Lời mở đầu 1
CHƯƠNG I 3
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VÀ VAI TRÒ CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DU LỊCH 3
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 3
I. Du lịch, vị trí và vai trò của ngành du lịch đối với nền kinh tế quốc dân. 3
1. Khái niệm về du lịch. 3
2. Vị trí và vai trò của ngành du lịch trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế ở nước ta. 4
II. Sự cần thiết của quản lý Nhà nước về du lịch. 5
1. Khái niệm quản lý Nhà nước và quản lý Nhà nước về du lịch. 5
2. Sự cần thiết của quản lý Nhà nước về du lịch. 6
2.1_ Đối với nền kinh tế thị trường ở nước ta. 6
2.2_ Đối với ngành du lịch. 7
3. Chức năng và nội dung của quản lý Nhà nước về du lịch. 8
3.1_ Chức năng quản lý. 8
3.1_ Nội dung quản lý Nhà nước về du lịch 10
CHƯƠNG II 12
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DU LỊCH Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 12
I. Khái quát chung về sự ra đời Tổng cục du lịch - cơ quan quản lý Nhà nước về du lịch. 12
1. Sự ra đời của Tổng cục du lịch 12
2. Bộ máy quản lý của Tổng cục du lịch. 13
3. Chức năng quản lý của Tổng cục du lịch. 14
II. Thực trạng công tác quản lý Nhà nước về du lịch ở nước ta. 15
1. Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật. 15
2. Công tác tổ chức bộ máy quản lý du lịch và việc phối hợp các cơ quan quản lý Nhà nước về du lịch. 16
3. Quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp. 16
4. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch và chiến lược phát triển du lịch. 18
5. Quản lý Nhà nước đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành du lịch. 18
6. Quản lý Nhà nước về công tác quảng bá, hợp tác quốc tế và xúc tiến du lịch. 19
III. Những vấn đề tồn tại trong công tác quản lý Nhà nước về du lịch ở nước ta. 20
1. Về hệ thống pháp luật du lịch. 20
2. Quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp du lịch. 21
3. Về công tác quản lý và quy hoạch du lịch. 22
4. Công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho du lịch. 24
5. Công tác quảng bá, xúc tiến du lịch. 24
CHƯƠNG III 26
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DU LỊCH. 26
I. Mục tiêu, phương hướng phát triển ngành du lịch và những vấn đề đặt ra cho công tác quản lý Nhà nước về du lịch ở nước ta trong giai đoạn tới. 26
1. Mục tiêu, phương hướng phát triển ngành du lịch Việt Nam. 26
2 Những vấn đề dặt ra cho công tác quản lý Nhà nước về du lịch ở nước ta trong giai đoạn tới. 27
II- Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về du lịch. 28
1. Tạo lập môi trường pháp lý cho du lịch. 28
2. Hoàn thiện bộ máy tổ chức du lịch. 29
3. Sắp xếp, kiện toàn hệ thống các doanh nghiệp làm du lịch 29
4. Tăng cường phối hợp liên ngành nhằm cải cách, tháo gỡ một số vướng mắc trong du lịch. 30
5.Tăng cường sự quản lý của Nhà nươc trong công tác đào tạo,bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực cho ngành du lịch . 31
6. Tăng cường công tác quảng bá, xúc tiến du lịch, gắn thị trường du lịch Việt Nam với thị trường quốc tế và khu vực. 31
7. Khai thác và bảo vệ tài nguyên môi trường. 32
KẾT LUẬN 33
36 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 9249 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Quản lý Nhà nước về du lịch - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o định hướng đã vạch ra. Can thiệp, điều tiết thị trường khi cần thiết đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô.
- Nhà nước sử dụng nhiều công cụ, biện pháp khác nhau để điều tiết, can thiệp thị trường và hoạt động kinh doanh du lịch, xử lý đúng đắn mẫu các quan hệ trao đổi.
- Nhà nước hỗ trợ cho các doanh nghiệp về thông tin, tài chính, kết cấu hạ tầng của thị trường và bảo vệ kinh tế Nhà nước đúng pháp luật nhằm chống thất thoát, đảm bảo sinh lợi và tăng thu cho nhân sách Nhà nước.
d_ Chức năng kiểm soát.
- Giám sát hoạt động của mọi chủ thể kinh doanh du lịch cũng như chế độ quản lý của các chủ thể đó. Cấp và thu hồi giấy phép, giấy hoạt động trong hoạt động du lịch.
- Phát hiện những lệch lạc, nguy cơ chệch hướng hoặc vi phạp pháp luật và những quy định của Nhà nước.
