MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU 1
PHẦN MỘT: NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG 2
I- Những quan điểm cơ bản về vốn và hoạt động huy động vốn . 2
1. Vốn và chính sách về vốn: 2
2. Các điều kiện cho hoạt động huy động vốn : 3
II- Vai trò của nguồn vốn trong công cuộc Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá đất nước và lý do nghiên cứu vấn đề huy động vốn qua hệ thống ngân hàng : 3
1. Vai trò : 3
2. Vị trí của vốn huy động trong nước đối với vốn huy động từ nước ngoài: 4
3. Lý do nghiên cứu đề tài: 5
PHẦN HAI : TÌNH HÌNH THỰC TIỄN. 6
I- Thực trạng hoạt động huy động vốn của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay: 6
1. Tình hình chung: 6
2. Nguyên nhân và một số tháo gỡ tình trạng huy động vốn tăng trưởng chậm trong hệ thống ngân hàng thương mại : 8
3. Sự phân chia thị trường huy động vốn trong hệ thống ngân hàng thương mại : 9
II- Thực tế tiềm năng huy động vốn ở nước ta hiện nay: 12
1. Xét về mặt định lượng: 12
2. Xét về mặt định tính: 15
3. Sự ảnh hưởng của việc gửi ngoại tệ ra nước ngoài đến nguồn vốn phát triển kinh tế Việt Nam: 17
PHẦN BA: XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA VẤN ĐỀ TRONG TƯƠNG LAI VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ. 21
I- Sự phát triển của vấn đề trong tương lai: 21
1. Xu hướng phát triển của thị trường vốn trong khu vực: 21
2. Định hướng chiến lược huy động vốn của ngành Ngân hàng trong giai đoạn 5 năm 2001-2005: 22
II- Một số kiến nghị : 23
1. Đề xuất để tăng cường huy động vốn từ dân cư: 23
2. Biện pháp tăng nguồn vốn trung và dài hạn: 25
3. Giải pháp về lãi suất : 27
4. Các giải pháp chung: 28
KẾT LUẬN 30
TÀI LIỆU THAM KHẢO 31
34 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1499 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Quá trình tiến tới tự do hoá lãi suất ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng của hoạt động huy động vốn trong tương lai.
Thị phần huy động vốn, cho vay khách hàng… là nhân tố đo lường mức độ tập trung trong hệ thống ngân hàng. Mạng lưới hoạt động lớn, trải rộng khắp cả nước, quan hệ với khách hàng lâu dài là những nhân tố ưu đãi giúp các NHTMQD huy động được phần lớn vốn từ nền kinh tế.
Huy động vốn bằng ngoại tệ và VND tập trung nhiều vào các NHTMQD do lợi thế nhờ quy mô. Đến hết năm 1999 huy động vốn của các NHTMQD chiếm tới 78,1% tổng vốn huy động từ nền kinh tế của hệ thống ngân hàng Việt Nam; trong đó ngoại tệ chiếm 24,9% và VND chiếm 53,2% tổng vốn huy động (NHNN). Thị phần huy động vốn được mở rộng trong năm 2000. Do lãi suất USD trên thị trường quốc tế tăng, các NHTMQD đã tăng cường huy động vốn ngoại tệ, kết quả, tốc độ tăng trưởng huy động vốn ngoại tệ cao hơn nhiều so với VND. Huy động vốn ngoại tệ của NHCT năm 2000 tăng 52,9% so với cuối năm 1999; trong khi VND chỉ tăng 24,4%. Tăng trưởng huy động vốn ngoại tệ của NHNT trong cùng thời gian là 58,5%; VND tăng 33% (Báo cáo Hội nghị Giám đốc năm 2000 của NHNT). Hơn nữa, do mạng lưới hoạt động rộng,mối quan hệ với khách hàng lâu dài, các ngân hàng này có nguồn tiền gửi không kỳ hạn rất lớn của các doanh nghiệp. Nguồn vốn này rẻ, có tính luân chuyển cao nhưng các ngân hàng thương mại (NHTM) vẫn có thể sử dụng một tỉ lệ % nhất định để cho vay trung, dài hạn (theo quy định tỉ lệ an toàn là được phép sử dụng tối đa 25%). Như vậy tiền gửi không kỳ hạn VND để đầu tư trung và dài hạn chỉ có mức giá vốn đầu vào rất thấp, khoảng 0,15%/tháng. Lợi thế này chỉ xuất hiện ở các NHTMQD.Tỉ trọng tiền gửi không kỳ hạn lớn sẽ làm thấp giá vốn đầu vào, do đó, tăng thêm sức cạnh tranh cho các ngân hàng này trong cho vay ngắn hạn.
