Đề án Quản lí rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngoại hối của ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam

Mục lục.

A. Lời mở đầu.2

B. Nội dung.

I.Khái quát chung về đề tài.

1. Tỷ giá.3

1.1. Khái niệm chung về tỷ giá hối đoái .3

1.2. Phân loại tỷ giá.3

1.3. Những nhân tố ảnh hưởng tới sự biến động tỷ giá.5

1.4. Chênh lệch tỷ giá.6

1.5. Kinh doanh chênh lệch tỷ giá ( nghiệp vụ ác-bit trên thị trường ngoại hối).6

2.Thị trường ngoại hối

2.1. Định nghĩa về thị trường ngoại hối.6

2.2. Chức năng của thị trường ngoại hối .7

2.3. Các đối tượng tham gia trên thị trường ngoại hối.7

2.4. Trạng thái ngoại tệ và rủi ro tỷ giá.9

2.4.1. Khái niệm .10

2.4.2. Rủi ro trong kinh doanh ngoại tệ và quy tắc phòng ngừa .10

II. Xây dựng mô hình giải quyết đề tài.11

III. Thử nghiệm áp dụng trong mô hình kinh tế - phân tích rủi ro tỷ giá dựa vào mô hình kinh tế lượng.

1. Phân tích và đánh giá rủi ro tỷ giá trong hoạt động kinh doanh ngoại hối của ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.12

2. Một số giải pháp phòng ngừa rủi ro

2.1. Lập danh mục đầu tư các ngoại tệ sao cho rủi ro của danh mục là nhỏ nhất.15

2.2. Ứng dụng nghiệp vụ phòng chống rủi ro hối đoái bằng các sản phẩm phái sinh.16

2.2.1. Hợp đồng kỳ hạn các loại ngoại tệ.16

2.2.2. Giao dịch hợp đồng tương lai .17

2.2.3 Giao dịch Swap ( Hoán đổi ).18

2.2.4. Hợp đồng giao dịch quyền lựa chọn .20

3. Một số kiến nghị .22

C. Kết luận .23

D. Mục lục.24

 

 

 

 

 

 

