MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu 1
I- Qúa trình vươn ra thị trường nước ngoài của công ty may Thăng Long 3
2. Phân tích quá trình vươn ra thị trường nước ngoài của công ty 6
2.1. Động cơ vươn ra thị trường nước ngoài của công ty 6
2.2. Những rào cản trong quá trình vươn ra thị trường nước ngoài của công ty may Thăng Long 7
II- Những cơ hội và thách thứch đối với công ty may Thăng Long trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay 10
1. Những cơ hội 10
2. Thách thức đối với công ty trong quá trình toàn cầu hoá hiện nay 11
III- Bài học kinh nghiệm 12
1. Phải phân tích sản phẩm và khả năng thích ứng của sản phẩm trên thị trường 12
2. Tạo uy tín cho sản phẩm 13
3. Đổi mới sản phẩm và theo dõi sản phẩm trên thị trường 13
4. Nâng cao hoạt động hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm 13
5. Nâng cao trình độ quản lý và tay nghề công nhân 13
Kết Luận 15
Danh mục tài liệu tham khảo 16
17 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1477 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề án Qúa trình vươn ra thị trường nước ngoài của công ty may Thăng Long- Những cơ hội và thách thức trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ường nước ngoài đã gặp phải. Vì thế, với những kiến thức đã học được trên ghế nhà trường và những thông tin thực tế thu thập được, em mạnh dạn xin viết đề tài:”Qúa trình vươn ra thị trường nước ngoài của công ty may Thăng Long- Những cơ hội và thách thức trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay”, nhằm hiểu rõ hơn về vấn đề này.
Với trình độ và kiến thức có hạn của em cho nên việc tiếp cận đề tài này không tránh khỏi thiếu sót. Vì vậy em rất mong sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn có cùng sự quan tâm đến đề tài này, để bài viết của em được hoàn chỉnh hơn. Qua đây em xin bày tỏ lòng cám ơn trân thành tới cô giáo TS Nguyễn Thị Hường đã hết sức tận tình giúp đỡ chỉ bảo để đề tài này được hoàn thành.
Nội dung chính của đề án này gồm 3 phần chính:
I- Qúa trình vươn ra thị trường nước ngoài của công ty may Thăng Long
II- Những cơ hội và thách thức đối với công ty trong quá trình toàn cầu hoá hiện nay
III- Bài học kinh nghiệm
I- Qúa trình vươn ra thị trường nước ngoài của công ty may Thăng Long
1. Giới thiệu quá trình vươn ra thị trường của công ty
Công ty may Thăng Long được thành lập ngày 5-8-1958, lúc bấy giờ có tên là Công ty may xuất khẩu Hà Nội. (Từ 1980 đổi thành xí nghiệp may Thăng Long, rồi công ty ). Ban đầu công ty thuộc bộ Ngoại thương, sau đó chuyển thành Bộ Nội thương, rồi Bộ Công nghiệp nhẹ và nay thuộc Bộ Công nghiệp. Đây là một trong những cơ sở làm hàng xuất khẩu đầu tiên của Việt Nam. Tuy vậy, lúc đầu cũng mới nhận làm một số hàng đơn giản như đồ bảo hộ lao động, ga gối cho các bệnh viện... Những mặt hàng này được xuất sang các nước XHCN Đông Âu lúc bấy giờ theo các hiệp định thư ký giữa chính phủ ta và chính phủ các nước đó. Sau đấy, công ty tiến thêm một bước nữa, may mặc hàng áo sơ mi. Sản phẩm của Công ty có mặt tại thị trường Liên Xô và mở rộng tới Cộng hoà dân chủ Đức, được người tiêu dùng quan tâm và chấp nhận. Từ năm 1960 đến năm 1980, mặc dù gặp nhiều khó khăn do chiến tranh và hậu quả của chiến tranh, công ty vẫn tiếp tục đầu tư thêm máy móc thiết bị mới, hiện đại để nâng cao năng xuất lao động, chất lượng sản phẩm. Thị trường tiêu thụ của công ty đã vươn tới Pháp, Hungari, Thuỵ Điển. Từ năm 1980 đến 1985, công ty chuyển hướng mạnh mẽ từ chỗ các vật tư và nguyên vật liệu do nhà nước cấp sang sản xuất và gia công hàng hoá bằng nguyên vật liệu do khách hàng đưa tới, chuyển từ xuất khẩu mậu dịch sang sản xuất gia công xuất khẩu. Có thể nói những năm từ 1980 đến 1988 là thời kỳ hoàng kim của công ty, là thời kỳ phát triển mạnh của công ty. Vào giai đoạn đó, mỗi năm công ty xuất đi 5 triệu chiếc áo sơ mi ( 3 triệu xuất sang thị trường Liên Xô, một triệu xuất sang Cộng hoà dân chủ Đức, một triệu chiếc còn lại dành những thị trường khác). Chiếc áo sơ mi Thăng Long trở thành nổi tiếng. Và không hẳn dễ gì để kiếm được một chiếc! Chiếc áo sơ mi trở thành niềm tự hào, là mặt hàng truyền thống của công ty.
