Mục lục:
I. Liên kết kinh tế. 3
1.1. Tính tất yếu khách quan của việt liên kết kinh tế. 4
1.2. Các hình thức liên kết kinh tế . 4
2. Khái quát chung về ngành dệt may . 5
2.1. Các lĩnh vực trong ngành dệt may . 5
2.2. Lịch sử phát triển ngành may . 7
II. Thực trạng hoạt động liên kết kinh tế trong các doanh nghiệp dệt may Việt Nam . 9
1. Sự cần thiết . 9
2. Đánh giá chung tình hình liên kết dệt may . 11
2.1. Thượng vùng ngành may Việt Nam . 12
2.2. Mối quan hệ giữa các doanh nghiệp dệt may Việt Nam . 13
3. Nguyên nhân dẫn đến mối quan hệ dệt may không hiệu quả. 16
3.1. Ý kiến của các doanh nghiệp dệt . 16
3.2. Ý kiến của các doanh nghiệp may . 17
3.3. Ý kiến của các nhà nghiên cứu và quản lý . 18
III. Kiến nghị và giải pháp . 19
1. Một số giải pháp . 19
1.1. Các giải pháp pháp triển thượng nguồn may và tăng cường liên kết.19
1.2. Các giải pháp cụ thể . 22
2. Kiến nghị .
28 trang |
Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 1143 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Quản lý công nghiệp - Đại học kinh tế quốc dân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
công nghiệp có lịch sử phát triển lâu dài ở Việt Nam. Đặc biệt, ngành dệt sợi có từ lâu và phát triển mạnh trong thời kỳ thực dân Pháp đô hộ. Trước khi thực dân Pháp xâm lược Đông Dương đã tồn tại nhiều nhà sản xuất vải tại Việt Nam sử dụng sợi nhập khẩu. Khi cai trị, thực dan Pháp đã tăng thuế nhập khẩu sợi làm cho sản xuất vải tại nước ta gặp nhiều khó khăn.Nhưng trong thời kỳ này nhiều nhà máy dệt hiện đại do Pháp đầu tư đã được thành lập. Năm 1889, nhà máy dệt đầu tiên được Pháp xây dựng tại Nam Định, tiếp theo là năm 1894 tại Hàn Nội và sau đó là tại Hải Phòng. Năm 1912, ba nhà máy hợp nhất thành “ Công ty dệt vải Đong KInh”. Chín phủ thực dân Pháp thu được nhiều lợi nhuận nhờ việc kinh doanh độc quyền ngành này.
Sau đại chiến thứ hai, ngành dệt may Việt Nam có những bước phát triển đáng kể. Vào thời gian đó, các doanh nghiệp ở miền Bắc nhập máy móc thiết bị dệt sợi từ Trung Quốc, Liên Xôvà các nứoc Đông Âu, trong khi đó các doanh nghiệp miền Nam nhập máy móc thiết bị từ các nước phương Tây để đẩy mạnh sản xuất hàng dệt may. Năm 1975 sau khi nước ta thống nhất, các công ty dệt may quy mô lớn của miền Nam được quốc hữu hóa và đưa vào hệ thống kinh doanh bao cấp. Ủy ban Kế Hoạch nhà nước giao chỉ tiêu sản xuất cho các doanh nghiệp dệt nhuộm, may nên hoạt động sản xuất lưu thông hoàn toàn dựa vào kế hoạch. Kế hoạc và việc sản xuất hàng dệt may được sản xuất theo quá trình: trước tiên. Ủy ban Kế hoạch Nhà nước giao chỉ tiêu cho cácn doanh nghiệp may về kế hoạch sản xuất, lượng và giá. Các doanh nghiệp may căn cứ vào đó để tính số lượng nguyên vật liệu đầu vào rồi trình lên ban Ủy ban Kế hoạchvề các doanh nghiệp dệt có thể đáp ứng yêu cầu. Sau đó căn cứ vào các đề nghị này, Ủy ban Kế hoạch lại giao các chỉ tiêu sản lượng cho các doanh nghiệp dệt nhuộm ấn trình về giá và ngày giao hàng. Dụa vào giá cả và ngày giao hàng, các daonh nghiệp nhuộm lại tính lượng sợi cần thiết rồi trình lên ban Kế hoạch về nhà sản xuất sợi có thể đáp ứng yêu cầu. Cuối cùng, Ủy ban Kế hoạch Nhà nước giao chỉ thị cho doanh nghiệp sợi sản xuất lượng sợi cần thiết như kế hoạch được trình bày ở trên.