Nhìn vào hai trung tâm tài chính lớn của cả nước Hà nội và TP. HCM cũng suy diễn được thị phần huy động vốn tập trung vào nhóm các NHTMQD. Bởi ngoài hai trung tâm này, tại các địa bàn khác chỉ có các NHTMQD và một số ít các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP), quỹ tín dụng hoạt động. Điều này được thấy rõ trong bảng sau:
Bảng thị phần huy động vốn năm 2000 tại hai trung tâm tài chính
Đơn vị: %
Nhóm ngân hàng
Hà Nội
Tp.HCM
1.NHTMQD
73,5
52,1
2.NHTM ngoài QD
Trong đó: -NHTMCP
- NHNg và NHLD
26,5
9,5
17,0
47,9
26,7
21,2
(Nguồn: Tạp chí Ngân hàng số1 năm 2001).
Theo số liệu ở bảng trên ta thấy huy động vốn tập trung khoảng 80% vào các NHTMQD, thì thị phần tín dụng cũng tập trung ở mức tương đương. So sánh tỉ trọng giữa cho vay so với vốn huy động qua các năm ở bảng sau đây:
Bảng tỉ trọng giữa cho vay so với vốn huy động qua các năm.
Đơn vị:%
Nhóm ngân hàng
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
NHTMQD
148,1
136,6
125,5
108,6
97,0
78,4
74,5
NHTM ngoài QD
140,9
102,6
113,8
117,5
117,6
126,7
107,6
(Nguồn: Số liệu lấy từ Tạp chí Ngân hàng số 8 năm 2001)
Xét trên quy mô, số lượng, NHTMQD có ưu thế hơn NHTM ngoài quốc doanh. Đánh giá qua mức sử dụng vốn cho thấy rằng NHTMCP cho vay vượt quá số vốn huy động được, nghĩa là phải sử dụng đến cả vốn điều lệ và vốn vay từ thị trường liên ngân hàng. Tỉ trọng giữa dư nợ tín dụng so với vốn huy động của NHTMQD giảm dần nhỏ hơn 1 trong giai đoạn 1994-2000 thể hiện các ngân hàng này co cụm hoặc đầu tư thận trọng sau hàng loạt thất bại trong đầu tư tín dụng với con số nợ khó đòi lên tới hành nghìn tỷ đồng. NHTM ngoài quốc doanh thì trái ngược, lượng vốn huy động tăng chậm là do uy tín thấp và các NHNg ở khu vực này chưa được phép huy động tiết kiệm bằng VND, USD từ dân cư, do đó để có vốn cho vay bằng VND các NHNg phải sử dụng vốn trên thị trường liên ngân hàng nên tỷ trọng nợ tín dụng so với huy động vốn lớn hơn 1. Trong khi đó lượng khách hàng có nhu cầu vay vốn tăng cao bởi phần lớn các khách hàng này khó tiếp cận vốn của NHTMQD hoặc chính các ngân hàng này không muốn phát triển nghiệp vụ ngân hàng bán lẻ. Do đó, dư nợ cho vay của các NHTM ngoài quốc doanh vượt quá số vốn huy động từ khách hàng. Sự phát triển quy mô ngân hàng bán lẻ của các NHTMCP như cho vay tiêu dùng, cho vay xây dựng nhà ở, huy động vốn trả góp … sẽ là thách thức lớn đối với các NHTMQD khi muốn phát triển thành ngân hàng đa năng, mở rộng dịch vụ ngân hàng bán lẻ.
Mặc dù thị phần huy động, cho vay của các NHTMQD chiếm phần lớn, nhưng lại chịu sức ép cạnh tranh từ các chi nhánh ngân hàng nước ngoài (CNNHNg); không bị động trong thế cạnh tranh nhưng lại là người phản ứng chậm trong sử dụng mỗi công cụ, chiến thuật cạnh tranh, tính chủ động kém hơn các CN NHNg.