Năm 1986, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6 đã đề ra 3 chương trình kinh tế lớn của đất nước là đẩy mạnh sản xuất lương thực, thực phẩm hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Công ty may Thăng Long được giao nhiệm vụ phải đẩy mạnh xuất khẩu và đáp ứng một phần nhu cầu trong nước. Nguyên phụ liệu không đủ cho sản xuất Công ty đã chủ động tạo nguồn nguyên vật liệu với Unimex, với Nhà máy dệt 8/3 và với nhiều đơn vị khác để thực hiện cho được tiến độ sản xuất và kế hoạch Nhà nước giao cho. Được phép của Bộ Công nghiệp công ty chuyển sang phương thức xuất nhập khẩu, ký kết hợp đồng trực tiếp với nước ngoài mua nguyên vật liệu bán thành phẩm. Với phương thức mới này công ty có điều kiện chủ động hơn và hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hơn. Đây thực sự là bước nhảy vọt trong thời kỳ 1986-1989. Nhưng sự phát triển đó không còn nữa khi bắt đầu từ 1989 những khó khăn ập tới.
Thị trường truyền thống là các nước XHCN Đông Âu dần dần mất đi. Năm 1990, thị trường Đức không còn. Năm 1991, Liên Xô và hệ thống XHCN Đông Âu tan rã. Các hiệp định ký giữa Việt Nam và các nước trên không còn hiệu lực. Hàng hoá không còn nơi tiêu thụ. Công ty may Thăng Long đứng trước một sự hẫng hụt lớn. Đang xuất khẩu trên 5 triệu chiếc sơ mi mỗi năm. Lúc này trở về điểm không.
Thêm vào đó, bắt đầu từ 1989, đất nước từng bước chuyển đổi cơ chế, từ bao cấp sang nền kinh tế thị trường. Cái cũ, lạc hậu phải bỏ, cái mới phù hợp hơn còn đang hình thành. Song con đường đi là thế nào thì không phải một sớm một chiều đã nhìn thấy ngay.Tất cả đang ở giai đoạn thử nghiệm mò mẫm.
Năm 1990, công ty bắt đầu làm quen với thị trường Tây Đức và Thụy Điển. Đương nhiên ở giai đoạn mới phải làm dè dặt như thể một thử nghiệm. Vừa làm vừa xem chừng để rút kinh nghiệm... Nhằm có quần áo bán ra, công ty cố gắng sử dụng nguyên liệu trong nước, công ty cử người đi các cơ sở dệt, chọn vải, chọn mẫu, xem xét chất lượng để chào hàng và mặt hàng này xuất sang Thụy Điển, có hiệu quả.
Năm 1990,1991, công ty mạnh dạn cho ra đời sản phẩm mới: quần áo Jin. Đây là mặt hàng vải cứng khó may và khó tìm nguyên liệu. Để giải quyết hai khâu này, một mặt công ty đưa công nghệ may quần áo Jin vào sử dụng, mặt khác khai thác triệt để nguyên liệu sẵn có. Song, để có mầu hợp thị hiếu, vải phải nhuộm, phải mài, sản phẩm làm ra đã đáp ứng được nhu cầu thị hiếu của khách hàng. Công ty đã chào hàng và gửi mẫu hàng cho các bạn hàng, ngay lập tức công ty đã ký được hợp đồng xuất sang Tây Đức được hàng trăm ngàn chiếc.