Trong nèn kinh tế kế hoạch, nối quan hệ giữa các doanh nghiệp dệt, nhuộm, may rất mật thiết. Các doanh nghiệp may tiến hành sản xuất theo thiết kế, số lượng và giá đã được Ủy ban Kế hoạch nhà nước quy định. Các doanh nghiệp này thường xuyên nắm bắt những thông tin như loại vải nào thì sản xuất ở doanh nghiệp nào và giữ mối quan hệ mật thiết với các doanh nghiệp nhuộm. Đơn giá, mẫu mã, của vải sử dụng ở các doanh nghiệp may do Ủy ban Kế hoạch Nhà nước quy định, nhưng nhà cung cấp vải lại do các doanh nghiệp may trình lên Ủy ban Kế hoạch Nhà nước nên thực chất quyết định cuối cùng là do các doanh nghiệp này đưa ra.Đồng thời cá doanh nghiệp nhuộm cũng giữ mối quan hệ khăng khít với các doanh nghiệp dệt. Xết trên toàn ngành, mối quan hệ khăng khít cùng chia sẻ thông tin giữa các doanh nghiệp được duy trì khá tốt.Tuynhiên, mối quan hệ khăng khít này đã có sự thay đổi lớn từ khi có Hiệp định thương mại gia công ủy thác được ký kết giữa chính phủ Liên Xô cũ và Chính phủ ViệtNam vào năm 1986. Theo hiệp định này, Chính phủ Việt Nam nhập khẩu nguyên liệu tuqf Liên Xô để tiến hành sản xuất hàng may măc tại cácn daonh nghiệp nhà nứớc, sau đó xuất khẩu trở lại Liên Xô.Quy định này đã làm giảm hẳn nhu cầu đối với các sản phẩm của các doanh nghiệp nhuộm và dệt trong nước và mối quan hệ mật thiế giữa các doanh nghiệp cũng bị rạn nứt. Viếc các doanh nghiệp dệt, nhuộm đầu tư vào ngành may đã đẩy nhanh rạn nứt này.Các nhà doanh nghiệp dệt nhuộm cùng hoạt động trong cả lĩnh vực may và để tồn tại họ cần nhận được những đơn đặt hàng gia công ủy thác từ Liên Xô. Các doanh nghiệp trong các lĩnh vực dệt, nhuộm, may từ mối quan hệ hợp tác đã trở thành đối thủ cạnh tranh của nhau. Người ta cho rằng đó là nguyên nhân lịch sử chủ yếu cho sụ phân ngành trong ngành dệt may Việt Nam chưa phát triển.
II. Thực trạng hoạt động liên kết kinh tế trong các doanh nghiệp dệt may Việt Nam.
1. Sự cần thiết phải tăng cường mối quan hệ dệt-may ở Việt Nam.
Quan hệ chiều dọc của ngành dệt may có thể biể thị như sau:
Nguyên liệu -> Kéo sợi -> Dệt vải -> In nhuộm -> May
Trong thực tế, mặc dù không nhất thiết phải phát triển tất cả các khâu trong hệ thống sản xuất dệt may một cách đồng đều, nhưng nếu tạo ra được mối liên hệ chặt chẽ giữa các khâu trong điều kiện sẵn có thì sẽ có tác động to lớn trong việc đảm bảo tính chủ động, việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm may Việt Nam trên thị trường trong nước và thế giới .
Sự cần thiết tăng cường mối quan hệ dệt may có thể thể hiện trên các khía cạnh sau đây:
- Liên kết giữa khâu dệt và khâu may có thể góp phần nâng cao chất lượng nguyên liệu cho các doanh nghiệp may do ngành dệt có thể bám sát hơn nhu cầu cửa ngành may về các nguyên liệu. Ngành may mặc, mặc dù có kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh , chủ yếu vẫn thể hiện phương thức gia công xuất khẩu( CMT), do dố cần chuyển dần sang phương thức tự sản xuất và xuất khẩu(FOB) để đạt hiệu quả cao hơn. Nhưng ngoài khó khăn về nhãn mác, thương hiệu, nguồn vải và phụ liệu ổn định, kịp thời và đam bảo chất lượng cũng là một trở ngậi lớn đối với ngành dệt may hiệ nay.