Xét về phương diện lãi suất thì sức cạnh tranh huy động vốn của các NHTMCP, CN NHNg lại rất thấp. NHTMCP bị yếu thế bởi mức độ tin cậy thấp, mặc dù các ngân hàng này luôn phải đặt mức lãi suất huy động cao hơn các NHTMQD. Tuy nhiên trong thời gian gần đây, lo sợ thị phần huy động vốn có thể bị suy giảm, các NHTMQD đôi lúc để mức lãi suất huy động ngang bằng các NHTMCP, CN NHNg không có khả năng cạnh tranh bởi vì họ bị ràng buộc quy định của ngân hàng Nhà nước (NHNN) chứ không phải là họ không đủ sức mạnh trong lĩnh vực huy động tiết kiệm từ dân cư. Trong tương lai, quy định của NHNN được nới lỏng, thị phần huy động vốn của các NHTMQD sẽ bị ảnh hưởng lớn. Trong cạnh tranh huy động, chỉ có NHNT là có sức mạnh ảnh hưởng đến lãi suất huy động ngoại tệ trên thị trường. Nghĩa là họ luôn coi lãi suất của NHNT làm cơ sở xác định mức lãi suất huy động vừa đảm bảo có lợi nhuận vừa đảm bảo ở mức cạnh tranh.
Rõ ràng các NHTMQD có nguồn vốn lớn, giá vốn thấp, mối quan hệ lâu dài với khách hàng nhưng chưa tạo thế chủ động hơn và lấn át hơn các CN NHNg. Trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, mục tiêu của CN NHNg là mở rộng thị phần, thôn tính khách hàng để tạo sự ổn định và phát triển, các NHTMQD cần phải đánh giá lợi nhuận cho cả gói dịch vụ đối với từng khách hàng từ thanh toán quốc tế, giao dịch vốn, kinh doanh ngoại tệ, tín dụng… chứ không nhất thiết từng hoạt động riêng biệt phải sinh lời.
Xét về lợi nhuận hình thành từ vị thế trên thị trường vốn của các NHTM, ta thấy NHTMQD nhờ quy mô, nhân tố ưu đãi mang tính tự nhiên có lợi nhuận chiếm 55% lợi nhuận của toàn ngành ngân hàng. Tuy nhiên, nếu đem so sánh lợi nhuận với tổng tài sản và tổng dư nợ của từng khu vực thì thấy rằng khu vực ngoài quốc doanh hiệu quả hơn.
Về tổng thể, mức độ tập trung của các NHTMQD không tạo ra quyền lực cao trong cạnh tranh, nhưng trên phạm vi nhất định có ảnh hưởng đến thị trường. Các NHTM ngoài quốc doanh cũng có kế hoạch củng cố thị phần, khách hàng của mình, do đó mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt và thị phần của các NHTMQD luôn bị đe doạ. Đứng trước thực trạng như vậy cần có những biện pháp nào để hoạt động huy động vốn trong hệ thống các ngân hàng thương mại nước ta được điều hoà và thúc đẩy được sự phát triển kinh tế đất nước? Đây chính là nhiệm vụ đặt ra đối với các nhà hoạch định chính sách của ngành nói riêng và của chính phủ Việt Nam nói chung.
II- Thực tế tiềm năng huy động vốn ở nước ta hiện nay:
1. Xét về mặt định lượng:
Về mặt định lượng có 3 nguồn vốn chủ yếu có thể huy động cho đầu tư phát triển là: nguồn vốn nhà nước (bao gồm vốn ngân sách Nhà nước (NSNN), vốn trong các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) và vốn tài sản công và tài sản quốc gia), nguồn vốn trong dân cư và nguồn vốn nước ngoài.
Ta xét từng nguồn vốn cụ thể :
1.1. Nguồn vốn nhà nước:
Trong những năm gần đây, quy mô NSNN không ngừng tăng lên nhờ mở rộng nhiều nguồn thu khác nhau, nhưng chủ yếu qua huy động thuế và phí chiếm tới trên 90% các khoản thu ngân sách hàng năm.
Ngoài ra nguồn vốn nhà nước còn bao gồm các nguồn lực vật chất to lớn, đó chính là các nguồn tài sản công và tài sản quốc gia. Ta có thể liệt kê ra bao gồm:
Nguồn vốn do các DNNN quản lý ước tính khoảng hơn 60.000 tỷ đồng.
Nguồn tài sản công ước khoảng hơn 750.000 tỷ đồng ở dạng tiềm năng là tài sản nhà nước do các cơ quan hành chính sự nghiệp, đơn vị lực lượng vũ trang, cơ quan Đảng, đoàn thể quản lý.
Ngoài ra, những tài nguyên quốc gia ở trên mặt đất, mặt nước là không thể ước tính hết được do chưa được khảo sát tường tận và chưa cách định giá trị chính xác, đầy đủ.