- Kiểm tra đánh giá sức mạnh của hệ thống tổ chức quản lý du lịch của Nhà nước cũng như năng lực của đội ngũ cán bộ công chức quản lý Nhà nước về du lịch.
- Tổ chức và quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực du lịch, nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ, bảo vệ tài nguyên du lịch, môi trường, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá, thuần phong mỹ tục của dân tộc.
3.1_ Nội dung quản lý Nhà nước về du lịch
Tại điều 41 của pháp lệnh về du lịch có quy định nội dung quản lý Nhà nước về du lịch như sau:
- Ban hành, tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về du lịch.
- Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển du lịch.
- Quy định về tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước về du lịch, về việc phối hợp của các cơ quan Nhà nước trong việc quản lý Nhà nước về du lịch.
- Tổ chức và quản lý công tác xúc tiến và hợp tác quốc tế về du lịch.
- Cấp, thu hồi giấy phép, giấy chứng nhận.
- Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo...
Thực tế đã chỉ rõ, hoạt động du lịch trong cơ chế thị trường cũng như trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hôị chủ nghĩa ở nước ta hiện nay rất cần đến sự điều hành, quản lý của Nhà nước. đặc biệt trong xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá của hoạt động du lịch, việc hợp tác, liên kết luôn đi liền với cạnh tranh đòi hỏi mỗi nước phải có chiến lược phát triển tổng thể du lịch. Xuất phát từ điều kiện của mình, mỗi nước phải vừa biết phát huy đặc thù, huy động nội lực để tăng khả năng hấp dẫn khách du lịch, vừa phù hợp với thông lệ quốc tế, tranh thủ được điều kiện bên ngoài để có điều kiện hội nhập. Đây là vấn đề thuộc quyền Nhà nước và cũng là trách nhiệm của Nhà nước trong phát triển du lịch.
Chương II
Thực trạng công tác quản lý Nhà nước về du lịch ở nước ta hiện nay
I. Khái quát chung về sự ra đời Tổng cục du lịch - cơ quan quản lý Nhà nước về du lịch.
1. Sự ra đời của Tổng cục du lịch
Tính đến nay ngành du lịch Việt Nam đã có hơn 40 năm hình thành và phát triển. Nghị định 26/CP ngày 09/07/1960 của Hội đồng chính phủ, Công ty du lịch Việt Nam đầu tiên được thành lập là mốc đánh dấu sự ra đời của ngành du lịch Việt Nam. Là một công ty trực thuộc Bộ ngoại thương nhưng nhiệm vụ của công ty du lịch đầu tiên là phục vụ cho các đoàn khách của Đảng và Chính phủ. Tổ chức du lịch đầu tiên của Việt Nam ra đời với cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn, lạc hậu, đội ngũ công nhân viên it ỏi về số lượng, non kém về nghiệp vụ nên gặp nhiều khó khăn trong công tác phục vụ và đón tiếp khách. Nhưng với tráh nhiệm và lòng nhiệt tình, với tính cần cù vốn có của 112 cán bộ nhân viên đầu tiên của ngành du lịch Việt Nam đã hoàn thành nhiệm vụ được giao. Về ý nghĩa, tổ chức này đã đặt nền móng cho sự hình thành một ngành kinh tế mới mẻ ở nước ta.
Do lượng khách ngày một tăng và nhu cầu tham quan, du lịch ra nước ngoài xuất hiện đòi hỏi ngành du lịch phải không ngừng đầu tư về mọi mặt nhằm giảm bớt nhứng khó khăn về tài chính. Trước sự phát triển không ngừng về mọi mặt của ngành du lịch, một đòi hỏi thực tiễn là phải có một cơ quan có đủ thẩm quyền và chức năng quản lý du lịch. Với sự đầu tư lớn mạnh về cơ sở vật chất, quyền hạn, chức năng quản lý mở rộng, giai đoạn này Tổng cục du lịch Việt Nam trực tiếp quản lý trên 30 công ty du lịch trong cả nước cùng với hàng trăm khách sạn, nhà hàng, biệt thự, hàng ngàn phương tiện, hàng vạn cán bộ công nhân viên có trình độ và kinh nghiêm để phục vụ khách du lịch trong và ngoài nước. Tình hình hoạt động kinh doanh du lịch ngày một phong phú đa dạng và là một lĩnh vực không thể thiếu được trong ngành du lịch.