- Tăng cường liên kết dệt may tạo điều kiện giảm chi phí do giảm được các chi phí trung gian. Điều này càng có ý nghĩa quan trọng hơn nếu xem xét số liệu về cơ cấu hàng dệt may nhập khẩu. Chẳng hạn, tỷ lệ vải nguyên liệu trong hàng hóa dệt-may năm 1994 là 99,9%, đến năm 1997, tỷ lệ này giảm đi nhưng vẫn ở chiếm đến 90%. Theo đánh giá của hiệp hội Dệt May Việt Nam, sản phẩm may mặc xuất khẩu của Việt Nam đang đắt hơn sản phẩm cùng loại trong khu vực từ 10-15%. Do trong nước chưa chủ động được nguyên liệu hoặc nguyên liệu sản xuất trong nước có giá cao.
- Liên kết dệt may cho phép giảm bớt nhu cầu nhập khẩu nguyên liệu, tăng giá trị gia tăng cho ngành dệt may và tăng đóng gốp của ngành vào nên kinh tế quốcdân.
Bảng 1. Tỷ trọng ngành dệt- may trong tổng kim nhạch xuất khẩu và nhập khẩu của nền kinh tế.
1994
1995
1997
1998
1998
2000
2001
2002
Xuất khẩu
14
16
17
15
15,1
13,1
13,2
16,7
Nhẩp khẩu
6,7
8,7
9,1
15,0
9,6
9,1
9,8
9,9
Nguồn: Viện kinh tế khoa học Hà Nội, trang 29.
Viện ngiên cứu thương mại, Bộ thương mại.
Các số liệu trong bảng 1 cho thấy, mặc dù đóng góp của ngành dệt may trong xuất khẩu của cả nước đang tăng lên, nhưng phần nhập khẩu của ngành cũng tăng tương ứng. Vì vậy, tăng cường liên kết giữa dệt may là nhu cầu cấp thiết hiện nay.
- Liên kết dệt- may góp phần tạo điều kiện cung cấp vải sợi ổn định, chủ động cho may xuất khẩu. Thực tế cho thấy, việc nhập khẩu vải sợi và phụ liệu khiến các doanh nghiệp gặp bất lợi, không chủ động được thời gian giao hàng.Có những doanh nghiệp do vải và phụ kiện chậm, chịu chi phí bổ sung cao do phải vận chuyển hàng bằng đường không nhằm bảo đảm thời hạn giao hàng. Vì vậy, nếu được cung cấp vải và phụ liệu ổn địnhtrong nước, các doanh nghiệp may sẽ giảm bót được rủi ro trông xuất khẩu.
- Liên kết dệt may tạo đièu kiện mở rộng thị trường của ngàn dệt từ đó tăng quy mô để đạt lợi thế về quy mô, giảm giá ngành, tăng súc cạnh tranh của ngành dệt, tăng tích lũy để tiếp tục tái đầu tư cho công nghệ mới nhằm đáp ứng yêu cầu của ngành may.
2 Đánh giá chung tình hình liên kết dệt may Việt Nam
2.1 Thượng nguồn ngành may Việt Nam .
Hiện nay nguyên liệu cho công nghiệp dệt sợi Việt Nam chủ yếu phải nhập từ nước ngoài. Từ năm 1997 trở lại đây , trung bình mỗi năm cả nước nhập từ 91 triệu đến 109.7 triệu USD bông xơ tương đương với 5-6 vạn tấn bông xơ
Chỉ tiêu
Đ/vị
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
Sản xuất
Bông xơ
Ng.tấn
4.08
4.52
4.52
5.66
6.45
7.39
10.5
Tơ nguyên liệu
Tấn
155
155.2
228.4
650
700
1500
Nhập khẩu
Bông xơ
Ng.tấn
682
37
42
68
83.3
90.4
113.1
Sợi tổng hợp
Ng.tấn
Sợi
Ng.tấn
93.8
74.68
113
183
160
237.8
210.7
Vải
Tr.USD
108.6
529.5
710.6
774.7
561.8
Nguyên phụ liệu
Tr.USD
488
710
1096
1422
1589
Nguồn : Niên giám thống kê 2001.
Bông và xơ tổng hợp là 2 loại nguyên liệu chính cho công nghiệp dệt. Ngành dệt Việt Nam hiện phải nhập hơn 90% nguyên liệu bông xơ 100% xơ sợi tổng hợp thuốc nhuộm và chất phụ trợ . Sự phụ thuộc về các yếu tố đầu vào không những làm ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế ngành dệt may mà còn gay nên tình tràn bị động trong điều hành sản xuất tổ chức các quan hệ liên kết dệt may.