doc24 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4606 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Quản lí rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngoại hối của ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rằng tỷ giá cuỷa đồng tiền A và đồng tiền B niêm yết ở bất cứ một trung tâm tài chính nào đó cũng phải như vậy Ngiệp vụ ac-bit (cơ lợi ) giữa các đồng tiền : Loại nghiệp vụ này đảm bảo sự bằng nhau của tỷ giá chéo, theo nghĩa sau : Nếu tỷ giá của đồng tiên A và đồng tiền B là xA/1B và nếu tỷ giá của đồng tiền A và đồng tiền C là yA/1C thì tỷ giá giữa đồng tiên C và B là x/y. 2.Thị Trường Ngoại Hối : 2.1.Định Nghĩa Thị Trường Ngoại Hối : Thị trường ngoại hối là nhân tố hết sức quan trọng nếu không nói là không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường. Thị trường ngoại hối là nơi diễn ra các giao dịch trao đổi, mua bán, vay mượn ngoại tệ, là nơi thông qua sự cọ xát giữa cung và cầu ngoại tệ để thoả mãn các nhu cầu của các chủ thể kinh tế, đồng thời xác định các điều kiện giao dịch, tức là các giá cả, thời hạn và giao vốn. Ngoại tệ là đối tượng được mua bán, trao đổi, giao dich trên thị trường ngoại hối, nó không giống như những thị trừơng hàng hoá thông thường và cũng không giống thị trường chứng khoán ( giao dịch mua bán, chuyển nhượng chứng khoán có giá ) mà nó mang tính chất biểu tượng và được hiểu như là một cơ chế hơn là một địa điểm. Mô hình chính của thị rường ngoại hối là một hệ thống thông tin giữa những người tham gia. Thị trường ngoại hối không bắt buộc là một nơi hiện hữu cụ thể, nó được định nghĩa là thị trường mà ở đó người ta mua và bán nhiều loại tiền khác nhau, Những nhân tố nào sẽ quyết định tỷ lệ trao đổi giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ, hành vi của tỷ giá và những tác đọng của việc thay đổi tỷ giá là một trong những chủ đề của kinh tế học quốc tế . 2.2.Chức năng của thị trường ngoại hối : +) Giúp các khách hàng thực hiện các giao dịch thương mại quốc tế +) Giúp chu chuyển vốn giữa các quốc gia có hiệu quả, giá trị đối ngoại của tiền tệ được xác định một cách khách quan theo qui luật của thị trường. +) Có thể thực hiện bảo hiểm các khoản thu xuất khẩu, các khoản thanh toán nhập khẩu, các khoản đầu tư bằng ngoại tệ và các khoản vay bằng ngoại tệ thông qua các giao dịch kì hạn, quyền chọn, hợp đồng hoán đổi ... 2.3.Các đối tượng tham gia trên thị trường ngoại hối : * Căn cứ vào hình thái tổ chức của các thành viên : +) Khách hàng nhỏ lẻ : Bao gồm những nhà kinh doanh, những nhà đầu tư quốc tế, các công ty đa quốc gia, và những người cần trao đổi ngoại hối để phục vụ cho hoạt động kinh doanh của họ. Thông thường, những người này không trực tiếp mua hay bán đồng ngoại tệ, thay vào đó họ sẽ đặt lệnh mua/bán với ngân hàng thương mại. +) Ngân hàng thương mại : Ngân hàng thương mại thực hiện lệnh mua/bán từ khách hàng nhỏ lẻ của mình và thực hiện mua bán tiền tệ trên tài khoản của chính ngân hàng, nó sẽ làm thay đổi cấu trúc tiền tệ trong bảng cán cân tài sản và nguồn vốn của ngân hàng. Các ngân hàng có thể làm việc trực tiếp với các ngân hàng khác hoặc thông thường hơn là làm việc thông qua các nhà môi giới. Như vậy ngân hàng thương mại tiến hành giao dịch ngoại hối với hai mục đích : i) Cung cấp dịch vụ cho khách hàng mua bán lẻ bằng các dịch vụ mua, bán hộ ii) Giao dịch kinh doanh cho chính ngân hàng để kiếm lãi khi tỷ giá thay đổi. +) Những nhà môi giới ngoại hối : Thông thường ngân hàng không trực tiếp giao dịch với nhau, thay vào đó họ chào bán hoặc chào mua các đồng tiền thông qua các nhà môi giới ngoại hối. Hoạt động thông qua các nhà môi