1.2. Nguồn vốn dân cư:
Theo điều tra và ước tính của Bộ Kế hoạch- Đầu tư và Tổng cục Thống kê, nguồn vốn trong dân hiện nay có từ hơn 6 đến 8 tỷ USD, trong đó khoảng :
+ 44% để dành của dân là mua vàng, ngoại tệ.
+ 20% để dành của dân là mua nhà đất, cải thiện điều kiện sinh hoạt.
+ 17% để dành của dân là gửi tiết kiệm, chủ yếu là loại ngắn hạn.
+ 19% để dành của dân là dùng trực tiếp cho các dự án đầu tư, chủ yếu là ngắn hạn.
Như vậy, chỉ khoảng 36% vốn hiện có trong dân được huy động cho đầu tư phát triển. Nếu tính theo hàng năm, mức huy động vốn trong dân năm sau luôn cao hơn năm trước. Cụ thể được thể hiện trong bảng sau :
Năm
Mức huy động
(tỷ đồng)
Mức tăng so với năm trước
(%)
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
6.430
10.864
13.000
17.000
20.000
24.000
28.000
181,4
170
120
130
117,7
120,6
116,7
(Nguồn:Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế số 251-Tháng 4/1999)
Xét về mặt hình thức, kết quả nổi bật là số lượng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng nhanh chóng, khả năng thu hút vốn đầu tư, tăng mức nộp ngân sách và thu nhập lao động khá cao. Tuy nhiên, về quy mô các doanh nghiệp này còn nhỏ, công nghệ lạc hậu, hầu như không liên doanh, liên kết với nhau, 50% số doanh nghiệp không mở rộng đầu tư, chỉ 36% tăng vốn điều lệ một đến hai lần và 5% tăng trên hai lần. Ngoài ra cần kể đến khoảng 10 triệu hộ nông dân và 2 triệu hộ cá thể sản xuất tiểu thủ công nghiệp, kinh doanh thương mại và dịch vụ trên cả nước. Tất cả đều ở tình trạng vốn nhỏ, công nghệ lạc hậu hơn các doanh nghiệp nói trên. Còn các hợp tác xã thì vốn cố định trung bình chiếm tới 80% số vốn hiện có, trong đó, 60% là nhà xưởng, 20% là thiết bị, tất cả đều cũ nát, lạc hậu. Nhiều hợp tác xã nằm chờ chính sách, giữ nhà xưởng…
1.3. Nguồn vốn nước ngoài :
Nguồn vốn nước ngoài gồm 3 bộ phận cấu thành chủ yếu là nguốn ODA và vay thương mại, nguồn vốn FDI và nguồn kiều hối. Xét trên bình diện tổng thể, các nguồn vốn này đầu tư vào Việt Nam càng ngày càng tăng cả về số lượng và chất lượng. Tuy nhiên, mấy năm gần đây do khủng hoảng tài chính tiền tệ ở khu vực và các lý do chủ quan từ phía Việt Nam tốc độ tăng của các nguồn vốn này lại có xu hướng giảm. Hiện nay, nước ta đang cố gắng cải thiện môi trường đầu tư trong nước để thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là công nghệ kĩ thuật tiên tiến hiện đại của thế giới để nâng cao trình độ sản xuất cũng như đời sống của nhân dân lao động.
2. Xét về mặt định tính:
Với tất cả những hạn chế của công tác thống kê, khảo sát, phân tích và dự báo kinh tế – tài chính ở nước ta, vẫn có thể đưa ra một số nhận xét về thực tế và tiềm năng huy động các nguồn vốn cho tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội như sau :
Thứ nhất, về đặc điểm, tính chất: các nguồn vốn có thể huy động cho đầu tư phát triển kinh tế đất nước mới chỉ được khai thác không đáng kể, mà chủ yếu còn ở dạng tiềm năng và chưa được đánh giá đầy đủ và chính xác. Hơn nữa, chúng tồn tại và được huy động với quy mô nhỏ bé, trong tình trạng chia cắt, manh mún, rời rạc và nặng tính tự phát, thiếu sự hợp tác, gắn bó hỗ trợ nhau trong một kế hoạch có mục tiêu nhất quán và đồng bộ như một chỉnh thể, nếu không muốn nói là đôi khi còn chèn ép và làm giảm tác động tích cực của nhau đến mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng, tiến bộ và công bằng xã hội.