Để giả quyết khó khăn trên từ các kết quả điều tra cơ bản về điều kiện tự nhiên, chính phủ Việt Nam đã có định hướng phát triển cây bông để tạo nguồn nguyên liệu trong nước cho công nghiệp sợi dệt và đã triển khai những chính sách cụ thể.
Năm
Diện tích (ha)
Năng suất(tạ/ha)
Sản lượng bông hạt (tấn)
1995
7610
5.67
4351
1996
11640
7.21
8390
1997
10774
6.2
6660
1998
11245
9.62
10820
1999
11984
9.75
22020
2000
115823
10
16551
2001
16596
11.15
18596
2002
29573
9.8
29000
Nguồn : Cục khuyến nông ,Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn 2002
Trong 5 năm qua tốc độ tăng bình quân của sản xuất bông là 16% / năm cả về diện tích và sản lượng . Vụ bông năm 2001- 2002 cả nước trồng 29573 ha bông đạt sản lượng 29000 tấn bông hạt chế biến được 10500 tấn bông xơ so năm 2001 tăng 27.2 % về diện tích và tăng 59.93% về sản lượng . Sản lượng này đủ cho 12% nhu cầu trong nước .
Tuy có sự chuyển biến tích cực nhưng ngành trồng bông Việt Nam vẫn có nhiều bất cập bảo đảm của công nghiệp sợi dệt trong nước cả về sản lượng chất lượng và chi phí . Để bảo đảm chất lượng sợi, các doanh nghiệp sợi không thể sử dụng bông Việt Nam mà phải nghiên cứu để đưa ra công thức pha trộng giữa bông nhập ngoại và bông nội địa. Việc mở rộng diện tích tăng năng suất nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản xuất đòi hỏi phải có đầu tư lớn. Mặt khác việc thu mua và chế biến bông xơ cũng còn bất cập , năng lực chế biến bông xơ còn thấp kém so với nhu cầu
2.2 Mối quan hệ giữa các doanh nghiệp dệt và may Việt Nam.
Điểm yếu nhất của ngành dệt nước ta hiện nay là chưa đủ khả năng đáp ứng các loại vải cho các doanh nghiệp may hàng xuất khẩu cả về số lượng chủng loại và chất lượng. Theo đánh giá các chuyên gia trong nước thì vải Việt Nam kém hơn nhiều so với các nước trong khu vực nhưng giá thành lại cao hơn. Tỷ lệ vải trong nước có chất lượng đáp ứng được yêu cầu ngành may xuất khẩu chỉ khoảng 10 tới 15 % còn các loại nguyênphuj liệu như xơ , sợi , hóa chất, thuốc nhuộm hầu hết là phải nhập khẩu. Chính vì vậy , mặc dù kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam đạt gần 2 tỷ USD vào năm 2001 nhưng giá trị làm ra trong nước chỉ chiếm 1/4 còn lại là vải và phụ liệu nhập từ nước ngoài. Theo đánh giá của các doanh nghiệp và các tổ chức liên quan mối quan hệ dệt may ở Việt Nam hiện nay còn thấp và chưa hiệu quả .
Quan hệ dệt may được thể hệ qua nhiều hình thức các doanh nghiệp dệt cung cấp nguyên liệu cho các doanh nghiệp may, các doanh nghiệp may tự cung cấp cho mình bắng sản phẩm tự sản xuất, quan hệ liên kết giữa các doanh nghiệp dệt với nhau và với các doanh nghiệp may nhằm đảm bảo nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm của nhau hỡ trợ lẫn nhau.
Bảng 4 cho thấy nguồn nguyên liệu nhập khẩu của các doanh nghiệp may chiếm 50 % tổng nguồn nguyên liệu tuy nhiên khả năng đáp ứng nhu cầu về nguyên liaauj của các doanh nghiệp dệt trong nước đối với các doanh nghiệp may thực tế còn thấp hơn nhiều so với cong số nói trên nhất là đối với các sản phẩm may xuất khẩu .
Các nguồn
Nguồn trong nước
Nguồn nhập khẩu
Kênh nhập khẩu
Trong nước
Nhập khẩu
Mua nội bộ
Nguồn khác
C.ty mẹ/chi nhánh
Nguồn khác
Trực tiếp
Ủy thác
Tổng
Trong đó:
- DNNN
- DNNQD
- ĐTNN
47
48
55
30
53
52
45
70
8
13
3
12
92
87
97
88
21
16
4
50
79
84
96
50
58
63
45
80
42
37
55
20
DN Dệt
Trong đó:
- DNNN
- DNNQD
- ĐTNN
45
48
57
24
55
52
43
76
15
13
12
25
85
87
88
75
30
23
9
59
70
77
91
41
57
58
34
97
43
42
66
13
DN May
Trong đó:
-DNNN
- DNNQD
-ĐTNN
48
47
54
33
52
53
46
67
5
13
1
6
95
87
99
94
16
11
3
44
84
89
97
56
58
65
48
77
42
35
52
23
Nguồn: Tham khảo.