giới ngoại hối sẽ có lợi bởi vì họ có được bảng niêm yết tỷ giá mua và tỷ giá bán của hầu hết các ngân hàng đối với hầu hết các loại tiền, do vậy khi thông qua môi giới, người ta sẽ có một tỷ giá niêm yết có lợi nhất một cách nhanh chóng nhất và với chi phí thấp nhất. Mỗi trung tâm tài chính thông thường đều có một vài nhà môi giới có quản lý mà thông qua đó các ngân hàng thương mại có thể tiến hành giao dịch. +) Ngân hàng trung ương : Thông thường NHTW của mỗi quốc gia không thể bàng quan trước việc thay đổi trong giad trị đối ngoại của đồng tiền quốc gia mình, và mặc dù tỷ giá ở các nước công nghiệp lớn trên thế giới đã được để tự do biến động từ năm 1973 nhưng các ngân hàng trung ương vẫn thường xuyên can thiệp bằng cách mua hoặc bán đồng tiền ra để nhằm ảnh hưởng tới tỷ giá kỳ hạn giữa đồng tiền của quốc gia mình với các đồng tiền của quốc gia khác. Trong chế độ tỷ giá cố định, các nhà quản lý có nghĩa vụ phải mua tiền khi cung vượt quá cầu và bán tiền khi cầu vượt quá cung. * Căn cứ vào chức năng hoạt động của các thành viên trong thị trường ngoại hối : +) Những người tạo giá sơ cấp : Còn gọi là những nhà kinh doanh chuyên nghiệp hay những nhà tạo thị trường, tạo giá cho nhau trên cơ sở yết giá hai chiều. Khi được yêu cầu họ sẽ yết đồng thời giá mua vào và giá bán ra và sẽ mua vào và bán ra theo giá đã yết với số lượng hợp lý. Họ được gọi là những nhà bán buôn. Đó là những ngân hàng chính, những nhà đầu tư lớn và các công ty lớn. Tỷ gía giao dịch trên thị trường sơ cấp còn được gọi là tỷ giá bán buôn. +) Những người tạo giá thứ cấp : Trên cơ sở giá đã tạo ra trên thị trường sơ cấp, các nhà tạo giá thứ cấp tạo ra tỷ giá mua vào và bán ra phục vụ cho nhóm khách hàng của mình. Những người tạo giá trên thị trường thứ cấp còn gọi là những người bán lẻ. Tỷ giá giao dịch trên thị trường thứ cấp còn gọi là tỷ giá bán lẻ. Thị trường ngoại hối thứ cấp gọi là thị trường bán lẻ. Khi có xuất hiện cầu thêm về ngoại hối hoặc dư cung tạm thời về ngoại hối, những người tạo giá trên thị trường thứ cấp tiến hành giao dịch với các nhà tạo giá trên thị trường sơ cấp. +) Những người chấp nhận giá : Đó là những người tiến hành mua bán ngoại hối nhằm phục vụ cho mục đích riêng của mình. Họ không yết giá hai chiều cũng không tạo giá trên thị trường thứ cấp. Họ chỉ đơn thuần là những người chấp nhận giá và tiến hành giao dịch. +) Những nhà cung cấp dịch vụ tư vấn : Những người cung cấp các dịch vụ tư vấn ngoại hối dưới nhiều hình thức khác nhau cho khách hàng. Các dịch vụ tư vấn ngoại hối cũng được cung cấp dưới những hình thức rất đa dạng. Hầu hết các ngân hàng lớn và các nhà kinh doanh chính cũng cung cấp các dịch vụ tư vấn ngoại hối cho khách hàng của mình. +) Những nhà môi giới ngoại hối : Những nhà môi giới không phải là những nhà tạo thị trường, nghĩa là họ không mua vào cũng như không bán ra các ngoại tệ cho chính mình. Họ chỉ đơn thuần là người cung cấp các dịch vụ. Khi người mua và người bán đã chấp thuận giá của nhau, nhà môi giới thông báo cho hai người mua và bán là giao dịch đã được tiến hành. Nhà môi giới không chịu trách nhiệm về tiến trình giao dịch giữa các ngân hàng mà cung cấp dịch vụ liên ngân hàng. Các nhà tạo thị trường có thể giao dịch với nhau bằng các phương pháp khác nhau. Phương pháp thứ nhất là giao dịch trực tiếp. Phương pháp thứ hai là giao dịch thông qua các nhà môi giới. Giao dịch thông qua các nhà môi giới cho phép các nhà kinh doanh yết giá trên thị trường mà không phải xưng tên của mình. +) Những nhà đầu cơ : Những nhà đầu cơ trên thị trường ngoại hối gồm nhiều đối tượng khác nhau. Thí dụ : - Những nhà tạo thị trường hình