Do trực thuộc một bộ, không mang tính kinh tế, chưa được sự chỉ đạo phù hợp về mặt chuyên môn và đặc biệt còn non về mặt hoạt động kinh doanh, nhiều công ty lâm vào tình trạng thua lỗ, vi phạm quy chế, pháp luật, gây thiệt hại không nhỏ cho nền kinh tế nước nhà. Bên cạnh đó còn phải kể đến công tác quản lý chưa sát với thực tế, chuyên môn do trình độ thấp kém nên sản phẩm du lịch khá đơn điệu, chất lượng thấp. Bản chất của du lịch không chỉ là một ngành kinh tế nên công tác tổ chức, quản lý còn một số vướng mắc nhất định, hiệu quả của hoạt động du lịch chưa đồng bộ.
2. Bộ máy quản lý của Tổng cục du lịch.
Xuất phát từ mục tiêu, phương hướng phát triển của mỗi quốc gia, từ chức năng nhiệm vụ của ngành du lịch mà mỗi quốc gia thiết lập một hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước tương ứng nhằm đảm bảo hiệu lực quản lý và sự linh hoạt. Các nước trên thế giới và trong khu vực châu á - Thái Bình Dương lựa chọn những mô hình tổ chức hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước khác nhau.
ở nước ta, bộ máy quản lý hành chính Nhà nước về du lịch cấp Trung ương hiện nay ở nước ta là Tổng cục du lịch, dưới Tổng cục du lịch là các Sở du lịch và Sở thương mại du lịch.
Chính phủ
Tổng cục du lịch
Tỉnh ,Thành phố
Sở du lịch
Quận, huyện
Xã, phường
Phòng du lịch
Tổng cục du lịch là một cơ quan độc lập trực thuộc chính phủ. Tại điều 1 Nghị định 53/CP đã quy định cơ cấu tổ chức của Tổng cục du lịch như sau:
- Các tổ chức giúp Tổng cục du lịch thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về du lịch.
- Tổng số các đơn vị giúp Tổng cục trưởng thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về du lịch là 7 đơn vị gồm 6 vụ và 2 cơ quan ngang vụ là văn phòng Tổng cục và thanh tra Tổng cục. Vụ du lịch và khách sạn ở Nghị định 20/CP được tách ra thành hai vụ riêng biệt là Vụ lữ hành và Vụ khách sạn.
Tại điều 4 của Nghị định 20/CP đã quy định: '' Tổng cục trưởng Tổng cục du lịch chịu trách nhiệm trước Thủ tướng chính phủ điều hành hoạt động của Tổng cục du lịch. Các Tổng cục phó do Tổng cục trưởng phân công công tác và chịu trách nhiệm về công việc được phân trước Tổng cục trưởng. Tổng cục trưởng và các Tổng cục phó do Thủ tướng chính phủ bổ nhiệm và miễn nhiệm''.
3. Chức năng quản lý của Tổng cục du lịch.
Điều 1 của Nghị định 20/CP ngày 27/12/1992 quy định: '' Tổng cục du lịch là cơ quan thuộc chính phủ, thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với các hoạt động du lịch trong phạm vi cả nước. Bao gồm: hoạt động về du lịch của các thành phần kinh tế, cơ quan, đoàn thể, tổ chức xã hội, công dân Việt Nam và người nước ngoại tại Việt Nam''.
Tại điều 43 của pháp lệnh du lịch ngày 20/12/1999 quy định:'' Tổng cục du lịch là cơ quan thuộc chính phủ, chịu trách nhiệm trước chính phủ, thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về du lịch''.
II. Thực trạng công tác quản lý Nhà nước về du lịch ở nước ta.
1. Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật.
Để quản lý được các hoạt động kinh tế xã hội của đất nước, Nhà nước phải sử dụng các công cụ quản lý. Một trong những công cụ hữu hiện nhất của Nhà nước là ban hành pháp luật vì pháp luật tạo ra môi trường pháp lý để điều chính các hoạt động quản lý, hoạt động kinh doanh du lịch, ghi nhận quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc kinh doanh và phát triển du lịch. Với công cụ pháp lý, Nhà nước sẽ điều chỉnh vĩ mô hoạt động du lịch. Pháp luật cũng là kênh quan trọng để đưa những chủ trương chính sách của Đảng và phát triển du lịch ở nước ta vào cuộc sống.
Các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực du lịch đã bao quát được những vấn đề cấp bách và thời sự của hoạt động kinh doanh du lịch. Về quan hệ quốc tế, Những văn bản quy phạm pháp luật về du lịch cũng đã tạo ra sự tin tưởng yên tâm của bạn bè quốc tế đến với Việt Nam tham gia hợp tác vào lĩnh vực kinh tế, du lịch.