Theo ông Lê Quốc Ân cả nước có năng lực sản xuất 500 triệu m vải 1 năm nhưng chỉ có 20 % đạt tiêu chuẩn cung cấp cho ngành may xuất khẩu . Các nhà nghiên cứu cũng đều đồng ý rằng không chủ động được nguyên liệu từ nguồn nguyên liệu trong nước là một trong những nguyên hạn chính hạn chế sức cạnh tranh và gia tăng giá trị công nghiệp dệt may .
Bông và xơ tổng hợp là 2 nguyên liệu dệt chính. Hiện nay ngành dệt Việt Nam phải nhập hơn 90 % nguyên liệu bông xơ, 100 % xơ sợi tổng hợp thuốc nhuộm và chất trợ. Trong những năm gần đây hàng năm ngành dệt may nhập vải với giá trị trên 550 triệu USD . Theo đánh giá các chuyên gia trong nước hiện nay tỷ lệ nội địa hóa của các sản phẩm may xuất khẩu bao gồm cả vải và phụ liệu là chỉ 25% phần còn lại là nhập khẩu . Việc phụ thuộc vào nhiều yếu tố đầu vào làm ảnh hưởng lớn đến hiệu quả kinh tế toàn ngành dệt may . Không những không tận dụng được liên kết dệt may mà còn gay mất chủ động trong quá trình hoạt động của cả doanh nghiệp dệt và may .
Theo số liệu của Hiệp hội dệt may Việ Nam Tổng công ty dệt may Việ Nam giữ vị trí chủ đạo của ngành với sản lượng sợi chiếm 88.2% , vaỉ lụa chiếm 45.5% , sợi dệt kim chiếm 27.7% và sản phẩm may chiếm 27.5 % tổng sản lượng cả nước. Trong thời gian qua các doanh nghiệp thành viên của Tổng công ty đã quan tâm và thúc đẩy mối quan hệ kinh doanh trong hệ thống Tổng công ty như các doanh nghiệp dệt mua bông của các công ty bông Việt Nam , các công ty may mua vải các công ty dệt mhuwng số lượng và giá trị mua bán vẫn còn khiêm tốn chỉ đạt 10 đến 15 % giá trị toàn bộ. Điều này cho thấy ngay trong Tổng công ty thì mối quan hệ giữa các doanh nghiệp dệt và các doanh nghiệp may cũng chưa được khăng khít.
Về liên kết thượng nguồn các doanh nghiệp dệt kết quả điều tra cho thấy các doanh nghiệp dệt tự sản xuất sợi đặc biệt là các doanh nghiệp dẹt Nhà nước . Số này chiềm đến 11/14 doanh nghiệp. Các doanh nghiệp này còn cho rằng vải sợi trong nước không đáp ứng được yêu cầu các doanh nghiệp may. Mặt khác các dệt mua sợi trong nuocs hoặc nước ngoài cho rằng vải sợi trong nước có thể đáp ứng được yêu cầu các doanh nghiệp may trong nước .
20 trong số doanh nghiệp được điều tra cho biết họ đã thiết lập được quan hệ với các doanh nghiệp sợi trong nước . Các quan hệ đó chủ yếu là mua bán và phân phối sản phẩm. Nhưng 15 doanh nghiệp trong số này cho biết mối quan hệ của họ từ trước đến nay thường không được suôn sẻ . Lý do chủ yếu là do chất lượng của sợi không đảm bảo đúng yêu cầu , cac doanh nghiệp cho rằng sản phẩm sợi trong nước nói chung không đpas ứng được yêu cầu đối với các doanh nghiệp dệt .
Về liên kết hạ nguồn của các doanh nghiệp dệt . Hầu hết các doanh nghiệp dệt với các doanh nghiệp may tronng nước . Trong đó 80 % cho rằng họ có mối quan hệ lâu dìa vói các doanh nghiệp may. Các doanh nghiệp còn lại phân phối sản phẩm thông qua hình thức bán sỉ hoặc xuất khẩu toàn bộ . Cũng giống như mối quan hệ thượng nguồn mối quan hệ hạ nguồn cũng thường bị trục trặc mà nguyên nhân chủ yếu là do chất lượng hàng hóa không đảm bảo yêu cầu.