thành các trạng thái ngoại hối khác nhau. - Các công ty thực hiện các giao dịch thương mại có phát sinh rủi ro ngoại hối và chậm trễ bảo hiểm hoậc không bảo hiểm cho tới khi thanh toán. -Các chính phủ cho vay hoặc đi vay bằng ngoại tệ nhưng chậm trễ bảo hiểm hoặc không bảo hiểm cho tới khi hợp đồng đáo hạn. - Các cá nhân mua cổ phiếu, trái phiếu hay các tài sản khác ghi bằng ngoại tệ mà không bảo hiểm rủi ro ngoại hối. Trong các trường hợp trên, người tham gia thị trường ngoại hối có thể lỗ hoặc lãi, khi tỷ giá biến động. Trong các thí dụ trên, khả năng xảy ra rủi ro ngoại hối là như nhau. Vì thế có thể nói tất cả các giao dịch trên đều thuộc loại đầu cơ. Việc phân biệt giữa các quyết định đầu cơ và quyết định giao dịch kinh doanh thông thường là một việc rất khó. +) Ngân hàng trung ương can thiệp ngoại hối và lãi suất : Ngân hàng trung ương có thể ảnh hưởng lên mức lãi suất bằng nhiều cách như sau: - Cho chính phủ vay tiền bằng cách mua các chứng khoán của chính phủ phát hành lần đầu, - Hoạt động trrên thị trường mở, - Rút bớt tiền hay tăng tiền cho hệ thống ngân hàng, - Thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc, Ngân hàng trung ương có thể can thiệp trực tiếp trên thị trường ngoại hối bằng các phương pháp khác nhau như : - Trực tiếp với các ngân hàng, - Thông qua các nhà môi giới, - Thông qua các thị trường giao dịch tương lai, - Thông qua các ngân hàng trung ương khác. 2.4. Trạng thái ngoại tệ và rủi ro tỷ giá. 2.4.1. Khái niệm. Có nhóm giao dịch làm phát sinh chuyển giao quyền sử dụng về ngoại tệ, có nhóm giao dịch làm phát sinh quyền sự chuyển giao quyền sở hữu về ngaọi tệ. Trong đó, chỉ các giao dịch làm phát sinh sự chuyển giao quyền sở hữu về ngoại tệ mới làm phát sinh trạng thái ngoại tệ. Các giao dịch làm chuyển giao quyền sở hữu về ngoại tệ bao gồm : - Mua, bán ngoại tệ ( giao ngay và kỳ hạn ), - Thu chi lãi suất bằng ngoại tệ, - Các khoản thu, chi phí dịch vụ bằng ngoại tệ. - Ngoại tệ giả và các giấy tờ có giá giả ghi bằng ngoại tệ. - Các khoản ngoại tệ bị mất, rách nát, hư hỏng mất giá trị... Các khái niệm về trạng thái ngoại tệ bao gồm : - Các giao dịch làm tăng quyền sở hữu về ngoại tệ ( hiện tại và tương lai ), làm phát sinh trạng thái ngoại tệ trường đối với ngoại tệ này ( long the foreign curency - LFC ). - Các giao dịch làm giảm quyền sở hữu về ngoại tệ ( hiện tại và tương lai ), làm phát sinh trạng thái ngoại tệ đoản đối với ngoại tệ này (short the foreign curency -SFC ). - Chênh lệch giữa tài sản có và tài sản nợ của một ngoại tệ, tại một thời điểm, gọi là trạng thái ngoại tệ ròng (net exchange position - NEP).Vì là trạng tthái tại một thời điểm nên trạng thái ngoại tệ ròng phản ánh số dư tại một thời điểm. - Nếu NEP > 0 ( TSC > TSN ), thì ngoại tệ có trạng thái ròng dương, - Nếu NEP < 0 (TSC < TSN ), thì ngoại tệ có trạng thái ròng âm. 2.4.2 Rủi ro trong kinh doanh ngoại tệ và các quy tắc phòng ngừa. a. Nguồn phát sinh rủi ro tỷ giá : Trên tị trường ngoại hối có 3 phương pháp cơ bản để thu lãi. Chẳng hạn trên thị trường giao ngay : - Lãi phát sinh khi nhà kinh doanh tạo trạng thái ngoại hối (Exchange position ) : Nhà kinh doanh có thể tạo trạng thái ngoại hối bằng cách mua bán một đồng tiền nào đó, chờ cho tỷ giá biến động, sau đó cân bằng trạng thái ngoại hối và thu lãi. Khi ấy, nếu như trên thị trường tỷ giá biến động đi ngược lại so với dự đoán của họ thì nhà kinh doanh ngoại hối phải chịu khoả lỗ ngoại hối. - Lãi thu được từ kinh doanh chênh lệch tỷ giá (Arbitrage ) : là việc tại cùng một thời điểm mua một đồng tiền ở nơi có giá thấp và bán lại ở nơi có giá cao hơn để ăn chênh lệch tỷ giá. Vì hành