Những phương thức trên là “biện pháp tình thế”, nhưng rõ ràng là tạo ra được lợi nhuận, công nhân có công ăn việc làm, tạo đà cho sự phát triển ở những năm sau này.
Khi thị trường cũ không còn, tạo ra thị trường mới là nhiệm vụ sống còn của cơ sở sản xuất. Tồn tại hay không cũng là ở chỗ ấy. Những năm 1990-1991,đồng thời với việc tìm kiếm thị trường ở Tây Âu, công ty tiến hành tìm thêm bạn hàng mới ở châu á. Nơi có nhiều yếu tố thuận lợi nhất là Hàn Quốc. Tuy nhiên, khi bắt tay làm việc không phải không gặp trở ngại. Một trong những trở ngại đó là mẫu mã yêu cầu rất phức tạp, đồng thời hàng phải đảm bảo chất lượng cao. Cái khó ló cái khôn. Chính nhờ làm hàng có mẫu mã phức tạp, có chất lượng mà tay nghề của đội ngũ công nhân được nâng cao.
Thời kỳ trước, hợp đồng ký với số lượng sản phẩm lớn, thì nay mỗi hợp đồng chỉ vài ba ngàn sản phẩm. Đã vậy mặt hàng lại đa dạng(Jakét, sơ mi...). Thị trường mới có những yêu cầu rất cao, đòi hỏi phải có cố gắng lớn. Tuy nhiên, ban lãnh đạo công ty không chịu bó tay, với uy tín và kinh nghiệm sản xuất kinh doanh nhiều năm trong thị trường may mặc, cộng với sự nỗ lực của các cán bộ, sự hỗ trợ to lớn về cơ chế, chính sách của Nhà nước nên công ty đã tìm được các thị trường mới, thích ứng với sự cạnh tranh gay gắt của thị trường, từng bước ổn định sản xuất.Từ 1992 công ty đã sản xuất theo các đơn đặt hàng và nhận gia công cho các bạn hàng ở các nước Thụy Điển, Tây Đức, Liên Xô, Ba Lan, Tiệp Khắc, Hàn Quốc, cho nên sản phẩm của công ty được xuất khẩu trực tiếp theo các đơn đặt hàng này mà không phải qua các trung gian. Công tác tiêu thụ sản phẩm của công ty không ngừng được nâng cao cả về mặt giá trị và số lượng cũng như chủng loại. Sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của công ty là các mặt hàng: Aó Jacket, Aó sơ mi, Aó dệt kim, Quần bò, Quần âu. Trong những năm qua Công ty may Thăng Long đã đạt được hiệu quả đáng mừng cho ngành may mặc gia công nước nhà nói chung và công ty may Thăng Long nói riêng. Đó là những thành tựu to lớn trong thời buổi kinh tế thị trường đang trên con đường vừa phải tìm hướng sản xuất kinh doanh làm sao cho thị trường nước ngoài chấp nhận sản phẩm của mình. Có thể nói rằng những sản phẩm mà công ty xuất khẩu sang thị trường nước ngoài cũng đạt được yêu cầu về chất lượng sản phẩm cho nên những năm sau đó các bạn hàng nước ngoài vẫn ký và làm ăn. Đặc biệt là các bạn hàng ở những nước đông âu cũ như Liên Xô, Ba Lan, Tiệp Khắc... Chính vì sản phẩm chất lượng cao mà giá thành lại hợp lý nên công ty đang dần dần phát triển sang các nước như Nhật, Hồng Công, Đức, Pháp...
Sở dĩ công ty chọn hình thức xuất khẩu theo các đơn đặt hàng và theo gia công mà không phải là đầu tư trực tiếp và các hình thức khác là do khả năng về tài chính, nhân lực có hạn, trang thiết bị máy móc lạc hậu. Công ty chưa có đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ mang tầm quốc tế, chưa có phòng chuyên nghiên cứu về thị trường nước ngoài, chưa có đội ngũ thiết kế thời trang chuyên nghiệp…Mặt khác đầu tư trực tiếp thì chi phí về nhà xưởng, chi phí nhân công rất đắt làm cho giá thành cao khó có thể cạnh tranh nổi. Cho nên đến bây giờ công ty vẫn chỉ dừng lại ở các hình thức này.