Thứ hai, đến nay vẫn còn khá đậm nét sự lúng túng, phân biệt đối xử và “sự nghi kị” lẫn nhau giữa các nguồn vốn khác nhau, mà sự tồn tại của quá nhiều các đạo luật khác nhau điều chỉnh các nguồn vốn khác nhau này đã và đang cho thấy điều đó ( Hiện có tới 5 đạo luật điều chỉnh vốn đầu tư xã hội : Luật Doanh nghiệp tư nhân, Luật Công ty, Luật DNNN, Luật Đầu tư nước ngoài, Luật khuyến Khích đầu tư trong nước, Luật Phá sản…). Vẫn còn thiếu sự công bằng trong quyền lợi và nghĩa vụ mà các chủ sở hữu các nguồn vốn này nhận được, rõ nét nhất là giữa DNNN – DNTN, giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; giữa nông thôn và thành thị. Thậm chí sự thiếu công bằng còn tồn tại cả trong cơ cấu chi ngân sách nhà nước cho đầu tư phát triển, cho tiến bộ và công bằng xã hội. Nhìn chung, hệ thống pháp lý và cơ sở hạ tầng cùng dịch vụ nhằm khuyến khích, hỗ trợ và định hướng đầu tư phát triển vẫn còn chưa phát triển, thậm chí nhiều bất cập.
Thứ ba, hậu quả chung là vốn xã hội bị chi tiêu dùng nhiều hơn chi đầu tư phát triển. Hơn nữa đang có xu hướng sụt giảm dần chỉ số hiệu quả đầu tư xã hội K= GDP (năm sau/tổng đầu tư xã hội năm trước).
Cụ thể là trong khi các hình thức huy động vốn đầu tư phát triển ngày càng đa dạng và hiệu quả hơn, khiến tổng đầu tư và và chỉ số đầu tư/GDP tăng liên tục từ năm 1991 đến 1997 thì K vận động theo hướng ngược lại, nghĩa là nếu như 1 USD đầu tư năm 1992 làm tăng 1,47 USD GDP năm 1993 thì 1 USD đầu tư năm 1996 sẽ chỉ còn làm tăng 0,29 USD GDP năm 1997.
Ngoài ra còn phải kể đến sự gia tăng tình trạng vốn đầu tư xã hội “bị đóng băng” trong các bất động sản và nằm ứ đọng trong ngân hàng vì không cho vay được, hoặc hao hụt dưới nhiều dạng thất thu, thất thoát chi NSNN, nợ đọng khó đòi (lên tới từ 9-20% tổng tín dụng ngân hàng) v.v…Tình trạng nhập hàng xa xỉ và hàng tiêu dùng vượt quá khả năng cho phép ở bộ phận dân thành thị vẫn không giảm. Tình trạng nằm im vốn đầu tư, kể cả chuyển đổi sở hữu từ dạng doanh nghiệp liên doanh thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, tình trạng nhập khẩu công nghệ và thiết bị lạc hậu hoặc bị đội giá đang ngày càng phổ biến cũng là những tín hiệu thiếu lành mạnh trong hoạt động của các đầu tư nước ngoài những năm gần đây nói riêng, trong bức tranh toàn cảnh về huy động vốn đầu tư nói chung ở Việt Nam.
Thứ tư, về triển vọng vận động, trong số các nguồn vốn nêu trên thì lượng ODA và kiều hối có xu hướng giảm dần do xu hướng giảm ODA trên thế giới, đi đôi với sự phát triển của đất nước sẽ làm giảm bớt “tính ưu tiên” của Việt Nam trong danh sách các nước nhận ODA thế giới. Còn giảm sút kiều hối là do sự “nhạt dần” các quan hệ thân hữu giữa lượng người Việt ở nước ngoài với người thân trong nước. Chỉ có kênh kiều hối của xuất khẩu lao động Việt Nam đi các nước và kênh FDI có nguồn gốc từ người Việt Nam sống ở nước ngoài có thể tăng lên.
Lượng vốn đầu tư cho phát triển từ NSNN và vốn vay thương mại cũng có giới hạn do sự quy định nghiêm ngặt của giới hạn động viên GDP vào NSNN và sự an toàn tín dụng quốc tế (mà chúng ta đang sắp đạt tới“ ngưỡng” của các giới hạn này) .
Có thể có sự gia tăng vốn đầu tư cho phát triển từ bộ phận tài sản công và tài sản quốc gia hiện vẫn còn nằm ở dạng tiềm năng hoặc ít được khai thác.
Rút cục, sự linh động tiềm tàng và triển vọng dồi dào nhất của nguồn vốn cho đầu tư phát triển chính là FDI và vốn trong dân cư (mà vốn trong dân cư sẽ ngày càng chiếm vị trí quan trọng) nếu được nuôi dưỡng và động viên thích hợp bằng môi trường kinh doanh ngày càng được hoàn thiện và có tính cạnh tranh quốc tế cao.