vi mua bán diễn ra cùng một thời điểm với số lượng bằng nhau, nên kinh doanh chênh kệch tỷ giá không chịu rủi ro tỷ giá ( Vì không tạo trang thái ngoại hối ) và không phải bỏ vốn. - Lãi thu được từ chênh lệch tỷ giá mua vào và tỷ giá bán ra : Do tỷ giá mua vào bao giờ cũng thấp hơn tỷ giá bán ra, nên chênh lệch tỷ giá mua bán chính là thu nhập của ngân hàng. Về thực chất, trong giao dịch này, ngân hàng đóng vai trò là nhà cung cấp dịch vụ mua hộ, bán hộ cho khách hàng, nên không chịu rủi ro tỷ giá và không cần bỏ vốn. b. Giải pháp hạn chế rủi ro tỷ giá trong kinh doanh ngoại hối : Một số quy tắc chung về cơ chế quản lý và giám sát rủi ro tỷ giá tại NHTM : * Tổ chức hoạt động kinh doanh ngoại tệ : Thông thờng, một ngân hàng tích cực trong kinh doanh ngoại hối thường có 3 phòng liên quan mật thiết đến hoạt động này : -Phòng kinh doanh ( Dealing Room ): Phòng kinh doanh phải kiểm soát được một cách chắc chắn trạng thái trường hay đoản của từng đồng tiền tại bất cứ thời điểm nào, cũng như phương án thoát ra khỏi từng trạng thái là như thế nào. - Phòng thanh toán ( Back office ) :có nhiệm vụ thực hiện thanh toán, đối chiếu số dư... - Phòng quản lý rủi ro (Mid office ) : có nhiệm vụ kiểm tra theo dõi, giám sát hạn mưc mà mỗi nhà kinh doanh được phép sử dụng, tránh các hoạt động quá mạo hiểm trong kinh doanh, nhất là nghiệp vụ đầu cơ. * Quản lý bằng công cụ hạn mức : Hạn mức (position limits ) là giới hạn trạng thai ngoại tệ tối đa mà mỗi tổ chức, cá nhân kinh doanh ngoại tệ được phép thực hiện * Sử dụng công cụ lệnh : Một phương pháp khác, nhà kinh doanh có thể đưa ra các lệnh rằng, nếu có những thay đổi nhất định trên thị trường phù hợp với các lệnh đã đưa ra trước đó, thì giao dịch được tự động thực hiện. trong mỗi lệnh phải nói rõ giá cả, các thông số để trên cơ sở đó một giao dịch có thể thực hiện. Các lệnh đó là : - Limit order : Tại tỷ giá đã được xác định, lệnh được tiến hành thực hiện. Đôi khi, chỉ có một ohần của lệnh có thể được thực hiện tại mức tỷ giá đã xác định. - At the market order : Giao dịch phải được thực hiện ngay lập tức theo tỷ giá tốt nhất hiện hành có sẵn trên thị trường. - Stop loss order : Nhà kinh doanh có thể đang ở trạng thái trường hay đoản đối với một đồng tiền nào đó, muốn giới hạn các khoản lỗ tiềm tàng. Bản chaats của lệnh này là nhằm phòng ngừa rủi ro lớn có thể xảy ra. Lệnh chưa được thực hiện, chừng nào tỷ giá trên thị trường biến động chưa đến tỷ giá giới hạn cho phép. Mức tỷ giá mà tại đó lệnh được thực hiện có thể là mức tỷ giá tiếp theo đã vượt ngoài giới hạn cho phép. Hơn nữa, nếu tại mức tỷ giá tiếp theo mà lệnh vẫn chưa được thực hiện hoàn toàn, thì có thể áp các mức tỷ gía xảy ra tiếp theo. - Take profit order : Nhà kinh doanh có thể đang ở trạng thái trường hay đoản đối với một đông tiền nào đó, muốn thoát khỏi trạng thái ngoại hối này khi đạt được một mức lãi suất nhất định. Tương tự như Stop loss order, take profit order được thiết kế, khi thị trường biến động đến một mức độ nhất định nào đó thì lệnh được thực hiện. - Open or good unit canceled orders :Lệnh này luôn có hiệu lực cho đến khi được thực hiện thì mới thôi; hoặc là bị huỷ bỏ bởi chính người ra lệnh. - Good unit specified time orders : Các lệnh này sẽ tự động hết hạn, nếu như không được thực hiệh cho đến một thời điểm nhất định nào đó. - Day/night order : những lệnh ban ngày " Day order" có hiệu lực cho đến khi ngày giao dịch hôm đó đóng cửa. Nhưng lệnh ban đêm "night orders" có hiệu lực cho đến khi ngày giao dịch hôm sau mở cửa. - Fill or kill order : Thường là các lệnh có hiệu lực trong thời gian ngắn. Hơn nữa, các lệnh cho phép thực