2. Phân tích quá trình vươn ra thị trường nước ngoài của công ty
2.1. Động cơ vươn ra thị trường nước ngoài của công ty
Động cơ vươn ra thị trường nước ngoài của công ty may Thăng Long bắt nguồn từ những lý do sau:
+ Tăng lợi nhuận
Mục tiêu của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh là lợi nhuận, lợi nhuận giúp công ty tồn tại và phát triển. Muốn có được nhiều lợi nhuận, công ty phải mở rộng được sản xuất. Cũng như các doanh nghiệp trong nước khác việc mở rộng thị trường ra nước ngoài là điều mơ ước của nhiều doanh nghiệp. Công ty may Thăng Long đã xuất khẩu được hàng hóa sang thị trường nước ngoài nơi mà có thể kiếm được nhiều lợi nhuận hơn khi tiêu thụ cùng loại hàng hóa đó trong thị trường nội địa. Việc xuất khẩu được hàng hóa ra thị trường nước ngoài với những hợp đồng lớn tạo ra sự ổn định trong sản xuất kinh doanh của công ty, tạo ra ngày càng nhiều lợi nhuận hơn. Vì vậy đây có thể nói là một động cơ lớn nhất của ông ty để vươn ra thị trường nước ngoài.
+ Đạt chỉ tiêu pháp lệnh.
Công ty may Thăng Long khác với các công ty, doanh nghiệp khác ở chỗ đây là một đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc thành phần kinh tế nhà nước. Hơn hết công ty phải hiểu rõ các chủ trương đường lối chính sách của Đảng và nhà nước. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ Vi đã đề ra 3 chương trình kinh tế lớn. Sau đó công ty được giao nhiệm vụ phải đẩy mạnh xuất khẩu để thu ngoại tệ về cho đất nước. Đây là một vinh dự lớn được nhà nước tin tưởng giao cho nhưng cũng là một trọng trách lớn vì khi đó cơ sở vật chất của công ty còn nghèo nàn, quy mô sản xuất còn nhỏ bé. Thế nhưng bằng nỗ lực của mình công ty đã hoàn thành được chỉ tiêu nhà nước giao cho.
+ Giải quyết công ăn việc làm và đời sống công nhân viên.
Tình hình kinh doanh trong nước gặp nhiều khó khăn không thể đảm bảo việc làm ổn định cũng như đời sống trong một đội ngũ cán bộ công nhân viên đông đảo. Để giải quyết được việc này không có cách nào khác công ty phải vươn ra thị trường nước ngoài nơi có sức tiêu thụ lớn, cho doanh thu cao và công ty đã vươn ra được nhiều thị trường trên thế giới, ký kết được nhiều hợp đồng xuất khẩu có giá trị lớn, tạo thu nhập và việc làm ổn định cho cán bộ công nhân viên.
2.2. Những rào cản trong quá trình vươn ra thị trường nước ngoài của công ty may Thăng Long
+Văn hoá
Bất kể một công ty nào khi thâm nhập ra thị trường nước ngoài đều phải nghiên cứu vấn đề văn hoá của nước mà công ty mình muốn thâm nhập. Bởi vì mỗi nước đều có ngôn ngữ, bản sắc văn hoá riêng của mình. Nó thể hiện tập quán, thói quen tiêu dùng hàng hoá của người dân nước này. Nếu doanh nghiệp không tìm hiểu về nền văn hoá của nước mà công ty định thâm nhập thì dễ lâm vào tình cảnh công ty sẽ không bán được hàng hoá ở trên thị trường này. Vì hàng hoá không đáp ứng được thị hiếu của người dân do nó không đúng theo phong tục tập quán, thẩm mỹ của nước này. Không những vậy ngôn ngữ là một bước ngăn cản chính vì trong các hợp đồng không biết nên sử dụng thứ ngôn ngữ nào để cho cả hai bên hiểu được ngôn từ trong hợp đồng. Trong trường hợp sử dụng ngôn ngữ khác không thể tránh được những bất đồng xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng. Công ty may Thăng Long có các bạn hàng ở nhiều nước khác nhau, mà khả năng công ty có hạn, không thể nghiên cứu hết được các nền văn hoá. Cho nên vấn đề văn hoá là một rào cản rất lớn đối với công ty khi thâm nhập thị trường nước ngoài.