Tóm lại, trong suốt thời kì đổi mới đến nay, chúng ta đã thu hút được nhiều thành tích không thể phủ nhận và các nguồn vốn cho phát triển kinh tế và công bằng xã hội. Song về cơ bản, nền kinh tế mới tăng trưởng dựa trên việc khai thác các nhân tố phát triển bề rộng và đang cạn dần mà chưa coi trọng khai thác các nhân tố phát triển bề sâu.Tư tưởng “ăn sổi”, kinh doanh chụp giựt vẫn còn khá phổ biến trong đa số các nhà đầu tư trong nước lẫn một bộ phận ngoài nước, thậm chí cả trong dân chúng, lẫn một bộ phận các nhà quản lý. Cơ chế chung của nền kinh tế vẫn còn đậm nét cơ chế hao phí:hao phí lao động, hao phí nguyên vật liệu, hao phí tín dụng, chất xám, hao phí tài sản công và tài nguyên quốc gia. Tiêu dùng vẫn được đặt cao hơn tích luỹ phát triển sản xuất v.v…
3. Sự ảnh hưởng của việc gửi ngoại tệ ra nước ngoài đến nguồn vốn phát triển kinh tế Việt Nam:
Trong thời gian gần đây, trên các thị trường tài chính quốc tế lãi suất ngoại tệ tăng mạnh. Nguyên nhân chính là do trong vòng 6 tháng đầu năm 2000, Cục dự trữ liên bang Mỹ(FED) đã liên tục 4 lần tăng lãi suất (nếu tính từ tháng 6/1999 là 6 lần), tổng cộng là 1% cho các mức lãi suất chủ đạo của Mỹ trong 6 tháng. Việc FED liên tục tăng lãi suất là nhằm kiềm chế lạm phát và một phần do nhu cầu về tín dụng đối với đồng USD tăng; hay nói cách khác là để tránh nguy cơ phát triển quá nóng của nền kinh tế Mỹ. Như phản ứng dây chuyền, ngân hàng trung ương (NHTƯ) Châu Âu (ECB) cũng đã 3 lần nâng lãi suất tái cấp vốn từ mức. Lãi suất cho vay liên ngân hàng LIBOR, SIBOR cũng tăng mạnh.
Không nằm ngoài xu thế đó, hàng loạt lãi suất đồng tiền của các nước cũng được điều chỉnh tăng với các mức độ khác nhau phù hợp với mỗi điều kiện kinh tế của mỗi nước và trong mỗi thời kì khác nhau nhằm bảo vệ đồng nội tệ, tránh việc chuyển đổi nguồn vốn sang USD và vốn bị đào thoát ra nước ngoài.
Còn đối với Việt Nam, việc tăng lãi suất như trên ảnh hưởng như thế nào đến hoạt động của các NHTM và huy động vốn cho phát triển kinh tế? Trên thực tế, các NHTM trong nước cũng từng bước nâng lãi suất huy động USD. Trong dân chúng, đã và đang xuất hiện xu hướng chuyển các khoản tiết kiệm từ VND sang USD do lãi suất USD được điều chỉnh tăng lên trong khi lãi suất huy động tiết kiệm VND vẫn chỉ duy trì ở mức độ thấp, và tâm lý lo ngại về sự mất giá của đồng Việt Nam. Hiện nay, do biến động trên thị trường tài chính Mỹ, và các biện pháp của NHNN để khắc phục tình trạng đôla hoá, mức lãi suất USD đã giảm từ mức lãi suất phổ biến ở 4,4%- 5,3%/năm cho kỳ hạn 3-6 tháng xuống còn 1,75-1,85% và 5,5%-5,7%/năm kỳ hạn 12 tháng xuống còn 2,25%. Song nguồn vốn ngoại tệ huy động vẫn có chiều hướng tăng mạnh. Theo thống kê, khối lượng huy động USD tăng hơn 24,8% so với cuối năm 1999 và 18,4% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong khi gia tăng tín dụng chỉ ở mức khiêm tốn : tăng 5% so với cùng kỳ năm ngoái. Như vậy, việc tăng lãi suất ngoại tệ đã có những tác động nhất định đến thị trường ngoại hối và tín dụng USD.