hiện toàn bộ hay bất cứ phần nào của lệnh. Phần còn lại chưa được thực hiện trong thời gian hiệu lực của lệnh tự động hết hạn. - Any part orders : Tại mức tỷ giá đã xác định, bất cứ phần nào của lệnh nếu có thể thực hiện được thì tiến hành thực hiện. Phần còn lại chưa được thực hiện song thì thôi, hoặc là được huỷ bbỏ bởi chính người ra lệnh. - All or none orders tại mức tỷ giá đã xác định, hoặc là toàn bộ lệnh được thực hiện, hoặc là không một phần nào được thực hiện cả. - Eitherlor orders : Loại lệnh này liên quan đến hai lệnh, nếu một lệnh đã được thực hiện, thì lệnh kia sẽ tự động bị huỷ bỏ. Ví dụ, nhà kinh doanh có thể thiết lập đồng thời hai lệnh là "Take profit và stop loss order ". Nếu lệnh "Take profit order" của nhà kinh doanh được thực hiện, thì lệnh thứ hai là "Stop loss order " sẽ tự động bị huỷ. II. Xây dựng mô hình giải quyết đề tài. Rủi ro tỷ giá trong kinh doanh ngân hàng nói chung được quản lý bởi nhiều yếu tố và công cụ khác nhau. Để quản lý rủi ro tỷ giá một cách hiệu quả thì trước hết ngân hàng phải phân tích và đánh giá được rủi ro tỷ giá ở thời điểm hiện tại và quá khứ như thế nào để có phương pháp quản lý rủi ro tỷ giá tốt hơn cho những giai đoạn sau. Có nhiều phương pháp để đo lường rủi ro tỷ giá, như phương pháp mean VaR, dựa vào hệ số nhọn và dựa vào các mô hình kinh tế lượng... Trong thực tế phương pháp mean VaR gặp nhiều khó khăn do chính những giả thiết mà mô hình yêu cầu, nên thông thường là sử dụng hai phương pháp dựa vào hệ số nhọn và dựa vào các mô hình kinh tế lượng để đánh giá. III. Thử nghiệm áp dụng trong mô hình kinh tế -Phân tích rủi ro tỷ giá dựa vào mô hình kinh tế lượng. 1.Phân tích và đánh giá rủi ro tỷ giá trong hoạt động kinh doanh ngoại hối của ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Dựa vào mô hình hồi quy và các mô hình ARCH, GARCH, ARCH-M, T-GARCH ta có thể đánh giá mức độ rủi ro của các ngoại tệ, biết các yếu tố tỷ giá ở thời kỳ trễ, các cú sốc âm và dương có ảnh hưởng như thế nào đến rủi ro tỷ giá ở thời kỳ hiện tại. Dựa vào bộ số liệu từ 1/5/2007 đến 30/8/2007 của Vietcombank về tỷ giá giao ngay của 5 loại ngoại tệ chính :USD, GBP, EUR, CAD, AUD ( số liệu theo ngày )ta xây dựng mô hình phân tích rủi ro tỷ giá của Vietcombank. Ký hiệu SF(t) là tỷ giá giao ngay của ngoại tệ F so với đồng nội tệ ( VNĐ ) tại thời điểm t khi đó lợi suất của tỷ giá ngoại tệ F được tính theo công thức sau : XF( t ) = ln() ( t = ) . Đối với chuỗi tỷ giá ngoại tệ của Vietcombank ta sử dụng mô hình hồi qui đơn và mô hình ARCH để phân tích. Ký hiệu USDm, EURm tương ứng là tỷ giá mua USD, EUR. Mô hình hồi qui đơn và mô hình ARCH(1) đối với chuỗi tỷ giá mua EUR xác định như sau : EURm(t)=μt + USDm(t) +Ut μt = β0 +i*Xt-i +*Ut-j Ut=σt *εt σ2t =Var ( EURm/Ft-1) = Var(Ut/Ft-1) σt2 =α0 + α1*σ2t-1 Với điều kiện α0>0, α1≥0 Mô hình hồi qui đơn và mô hình ARCH(1) đối với chuỗi tỷ giá bán và chênh lệch tỷ giá được xây dựng tương tự. Với bộ số liệu về tỷ giá của các ngoại tệ cuả Vietcombank từ ngày 1/5/2007 tới ngày 30/8/2007, sau khi ước lượng và kiểm tra các khuyết tật của mô hình ta có bảng sau : Bảng kết quả ước lượng của mô hình ARCH của tỷ giá ngoại tệ EUR β0 P-value β1 P-value ARCH P-value Tỷ giá mua vào -15.13555 0.8317 2.272731 0.6077 -0.017135 0.6333 Tỷ giáo bán ra 22.83690 0.0017 -0.056679 0.8972 -0.011808 0.5755 Chênh lệch tỷ giá 0.469706 0.0656 0.076486 0.9454 -0.003272 0.6567 (Nguồn : Số liệu về tỷ giá của Vietcombank theo ngày từ 1/5/2007 đến 30/8/2007 ). Từ bảng trên cho ta thấy : Khi chênh lệch tỷ giá ngoại tệ USD tăng 1 đơn vị thì chênh lệch tỷ giá ngoại tệ EUR tăng 7.6486%, tức là tăng chậm hơn