+ Chính trị – luật pháp
Mỗi một quốc gia có một nền chính trị –luật pháp khác nhau, đôi khi trái ngược nhau, thậm chí ngay trong một quốc gia cũng có nhiều hệ thống luật pháp khác nhau cùng tồn tại. Đơn cử ngay như nước Mỹ có rất nhiều bang, mỗi bang lại có một hệ thống luật pháp riêng. Các quốc gia sử dụng hệ thống luật pháp của mình để bảo vệ lợi ích cho đất nước của họ. Chẳng hạn như họ sử dụng biện pháp đánh thuế nhập khẩu cao, làm cho giá hàng hoá nhập khẩu vào cao, khó có thể cạnh tranh được với hàng hoá do nước đó sản xuất ra, sử dụng hạn nghạch, các qui định nghiêm ngặt về tiêu chuẩn chất lượng, bảo vệ môi trường…để hạn chế hàng hoá của nước ngoài tràn vào. Đây là những vấn đề mà công ty đã gặp phải trong quá trình kinh doanh, nó cũng là rào cản rất lớn đối với công ty khi thâm nhập ra thị trường nước ngoài.
+ Môi trường kinh tế
Môi trường kinh tế của quốc gia bao gồm các vấn đề như lãi suất, tỷ giá hối đoái, lạm phát... Môi trường kinh tế của quốc gia nào mà tốt thì tạo điều kiện thuận lợi cho kinh doanh. Ngược lại môi trường kinh tế của quốc gia nào mà không tốt sẽ gây rất nhiều khó khăn khi kinh doanh ở quốc gia đó. Khi mới thành lập công ty đã kinh doanh với những bạn hàng ở các nước xã hội chủ nghĩa, nơi có môi trường kinh tế rất tốt. Thế nhưng khi hệ thống xã hội chủ nghĩa tan rã, môi trường kinh tế của các quốc gia này không ổn định, công ty đã gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí mất hết thị trường, trở về con số không. Kể cả ngay trong môi trường kinh tế của Việt Nam mà không ổn định, tỷ giá thay đổi thất thường cũng gây trở ngại rất nhiều cho công ty khi xuất khẩu hàng hoá ra thị trường nước ngoài. Cho nên môi trường kinh tế cũng là một rào cản tương đối lớn khi mà thâm nhập ra thị trường nước ngoài.
+ Cạnh tranh
Khi kinh doanh ở một thị trường có nhiều đối thủ cạnh đã gặp nhiều khó khăn, còn khi kinh doanh ở thị trường có môi trường cạnh tranh không bình đẳng thì càng khó khăn hơn. Nhất là với một công ty khi mới thâm nhập vào thị trường đó, khi mà hiểu biết về thị trường còn hạn chế.
Thị trường của công ty may Thăng Long là các thị trường có môi trường cạnh tranh gay gắt, đối thủ cạnh tranh của công ty rất nhiều, họ đã đến trước, đã khai thác được lợi thế cạnh tranh của người đến trước. Chính họ là những rào cản lớn đối với công ty khi thâm nhập vào các thị trường này.
Mặc dù gặp những rào cản lớn như môi trường văn hoá, môi trường chính trị- luật pháp, môi trường kinh tế và cạnh tranh như vậy nhưng công ty may Thăng Long đã gặt hái được nhiều thành công. Nguyên nhân dẫn đến sự thành công của công ty là ở chỗ công ty đã tạo được thế cạnh tranh trên thị trường bằng cách phát huy các ưu điểm của mình thông qua việc nghiên cứu, bám sát thị trường, nghiên cứu nhu cầu khách hàng... Do vậy, uy tín của công ty được nâng cao và sản lượng tiêu thụ tăng nhanh chóng. Bằng sự năng động cuả mình công ty đã tạo ra những sản phẩm may Thăng Long đến được các thị trường khó tính nhất trên thế giới, sản phẩm của công ty được tiêu thụ trên thị trường của hơn 40 nước trên thế giới như Đức, Nhật, Pháp, Mỹ, Hồng Kông, Hàn Quốc... Có thể nói công ty may Thăng Long là một trong những công ty làm ăn có hiệu quả và thâm nhập thị trường nước ngoài khá thành công. Tuy nhiên trong thời đại hiện nay, nền kinh tế thị trường của Việt Nam đang phát triển mạnh và xu thế toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ sẽ tạo ra nhiều cơ hội và thách cho công ty may Thăng Long.