Xét ở một khía cạnh khác, mặc dù lãi suất USD trong nước đã được nâng lên nhưng vẫn còn khoảng cách khá lớn đối với lãi suất USD trên thị trường quốc tế chênh lệch khoảng 1,4-1,8%. Điều này đã làm xuất hiện tình trạng các NHTM trong nước tăng cường huy động ngoại tệ USD rồi gửi ra những tài khoản tiền gửi ở nước ngoài để hưởng chênh lệch lãi suất. Hoạt động tín dụng trong nước của các NHTM hiện nay đang gặp khó khăn, nguồn ngoại tệ để cho vay rất lớn nhưng không cho vay được. Trong khi đó, các NHTM lại được phép mở tài ngoại tệ ở nước ngoài. Do vậy việc họ đem số ngoại tệ “ nhàn rỗi” huy động được gửi ra nước ngoài ( được lợi hơn về mặt lãi suất mà độ an toàn lại cao ) nhằm sinh lời đồng vốn và bù đắp được chi phí huy động là điều không thể tránh khỏi và phù hợp với quy luật thị trường. Đây quả là một hiện tượng “ đầu tư ngược” , nhưng hoàn toàn hợp pháp.
Như vậy, lãi suất ngoại tệ trên các thị trường tài chính quốc tế tăng đã thay đổi chiều hướng hoạt động của các NHTM ; các NHTM thay việc khai thác ( cho vay ) trong nước vốn đã khó khăn trong thời gian qua bằng việc gửi ngoại tệ ra nước ngoài, vừa được lãi cao vừa không vi phạm luật pháp. Tuy nhiên, đứng dưới giác độ quản lý vĩ mô, việc gửi ngoại tệ ra nước ngoài tiếp tục ra tăng sẽ có những tác động không tốt đến nguồn vốn phát triển kinh tế của nước ta. Đối với nguồn vốn trong nước không phát huy hết hiệu quả không được khai thác triệt để nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh ; còn đối với nguồn vốn từ nước ngoài cũng làm giảm sút lãi suất ở Việt Nam hiện nay (nước tiếp nhận vốn đầu tư ) thấp hơn so lãi suất quốc tế. Hơn nữa, việc các NHTM gửi ngoại tệ ra nước ngoài không cho vay trong nước cũng làm giảm lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài vào sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô ở Việt Nam, càng làm xấu đi hoạt động thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài đã có chiều hướng giảm sút từ gần ba năm nay.
Phân tích một số giải pháp giảm bớt tình trạng các NHTM gửi ngoại tệ ra nước ngoài trong khi nền kinh tế thiếu vốn .
Hầu hết các chuyên gia kinh tế đều khẳng định rằng, hiện nay biện pháp tiếp tục hạ lãi suất VND để kích cầu ( do nền kinh tế nước ta vẫn chưa thoát khỏi tình trạng thiểu pháp – tỉ lệ lạm phát 7 tháng đầu năm 2000 là -1,6%) là khó có thể thực hiện được, song càng không thể tăng lên để tạo thế cân bằng với lãi suất USD; vì vậy, sẽ hạn chế tiêu dùng và đầu tư trong nước. Hơn nữa, hiện nay hầu hết các NHTM đều đang thừa vốn huy động nhiều hơn cho vay (tình trạng do rất nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, nhưng trong khuôn khổ bài viết chỉ đề cập tới hai nguyên nhân tương đối quan trọng, đó là: giới hạn phạm vi đối tượng cho vay ngoại tệ và việc tăng lãi suất trên thị trường tài chính quốc tế ). Phạm vi đối tượng cho vay ngoại tệ hẹp : chỉ cho vay ngoại tệ để thanh toán hàng nhập khẩu vật tư, hàng hoá, máy móc, thiết bị và dịch vụ cho nước ngoài. Trong khi đó, lãi suất trên thị trường quốc tế vẫn liên tục tăng cao hơn so với lãi suất ngoại tệ trong nước. Chỉ với hai lí do này đã khiến các nhà đầu tư trong nước (NHTM) tìm kiếm cơ hội đầu tư ra nước ngoài (gửi ngoại tệ ). Vậy làm thế nào để khắc phục tình trạng nêu trên ?
Theo một số chuyên gia kinh tế, để hạn chế được tình trạng các NHTM gửi ngoại tệ ra nước ngoài trong khi các doanh nghiệp trong nước đói vốn, nên sử dụng một số biện pháp hành chính như : Không cho phép các NHTM gửi ngoại tệ ra nước ngoài hoặc công bố trần lãi suất huy động USD. Điều này có thực hiện được không?