mức tăng của USD. Điều này cho thấy lợi nhuận thu được từ chênh lệch tỷ giá của ngoại tệ USD sẽ lớn hơn so với ngoại tệ EUR. Vì thế Vietcombank kinh doanh loại ngoại tệ USD nhiều hơn so với EUR nhằm thu lợi nhuận cao. Nhìn vào hệ số của ARCH(1) ta thấy, đối với Vietcombank thì rủi ro chênh lệch tỷ giá của EUR ở thời kỳ trễ không ảnh hưởng đến rủi ro chênh lệch tỷ giá ở thời kỳ hiện tại. Tương tự như vậy ta xây dựng được mô hình hồi quy đơn và mô hình ARCH(1) đối với chuỗi tỷ giá mua, chuỗi tỷ giá bán và chuỗi chênh lệch tỷ giá của GBP. Với cùng bộ số liệu trên, sau khi ước lượng và kiểm tra các khuyết tật của mô hình ta có bảng sau : Bảng kết quả ước lượng của mô hình ARCH của tỷ giá ngoại GBP β0 P-value β1 P-value ARCH P-value Tỷ giá mua vào -37.15530 0.0068 4.286586 0.0000 1.102243 0.0005 Tỷ giá bán ra -93.80358 0.0000 7.831375 0.0000 0.940923 0.0235 Chênh lệch tỷ giá 0.416481 0.0000 8.244456 0.0000 0.079661 0.6804 ( Nguồn: Số liệu về tỷ giá của Vietcombank từ ngày 1/5/2007 đến ngày 30/8/2007 ). Từ bảng kết quả cho thấy, đối với Vietcombank, khi tỷ giá mua và tỷ giá bán USD tăng 1 đơn vị thì tỷ giá mua và tỷ giá bán ngoại tệ GBP tăng nhiều hơn mức tăng của tỷ giá USD, khi chênh lệch tỷ giá USD tăng 1 đơn vị thì chênh lệch tỷ giá ngoại tệ GBP tăng 824.4456% - cũng tăng nhanh hơn so với mức tăng của USD. Điều đó chứng tỏ rằng lợi nhuận thu được từ chênh lệch tỷ giá GBP sẽ nhiều hơn so với lợi nhuận thu được từ chênh lệch tỷ giá USD.Qua đó ta thấy Vietcombank kinh doanh GBP có lãi hơn so với USD. Từ hệ số của ARCH(1) và p-value tương ứng, ta thấy rủi ro tỷ giá GBP ở thời kỳ trễ cũng không ảnh hưởng đến rủi ro tỷ giá ở thời kỳ hiện tại. 2.Một số giải pháp phòng ngừa rủi ro. Kết quả phân tích và đánh giá ở trên cho thấy hoạt động kinh doanh ngoại hối của Vietcombank có chứa nhiều rủi ro tiềm ẩn. Điều này cũng tồn tại ở hầu hết các ngân hàng thương mại nước ta. Qua phân tích mô hình và khảo sát thực tế tôi đề nghị một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tỷ giá trong hoạt động kinh doanh ngoại hối của Vietcombank nói riêng và các ngân hàng thương mại nói chung. 2.1.Lập danh mục đầu tư các ngoại tệ sao cho rủi ro của danh mục là nhỏ nhất. Từ nguồn số liệu về tỷ giá mua và tỷ giá bán 3 loại ngoại tệ USD, GBP và EUR ta có thể xác định được danh mục đầu tư có rủi ro ít nhất. Ma trận Vm của tỷ giá mua 3 loại ngoại tệ ở Vietcombank : EURm GBPm USDm EURm 4.37311 -0.0613 0.00592 GBPm -0.061304 0.20308 0.01117 USDm 0.005922 0.01117 0.00261 ( Nguồn : Số liệu về tỷ giá của Vietcombank từ ngày 1/5/2007 đến ngày 30/8/2007 ). Giải hệ phương trình Vm*x =[1]. Với x(x1, x2, x3) là tỷ trọng của 3 ngoại tệ EUR, GBP, USD trong danh mục mua ngoại tệ. Ta được danh mục tỷ giá mua có rủi ro thấp nhất là : P = ( -0.721320654, -21.58589635, 23.30722289 ). Ma trận Vb của tỷ giá bán 3 loại ngoại tệ ở Vietcombank : EURb GBPb USDb EURb 0.891914 -0.05164 -0.0031 GBPb -0.051638 3.50936 0.42428 USDb -0.003071 0.42428 0.05418 ( Nguồn : Số liệu tỷ giá của Vietcombank từ ngày 1/5/2007 đến ngày 30/8/2007 ). Tương tự ta giải hệ phương trình Vb*x = [1], được danh mục tỷ giá bán có rủi ro là thấp nhất : P = ( 0.052991727, -36.58962157, 37.5843224 ). 2.2.