II- Những cơ hội và thách thứch đối với công ty may Thăng Long trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay
1. Những cơ hội
Xu thế tự do hoá thương mại đối với ngành Dệt May đang được thực hiện từng bước theo lịch trình của Hiệp định ATC (Agreement on Textile and Clothing). Theo hiệp định này đến năm 2005 sẽ xoá bỏ hoàn toàn hạn ngạch đối với các nước thuộc thành viên Tổ chức thương mại thế giới (WTO), đây là một cơ hội to lớn đối với ngành Dệt may nói chung và công ty may Thăng Long nói riêng khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Cơ hội là vì thị trường được mở rộng không có bất cứ cản trở nào. Công ty không còn phải mất chi phí về hạn nghạch, làm cho chi phí giá thành sản phẩm giảm, do đó tăng khả năng cạnh tranh của công ty.
Việt Nam tham gia vào AFTA, thực hiện tiến trình CEPT, công ty sẽ có điều kiện xuất khẩu hơn vào một thị trường hơn 400 triệu dân của khu vực ASEAN với sự đòi hỏi chất lượng sản phẩm không quá cao như thị trường Âu, Mỹ. Mặt khác đây là thị trường có nhiều nét tương đồng với Việt Nam như tầm vóc... Điều này tạo ra nhiều thuận lợi cho công ty trong việc thiết kế mẫu thời trang cũng như việc chiếm lĩnh thị trường này.
Hiệp định thương mại Việt- Mỹ đã có hiệu lực. Với dân số trên 270 triệu dân, hàng năm Mỹ có nhu cầu nhập khẩu trên 60 tỷ USD hàng dệt may, đây là nhu cầu rất lớn. Hơn nữa Mỹ lại là một nước đa sắc tộc, đa văn hoá nên nhu cầu hàng may mặc rất đa dạng. Đây là cơ hội rất lớn để công ty khai thác đặc điểm này của thị trường Mỹ.
Ngoài ra hiện nay công ty may Thăng Long đang có một đội ngũ cán bộ có trình độ, nhạy bén, năng động, sáng tạo, có một đội ngũ công nhân lành nghề có tay nghề kỹ thuật cao có khả năng tiếp thu nhanh khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại, giá công lao động lại rẻ. Gía công lao động VN rẻ nhất khu vực Châu á từ 0.16-0.35 USD/giờ so với 0.32$/h của inđônexia, 0.37 $/h của Pakistan, 0.58 ($/h) của ấn Độ, 0.70 ($/h) của Trung Quốc, 1.13 ($/h) của Malayxia, 1.18 ($/h) của Thái Lan. Những điều trên cho thấy công ty có khẳ năng tạo ra những yếu tố cạnh tranh lớn cho các sản phẩm của mình. Mặt khác ngày 23.4.2001 Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt chiến lược phát triển hàng dệt may Việt Nam đến năm 2010 với các cơ chế chính sách cởi mở và ưu tiên nhiều cho ngành dệt may phát triển và coi là một trong những ngành công nghiệp mũi nhọn, có vai trò quan trọng trong việc thu ngoại tệ và giải quyết công ăn việc làm. Đây là cơ hội to lớn cho ngành dệt may Việt Nam nói chung và công ty may Thăng Long nói riêng.