Nếu đưa ra một mức trần huy động USD sẽ có những bất lợi sau : Hạn chế khả năng huy động vốn ngoại tệ của các ngân hàng, ảnh hưởng đến khả năng tăng tỷ lệ tiết kiệm của quốc gia trong khi nước ta đang cần một lượng vốn rất lớn cho sự nghiệp phát triển kinh tế, Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá đất nước với phương châm phát huy nội lực là chính kết hợp với việc khai thác triệt để các nguồn vốn huy động từ nước ngoài.
Còn đưa ra biện pháp hành chính hạn chế các NHTM gửi tiền ra nước ngoài cũng là việc không nên làm, vì như vậy, sẽ thu hẹp phạm vi, rối loạn hoạt động của các NHTM. Do hiện nay, các NHTM huy động được nhiều USD từ nguồn tiết kiệm trong dân, trong khi đó, lại chưa tìm thấy những cơ hội cho vay vốn USD đối với các dự án trong nước. Nếu không sinh lời, thì ngân hàng không đảm bảo được hoạt động kinh doanh của mình, sẽ hạn chế việc thu hút thêm nguồn vốn tiết kiệm ngoại tệ trong dân. Điều này cũng có nghĩa là làm giảm tỷ lệ tiết kiệm của nền kinh tế – một nguồn vốn cực kỳ quan trọng cho sự phát triển kinh tế nước nhà.
Trong nền kinh tế thị trường, lãi suất phải do thị trường quyết định. Trong tình hình hiện nay của nước ta, nếu chưa có điều kiện để tự do hoá lãi suất, thì cũng không nên đưa thêm các biện pháp quản lý mang tình hành chính để kiểm soát, vì như vậy sẽ tạo thêm những lực cản cho tiến trình tự do hoá mà chúng ta đang theo đuổi, hạn chế quá trình phát triển, hội nhập của nền kinh tế nước ta.
Một số ý kiến khác lại cho rằng, giải pháp để khắc phục tình trạng trên là cần mở rộng phạm vi đối tượng cho vay ngoại tệ.
Tuy nhiên, đứng ở giác độ NHTƯ, để giải quyết được vấn đề này, ngoài việc bổ sung, sửa đổi một số điều trong chính sách quản lý ngoại hối, chúng ta cần phối hợp với việc thực hiện một số giải pháp hỗ trợ khác như : Thực hiện cơ chế điều hành tỷ giá linh hoạt hơn, phù hợp với cơ chế thị trường, giải quyết mối quan hệ giữa lãi suất nội, ngoại tệ giữa lãi suất trong nước với lãi suất quốc tế, giữa chính sách lãi suất với chính sách tỷ giá… tạo sự ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, giúp các NHTM mở rộng được cơ hội đầu tư trong nước, thu hút được các nguồn vốn đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp có thêm nhiều nguồn vốn mở rộng sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế, góp phần thúc đẩy sự nghiệp Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá đất nước.
Phần ba: Xu hướng phát triển của vấn đề trong tương lai và một số kiến nghị.
I- Sự phát triển của vấn đề trong tương lai:
1. Xu hướng phát triển của thị trường vốn trong khu vực:
Việt Nam đang xúc tiến chuẩn bị hội nhập nền kinh tế trong khu vực và quốc tế. Chính vì vậy hoạt động tài chính nói chung và hoạt động trên thị trường vốn nói riêng của ngành ngân hàng phải rất tích cực nhằm đạt đến trình độ đủ điều kiện hội nhập. Chúng ta phải luôn quan tâm tới xu hướng phát triển của thị trường vốn ở trong khu vực cũng như trên thế giới.
Theo các nhà phân tích thì trong những năm tới thị trường vốn trong khu vực Châu á sẽ phát triển theo xu hướng cơ bản sau :
Xu hướng thành lập khối tiền tệ khu vực bằng cách liên kết một số đồng tiền và thiết lập một dạng “Euro Châu á” hoặc bằng cách liên kết xung quanh đồng Yên Nhật.
Khu vực ngân hàng chuyển một phần đáng kể vai trò phân phối lại các nguồn vốn sang cho thị trường chứng khoán.
Cơ cấu các công cụ tài chính đang thay đổi theo hướng chứng khoán hoá với tốc độ lưu chuyển vốn ngày càng gia tăng.
Nhu cầu vay nợ Chính phủ của các nước có xu hướng giảm xuống nhờ thực thi chính sách cắt giảm thâm hụt ngân sách.
Nguồn vốn trên thị trường tăng trưởng mạnh nhờ thay đổi cung-cầu và ứng dụng công nghệ cao như công nghệ Internet trong giao dịch mua bán chứng khoán.
Khu vực tài chính và khu vực
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35134.doc