Kết quả tìm hiểu ý kiến các doanh nghiệp dệt về chất lượng vải sợi nội địa cho thấy : Gần 50% số doanh nghiệp dệt cho rằng hiện tại vải sợi nội địa không đáp ứng được yeu cầu các doanh nghiệp may. Ý kiến này được các doanh nghiệp may khẳng định là chính xác.Theo các doanh nghiệp này chất lượng vải sợi nội địa không dáp ứng được những đơn hàng có yêu cầu chất lượng cao đặc biệt là những đơn hàng xuất khẩu. Điều đáng chú ý là 80 % số doanh nghiệp trong mẫu điều tra cho rằng mối quan hệ giữa các doanh nghiệp dệt và may đang được khai thác ở mức thấp và không hiệu quả.
Như vậy , có thể thấy rằng mối quan hệ giữa ngành dệt và ngành may rất lỏng lẻo, mặc dù đã có sự cố gắng để thắt chặt mối quan hệ này thông qua Tổng công ty dệt may. Mới có rất ít doanh nghiệp chú trọng gắn kết khâu dệt và may tronhg hệ thống riêng của mình trong khi nhiều doanh nghiệp có thể kiên kết với nhau để tạo sự kết nối của hai khâu dệt may nhằm tạo thị trường nội bộ và tăng sức cạnh tranh của sản phẩm dệt may
3. Nguyên nhân dẫn đến mối quan hệ dệt may không thành công
3.1 Ý kiến doanh nghiệp dệt
Theo ý kiến tự đánh giá về khả năng của các doanh nghiệp dệt cung ứng vải cho các doanh nghiệp may, những nguyên nhân cơ bản sau đây dẫn đến tỷ lệ thấp kém của tiêu thụ hàng hóa (vải) trong nội bộ ngành dệt may :
- Các doanh nghiệp dệt tự cho rằng họ chưa chủ động trong việc tìm kiếm khách hàng và hiết kế mẫu mới . Đặc biệt trong các doanh nghiệp nhà nước , hoạt động marketing còn thụ động , thậm chí có doanh nghiệp còn bộc lộ chưa thực sự hiểu lợi ích của hoạt động marketing ;
- Các đơn hàng về mỗi loại vải của doanh nghiệp may ở Việt Nam có số lượng nhỏ , mầu sắc nhiều, hoa văn phức tạp , thời gian ngắn ... gây khó khăn cho các doanh nghiệp dệt trong tổ chức sản xuất và bảo đảm giá bán cạnh tranh ;
- Chất lượng vải chưa đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp may do bông, xơ, sợi chất lượng thấp, năng lực hoàn tất kém .
- Một số khách hàng nước ngoài có khuynh hướng chỉ định nhà cung cấp vải ở nước thứ ba làm cho các doanh nghiệp dệt vải trong nước mất cơ hội tiếp cận các doanh nghiệp may
3.2 Ý kiến của doanh nghiệp may
Các doanh nghiệp may mua vải của các doanh nghiệp dệt đưa ra những nguyên nhân cơ bản sau đây:
- Giá cả của vải sợi trong nước kém sức cạnh tranh . Nếu so sánh các sản phẩm cảu các doanh nghiệp dệt vải sợi trong nước với các sản phẩm nhập khẩu cùng loại thì thông thường các sản phẩm nội địa có giá cao hơn từ 5% - 7% ; thậm chí có ý kiến cho rằng có trường hợp các sản phẩm sợi vải nội địa có giá cao hơn khoảng 30% so với giá của hàng nhập khẩu cùng loại .
- Chất lượng vải chưa cao . Chất lượng vải sợi nội địa chưa cao thể hiện ở nhiều điểm. Thứ nhất là độ bền: Vải sợi nội địa có độ bền thấp hơn vải sợi nhập khẩu. Thứ hai là cấp độ hóa : vải sợi trong nước có cấp độ hóa thấp. Khi khách hàng yêu cầu vải bông không được chứa một loại chất hóa học nhất định thì các doanh nghiệp đệt Việt Nam nhiều khi không thể khử được chất đó . Thứ ba là khả năng đáp ừng yêu cầu cấp độ sản phẩm không cao . Ví dụ các doanh nghiệp trong nước không thể dệt được những loại vải như Rincofi, một loại vải chống nhăn để may áo sơ mi. Thứ tư là mầu sắc : mầu sắc cảu loại vải sợi trong nước ít đa dạng.