2. Thách thức đối với công ty trong quá trình toàn cầu hoá hiện nay
Qúa trình toàn cầu hoá đã tạo ra nhiều cơ hội cho công ty nhưng bên cạnh đó sẽ có rất nhiều thách thức mà công ty phải đối mặt đó là công ty chưa chủ động được nguyên vật liệu đầu vào, phải nhập từ nước ngoài, nguyên vật liệu ở trong nước thì chưa đầy đủ và chất lượng còn hạn chế, chưa có đội ngũ thiết kế mẫu mã phù hợp với thị hiếu tiêu dùng trên thế giới, sản phẩm xuất khẩu thường được sản xuất theo phương thức gia công, công tác thị trường còn nhiều hạn chế, còn phải qua trung gian, chưa xây dựng được thương hiệu mang tầm quốc tế. Trong giai đoạn hiện nay một số nước nhập khẩu chính vẫn áp dụng hạn ngạch khắt khe hoặc các chính sách phân biệt đối xử làm cho hàng hoá của công ty không có sức cạnh tranh so với hàng hoá của các nước khác và hiện nay công ty đang ở thế bất lợi khi hầu hết các nước, khu vực có tiềm năng xuất khẩu lớn đều là thành viên của WTO điều đó giúp cho các doanh nghiệp của họ khai thác được những lợi thế của người đi trước
Việt Nam tham gia vào AFTA, thực hiện tiến trình CEPT điều này cũng đặt Công ty trước những thách thức đó là hàng dệt may của ta đang được bảo hộ ở mức cao sẽ phải giảm dần xuống mức 5% vào 2006 điều này làm cho hàng dệt may của các nước trong khu vực tràn vào cạnh tranh gay gắt với các sản phẩm của công ty ngay trong thị trường nội địa. Nếu không khắc phục được những yếu điểm trên thì nguy cơ thị trường nội địa cũng khó giữ được chứ chưa nói đến thị trường nước ngoài.
Với xu thế tự do hoá thương mại đối với ngành dệt may, công ty đang phải cạnh trạnh gay gắt từ các công ty của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Trước hết là các thành viên của ASEAN, đặc biệt là 6 nước thành viên cũ họ đã có nhiều nhãn hiệu quen thuộc, có uy tín trên thị trường thế giới, đặc biệt là Philipines vốn đã nổi tiếng trên thế giới về mặt hàng may mặc có chất lượng cao, thời gian giao hàng đúng hạn, giá cả cạnh tranh. Đặc biệt là quần áo trẻ em và quần áo phụ nữ của Philipines đã nổi tiếng trên thị trường Mỹ nhiều năm nay về chất lượng cao. Bên cạnh đó là các doanh nghiệp của Trung Quốc do TQ đã ra nhập tổ chức Thương mại thế giới nên các doanh nghiệp của họ được rất nhiều ưu tiên làm cho các doanh nghiệp của họ có nhiều lợi thế hơn trong quá trình cạnh tranh.
Tuy hiệp định thương mại Việt- Mỹ đã có hiệu lực nhưng vào thị trường Mỹ gặp rất nhiều khó khăn về vấn đề luật pháp, họ quy định rất chặt chẽ và khắt khe về chất lượng, nhãn hiệu, biểu tượng... Đây là một thách thức rất lớn đối với công ty khi thâm nhập vào thị trường này.
Trên đây là những cơ hội và thách thức lớn nhất mà quá trình toàn cầu hoá đem lại không chỉ cho riêng công ty may Thăng Long mà còn cho nhiều công ty, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng may mặc. Điều này đòi hỏi mỗi công ty, mỗi doanh nghiệp phải nhận thức được để tồn tại và phát triển trong quá trình toàn cầu hoá hiện nay.
III- Bài học kinh nghiệm
Qua quá trình 42 năm hoạt động vươn lên của công ty đã rút ra được những bài học kinh nghiệm để vươn ra thị trường nước ngoài được thành công thì:
1. Phải phân tích sản phẩm và khả năng thích ứng của sản phẩm trên thị trường
Thực tế cho thấy rằng từ khi các hiệp định thư ký giữa chính phủ ta với các nước không còn hiệu lực thì thị trường ở các nước này dần bị mất đi điều đó chứng tỏ một phần là vì sản phẩm của công ty không còn được chấp nhận ở các thị trường này nữa hay là sản phẩm đã không đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Do đó, điều quan trọng đầu tiên khi vươn ra thị trường nước ngoài là phải nghiên cứu xem sản phẩm của công ty có phù hợp với thị trường này hay không, những điểm mạnh, yếu của sản phẩm và chu kỳ sống của sản phẩm, cùng với sự phân tích sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. Các hoạt động này giúp công ty đánh giá được mình, đánh giá được khả năng và mức độ thành công của sản phẩm trên thị trường.