Ứng dụng ngiệp vụ phòng chống rủi ro hối đoái bằng các sản phẩm phái sinh. Trong hoạt động kinh doanh liên quan đến ngoại tệ thường gặp phải tình trạng rủi ro tổn thất vốn do biến động tỷ giá gọi là rủi ro hối đoái để hạn chế giảm thiểu rủi ro các ngân hàng thường đưa ra giải pháp nghiệp vụ nhằm phòng chống rủi ro, bao gồm các kỹ thuật nghiệp vụ gồm hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, hợp đồng hoán đổi, hợp đồng quyền chọn, hợp đồng bảo đảm. 2.2.1. Hợp đồng kỳ hạn các loại ngoại tệ: Hợp đồng kỳ hạn các loại ngoại tệ được thực hiện một mặt nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho khách hàng tại thời điểm nào đó đã xác định mặt khác giúp khách hàng hạn chế được rủi ro khi dự báo được sự biến động tỷ giá bất lợi cho kinh doanh của mình, giao dịch mua bán kỳ hạn các ngoại tệ được ký tại thời điểm hiện tại và được kết thúc vào kỳ hạn cụ thể xác định trong hợp đồng ( 15 ngày, 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng... thậm chí có thể hơn 1 năm) theo tỷ giá kỳ hạn. Tỷ giá được xác định bởi hai yếu tố trên thị trường, đó là: -Tỷ giá trao ngay. -Lãi suất thị trường của hai đồng tiền liên quan: Xác định tỷ giá kỳ hạn theo công thức chuẩn Tỷ giá kỳ hạn = Tỷ giá trao ngay + Điểm kỳ hạn 2.2.2. Giao dịch hợp đồng tương lai: Một công cụ phòng chống rủi ro hối đoái khác ngày càng được sử dụng rộng rãi là hợp đồng tương lai. Các hợp đồng tương lai có thể sử dụng vào các mục đích bảo hiểm phòng ngừa rủi ro và vào các mục đích đầu cơ. Đây là những hợp được tiêu chuẩn hoá và được thực hiện trên sàn giao dịch của sở giao dịch tiền tệ tương lai. Các cá nhân, các công ty, các ngân hàng gửi các lệng đặt mua các lệnh đặt bán một lượng cụ thể ngoại tệ cho các nhà môi giới hay các thành viên của sở giao dịch. Tại sở giao dịch các lệnh đặt mua còn gọi là trạng thái trường ( long positions) được đối chiếu với các lệnh bán hay còn gọi là trạng thái đoản (Short position). Một công ty thanh toán bù trừ (Clearing corporation) của sở giao dịch đảm bảo cho cả hai bên mua và bán rằng các lệnh mua và bán sau khi đã được đối chiếu và khớp với nhau chắc chắn được thực hiện. Cung cầu và các hợp đồng tương lai được thể hiện thông qua việc các đối tác sắn sàng mua hay bán các hợp đồng, điều này làm cho giá cả các hợp đồng biến động theo giá cả của các lệnh đặt mua, hay đặt bán. Mặt khác giá cả biến động làm cho các hợp đồng mua và bán khớp được với nhau. Trong những tình huống đặc biệt các lệnh đặt, đặt bán có khoảng cách xa nhau về giá cả, các giao dịch trên thị trường tạm thời không xảy ra. Trường hợp này gọi là " Hố ngầm trên sở giao dịch". Trên thị trường tương lai cần thiết tồn tại một số ngày giá trị nhất định. Sau khi đã mua hay bán thì các hợp đồng tương lai ít khi được duy trì cho đến ngày đáo hạn.Những hợp đồng được duy trì cho đến ngày đáo hạn sẽ được thanh toán như các giao dịch kỳ hạn, tức là sau hai ngày làm việc kể từ khi hợp đồng đáo hạn. Đối với các hợp đồng tương lai khối lượng được ngoại tệ được quy định cụ thể. Điều bắt buộc trong giao dịch tương lai là cả người mua người bán hợp đồng phải là thành viên của thị trường và phải có một khoản ký quỹ và phải trả các phí giao dịch. Khác với hợp đồng kỳ hạn hợp đồng tương lai có thể chuyển nhượng hợp đồng tại bất cứ thời điểm nào trong thời hạn hiệu lực của hợp động. Chúng ta xem xét chuyển nhượng hợp đồng tương lai qua ví dụ sau: Gỉa sử một khách hàng có nhu cầu ngoại tệ GBP vào tháng 8, anh ta muốn sử dụng thị trường tương lai để có được GBP. Có hai cách lựa chọn: 1- Mua hợp đồng tương lai có ngày giá trị vào tháng 6, chờ đến khi hợp đồng đến hạn, nhận GBP sau đó đầu tư số GBP này 2 tháng trên thị trường tiền tệ. Vào tháng 8, khi khoản đầu tư đến hạn sẽ nhận cả gốc và lãi băng GBP. 2- Mua hợp đồng tương lai ngoại tệ bằng GBP có ngày giá trị vào tháng 9 vào thời điểm thán

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQuản lí rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngoại hối của ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam.DOC
Tài liệu liên quan