phát triển kinh tế - xã hội là hết sức khó khăn phức tạp; không phải là trong một lúc có thể xoá bỏ hoàn toàn tính tự phát, biến mọi hoạt động của con người thành hoạt động tự giác, mà là phát huy ngày càng cao tính tự giác trên cơ sở nâng cao năng lực tổ chức, quản lý, phối hợp hoạt động trên bình diện xã hội, hạn chế dần lĩnh vực tự phát của hoạt động của con người trong xã hội.
Hai là, phát triển KTTT trong thời kỳ quá độ tức là chấp nhận sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế, trong đó có th
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29591.doc