2. Tạo uy tín cho sản phẩm
Đây là vấn đề rất quan trọng có ý nghĩa sống còn đối với doanh nghiệp,là vấn đề then chốt tạo nên uy tín của công ty, giúp công ty có mối làm ăn lâu dài với các bạn hàng và khách hàng.
Ngoài vấn đề nâng cao chất lượng sản phẩm để tạo uy tín cho sản phẩm còn phải quan tâm đến bao bì, đóng gói, thẩm mỹ... tạo nên sự hấp dẫn của hàng hoá đối với khách hàng, góp phần xây dựng lên một thương hiệu nổi tiếng của công ty.
3. Đổi mới sản phẩm và theo dõi sản phẩm trên thị trường
Phải có kế hoách đổi mới sản phẩm để cho sản phẩm đáp ứng được nhu cầu luôn thay đổi ngày càng đa dạng phong phú của khách hàng nên phải có một đội ngũ thiết kế thời trang tinh nhuệ để đáp ứng được điều này. Phải thường xuyên theo dõi độ thích nghi của sản phẩm trên từng thị trường, theo dõi xu hướng phát triển của sản phẩm khả năng mở rộng thị trường và những biến động của nhu cầu thị trường. Từ đó giúp công ty xác lập được chiến lược đổi mới sản phẩm cho phù hợp.
4. Nâng cao hoạt động hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm
Muốn đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ thì phải cho người tiêu dùng biết đến sản phẩm của mình cho nên phải tích cực quảng cáo, tham gia các hội chợ triển lãm, hoạt động quan hệ công chúng, xúc tiến bán hàng...
5. Nâng cao trình độ quản lý và tay nghề công nhân
Qúa trình vươn ra nước ngoài của công ty có những lúc gặp rất nhiều khó khăn tưởng như không vượt qua nổi, thế nhưng với sự năng động nhạy bén và quyết tâm cao của đội ngũ cán bộ quản lý, cùng với đội ngũ công nhân đầy nhiệt huyết, có tay nghề cao đã giúp công ty vượt qua được những lúc khó khăn đó. Trong quá trình toàn cầu hoá hiện nay, công ty phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt từ các đối thủ của các quốc gia trên thế giới do vậy luôn phải quan tâm đến chính sách đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và công nhân để có thể đứng vững được trên thị trường.
Kết Luận
Qua quá trình nghiên cứu cho thấy hơn 40 năm trưởng thành và phát triển, trải qua một công cuộc đổi thay từ nền kinh tế quản lý tập trung sang nền kinh tế thị trường cạnh tranh Công ty may Thăng Long đã khẳng định được vị thế của mình trên thị trường. Đây là điều mà nhiều doanh nghiệp không làm được. Không những vậy thời điểm đó cũng là một bước ngoặt làm thay đổi bộ mặt của doanh nghiệp, vị thế của doanh nghiệp trên thị trường. Từ đó tham gia vào thị trường xuất khẩu làm tăng doanh thu cho doanh nghiệp, nâng cao uy tín cho sản phẩm của công ty mình trên thị trường nội địa. Khi công ty đưa hàng hoá thâm nhập thị trường nước ngoài thì đã phải chịu một sự cạnh tranh ác liệt của các công ty trên thị trường nước ngoài. Không những phải chịu sự cạnh tranh ác liệt của các công ty nước ngoài như vậy mà còn chịu ảnh hưởng rất lớn của các rào cản như là văn hoá, chính trị luật pháp, môi trường kinh tế. Mặc dù vậy công ty đã vượt qua được những rào cản đó và đưa hàng hoá của công ty có mặt trên thị trường nước ngoài của hơn 40 quốc gia.
Nghiên cứu đề tài “ Quá trình vươn ra thị trường nước ngoài của công ty may Thăng Long – Những cơ hội và thách thức trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay” nhằm mục đích phân tích các động cơ, rào cản trong quá trình vươn ra thị trường nước ngoài và những cơ hội cũng như những thách thức mà công ty gặp phải trong quá trình toàn cầu hoá hiện nay. Đề tài này cũng nhằm giúp cho các doanh nghiệp trong nước nhận thấy được những cơ hội và thách thức khi v
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35336.doc