Bên cạnh đó, chất lượng cảu vải sợi trong nước giữa các lô hoặc các mẻ thường không ổn định do doanh nghiệp dệt không có công thức chính xác về pha mầu nhuộn. Ngoài ra thời gian cung cấp cũng không ổn định, có nhiều trường hợp doanh nghiệp dệt không thể đáp ứng được yêu cầu sản xuất cảu doanh nghiệp may nào đó nhưng do không có nguyên liệu.
Khả năng đáp yêu cầu khách hàng . Các doanh nghiệp dệt trong nước thứ chưa đủ sức đáp ứng yêu cầu khách hàng về chất lượng sản phẩm. Trình dộ hoàn thiện cảu doanh nghiệp trong nước yếu , nhiều trường hợp doanh nghiệp may đưa mẫu vải , doanh nghiệp dệt thử nhiều lần vẫn không đạt yêu cầu.
Các doanh nghiệ dệt trong nước cũng chưa đủ điều kiện đáp ứngmoij yêu cầu khách hàng về quy mô khác nhau, gây khó khăn cho công ty may khi họ phải hoàn thành những đơn hàng nhỏ .
Về phương thức thanh toán . ó ý kiến cho rằng các doanh nghiệp trong nước có phương thức thanh toán thuận tiện hơn: doanh nghiệp may có thể trả tiền sau khi lấy hàng.Đồng thời nếu như chất lượng vải không đạt yêu cầu, doanh nghiệp doanh nghiệp dệt lam lại, hoặc yêu cầu giảm giá. Điều này không dễ thực hiện doanh nghiệp dệt nước ngoài do các doanh nghiệp may phải trả tiền trước khi nhận hàng. Nếu vải nhận được không đúng yêu cầu thì việc trả lại hết sức khó khăn do khoảng cách địa lý và do các lý do như bất đồng ngôn ngữ.
Tuy vậy, hầu hết các ý kiến đều đánh giá rằng các doanh nghiệp dệt trong nước có hình thức thanh toán chưa hợp lí: vải chỉ được giao cho khách hàng khi có đặt cọc, thậm chí thanh toán toàn bộ số tiền . Rất nhiều công ty yêu cầu doanh nghiệp may trả trước ít nhất là 30% giá trị đơn hàng, cá biệt có công ty yêu cầu trả trước 100% giá trị đơn hàng thì mới giao vải .
3.3 Ý kiến của nhà nghiên cứu và quản lí.
Những nhà nghiên cứu và quản lí có những ý kiến khác nhau về nguyên nhân hạn chế quan hệ dệt may ở Việt Nam :
- Sản phẩm của ngành dệt còn đơn điệu, chưa đa dạng, chưa đáp ứng yêu cầu của ngành may về mẫu mã, chất liệu, màu sắc..., mặt hàng vải còn thiếu cả về số lượng và chủng loại.Các doanh nghiệp dệt hiên nay mới chỉ đáp ứng được một số loại vải như cotton, jean, vải dệt kim nhưng chất lượng không ổn định .
- Giá thành vải sản xuất trong nước còn cao do năng suất lao động thấp (năng suất ở ngành kéo sợi thấp hơn 2-3 lần so năng suất lao động ở các nước khác, ở ngành dệt kim thấp hơn 4-5 lấn ) . Chính vì vậy, giá thành vải Việt Nam cao hơn 30% so với giá thành vải của Trung Quốc, Pakistan, Ấn Độ, Indonesia.
Các doang nghiệp dệt không đủ sức đáp ứng đòi hỏi của doanh nghiệp may về chủng loại, số lượng và thời gian giao hàng. Do bị độngtron sản xuất và quản lí chưa tốt, các doanh nghiệp dệt không đáp ứng được cácdown hàng nhỏ, chủng loại nhiều (là xu hướng hiện nayddoiws với nhu cầu may mặc ), thời gian ngắn .
- Các doanh nghiệp dệt không thể đáp ứng kịp thời yêu cầu của khách hàng về điều chỉnh mẫu mã , các yếu tố kỹ thuật.
Tóm lại, mặc dù nhu cầu về vải trong nước rất cao nhưng các doanh nghiệp dệt không đáp ứng được. Hầu hết vải của các doanh nghiệp dệt Việt Nam chỉ đáp ứng những nhu cầu nội địa ở trình độ thấp và trung bình.
III Kiến nghị và giải pháp.
1.Một số giải pháp.
1.1. Các giải pháp phát triển thượng nguồn ngành may và tăng cường liên kết dệt may.
- Chính sách phát triển nguyên liệu trong nước
Hiện nay , Việt Nam phải nhập khẩu khoảng 90% bông cho công nghiệp kéo sợi .Phát tiển thượng nguồn là một trong những điều kiện quan trọng bảo đảm tính chủ động và hiệu quả của việc phát triển công nghiệp dệt sợi . Theo tôi để phát triển được cần đảm bảo những điều kiện cơ bản sau :
- Quy hoạch các vùng sản xuất tập trung . Việc lựa chọn vùng trồng bông phải đảm bảo rằng vùng lựa chọn phải thích ứng với đặc điểm sinh thái cây bông.
- Giải quyết vấn đề giống . Giống cây bông vải đảm bảo được các yêu cầu chủ yếu, đặc biệt là yêu cầu thích ứng với điều kiện sinh thái tự nhiên, dễ chăm sóc , năng suất cao , ổn định.
- Định hướng đầu tư và các chính sách ưu đãi đầu tư. Đầu tư cho phát triển trồng bông phải được coi là một nội dung trọng yếu của đầu tư phát triển công nghiệp dệt - may, nhằm bảo đảm " thượng nguồn " cho công nghiệp sợi dệt . Việc huy động tài chính từ các hộ trồng bông là điều gần như không thể thực hiện được do vùng quy hoạch trồng bông là những vùng có trình độ phát triển thấp. Trong điều kiện này việc liên kết 4 nhà (Nhà nông - Nhà doanh nghiệp - Nhà khoa học - Nhà nước) đóng vai trò hết sức quan trọng : nhà nông trực tiếp thực hiện việc trồng bông, nhà doanh nghiệp ứng vốn , hợp đồng bao tiêu sản phẩm; Nhà khoa học nghiên cứu các loại giống , hướng dẫn kỹ thuật thâm canh; Nhà nước hỗ trợ bằng cơ chế chính sách .Ngoài việc định hướng như vậy, cần có những chính sách ưu đãi đầu tư với trong sản xuất nguyên liệu bông , chẳng hạn như ưu đãi tín dụng cho các hộ trồng bông , ưu đãi tín dụng cho các doanh nghiệp thu mua chế biến bông , ưu đãi về thuế nhập khẩu giống bông , thiết bị chế biến bông ...
Chính sách đầu tư
So với ngành may, ngành dệt có công nghệ sản xuất phức tạp hơn và suất đầu tư lớn hơn, mức dộ hấp dẫn với các nhà đầu tư thấp hơn. Để pháttrieenr mạnh ngành dợi dệt, góp phần tăng tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm ngành may, cần tăng mức đầu tư cho phát triển công nghiệp sợi dệt. Vốn đầu tư phát triển ngành cần được huy động từ những nguồn sau đây :
- Nguồn lực tài chính tự có của Tổng công ty dệt - may và các doanh nghiệp có bằng việc phát huy nỗ lực bản thân các doanh nghiệp và sự trợ lực Nhà nước ;
- Cho phép Tổng công ty dệt may, đơn vị chủ lực của ngành dệt may Việt Nam được phép phát hành trái phiếu doanh nghiệp để huy động vốn trong và ngoài nước đầu tư cho phát triển công nghiệp sợi dệt ;
- Ban hành các chính sách ưu đãi đầu tư đặc biệt với ngành sợi dệt đẻtaoj động lực khuyến khích các nhà đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài vào pháttrieenr công nghiệp sợi dệt , không hạn chế hình thức và lĩnh vực đầu tư
Việc đầu tư phát triển công nghiệp sợi dệt nên tập trung theo những vùng lãnh thổ nhất định . Nếu các doanh nghiệp may mặc có thể phân bố tương đối tự do thì các doanh nghiệp sợi dệt cần được phân bố tập trung theo các cụm (chẳng hạn trong các khu công nghiệp). Điều này sẽ mang lại những lợi ích thiết thực cả về kinh tế và xã hội như hạ thấp suất đầu tư nhờ sự dụng chung hệ thống hạ tầng; Tạo thuận lợi cho việc xác định quy mô doanh nghiệp , phát triển các doanh nghiệp có quy mô vừa và (10 - 15 triệu m vải / năm) ; dễ thu hút lao động; tạo khả năng kết hợp giữa nghiên cứu và triển khai; giảm thiểu đầu tư cho xử lí chất thải, bảo vệ môi trường sinh thái ...
Chính sách phát triển nguồn nhân lực
Đội ngũ nhân lực và công tác đ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4843.doc