Nhìn chung các công tác ban hành và thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật du lịch trong thời gian qua là hợp lý, cần thiết và đạt được kết quả to lớn, thể hiện ở lượt khách, cơ sở vật chất, đội ngũ lao động...đều co bước phát triển nhanh chóng và đáng ghi nhận. Tuy nhiên bên cạnh đó còn bộc lộ những hạn chế cần được giải quyết.
2. Công tác tổ chức bộ máy quản lý du lịch và việc phối hợp các cơ quan quản lý Nhà nước về du lịch.
Du lịch được coi là một ngành kinh tế tổng hợp, có liên quan đến nhiều ngành kinh tế. Do đó công tác quản lý du lịch là phải làm sao phối hợp được với các ngành, các cấp liên quan đến ngành du lịch nhằm đưa du lịch pháp triển cùng với sự phát triển của nền kinh tế. Bộ máy quản lý Nhà nước về du lịch từ Trung ương đến địa phương đang dần được hoàn thiện và phát huy chức năng quản lý Nhà nước về du lịch.
Tổng cục du lịch - cơ quan quản lý Nhà nước về du lịch được thành lập đã góp phần vào công tác chỉ đạo, phối hợp thực hiện kế hoạch quy hoạch, phát triển du lịch. Từ khi thành lập đến nay, Tổng cục du lịch, các Sở du lịch và Sở thương mại - Du lịch đã từng bước tăng cường hiệu lực quản lý của mình đối với hoạt động du lịch: rà soát, cấp giấy phép kinh doanh, đặc biệt là lĩnh vực kinh doanh lữ hành quốc tế.
Bên cạnh đó, cùng với các sở địa phương, Tổng cục du lịch đã xây dựng chế độ báo cáo định kỳ về việc thực hiện quy hoạch du lịch đều đặn cho các Sở du lịch điều chỉnh, sửa đổi bổ sung các chính sách cho phù hợp với điều kiện của từng địa phương, từng doanh nghiệp. Đây là bước cố gắng của Tổng cục Du lịch, cũng như của các sở Du lịch trong quản lý thông tin hai chiều từ Tổng cục Du lịch tới các doanh nghiệp và ngược lại.
3. Quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp.
'' Doanh nghiệp du lịch là tổ chức kinh doanh một hoặc một số dịch vụ du lịch có tư cách pháp nhân, hạch toán kinh tế độc lập và hoạt động theo pháp luật''.
Trong hệ thống doanh nghiệp du lịch, bên cạnh phân loại doanh nghiệp theo hình thức sở hữu, theo quy mô... như các ngành kinh tế khác thì theo các bộ phân cấu thành trong hệ thống kinh doanh du lịch, hệ thống các doanh nghịêp du lịch được phân thành: doanh nghiệp lữ hành, doanh nghiệp khách sạn, doanh nghiệp vận chuyển khách du lịch,... và cũng theo các quan niêm về doanh nghiệp nêu trên, đồng thời dựa trên cơ sở pháp lệnh du lịch Việt Nam hiên hành, các loại doanh nghiệp đó có thể được hiểu:
- Doanh nghiệp lữ hành: làm nhiêm vụ giao dịch ký kết với các tổ chức kinh doanh du lịch trong và ngoài nước để xây dựng và thực hiện các chương trình du lịch bán cho khách du lịch.
- Doanh nghiệp khách sạn: làm nhiệm vụ tổ chức, đón tiếp, phục vụ việc lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí, bán hàng cho khách du lịch.
- Doanh nghiệp vân chuyển khách du lịch: được thành lập nhằm mục đích sinh lời bằng việc kinh doanh dịch vụ, vân chuyển thông qua các phương tiện vận chuyển, phục vụ các chương trình du lịch của khách.
Ngoài các loại hình doanh nghiệp trên, trong hệ thống các doang nghiệp du lịch còn có các loại hình doanh nghiệp du lịch khác cung ứng các dịch vụ như: tuyên truyền, quảng cáo du lịch; tư vấn, đầu tư du lịch; cung ứng các hoạt động giải trí.
Các công tác quản lý Nhà nước đối với các loại hình doanh nghiệp du lịch chủ yếu tập trung vào việc ban hành các văn bản quản lý, quy chế, quy định, tạo môi trường pháp lý thông thoáng cho các doanh nghiệp du lịch hoạt động; kiểm tra việc kinh doanh, hoạt động của các doanh nghiệp; cấp, đình chỉ, thu hồi giấy phép kinh doanh du lịch.
Hiện nay, văn bản quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp du lịch nói chung được thực hiện theo nghị định số 09/CP ngày 05/02/1994 của Thủ tướng chính phủ về tổ chức và quản lý các doanh nghiệp du lịch. Thông tư số 715/TCDL ngày 09/07/1994 của Tổng cục du lịch hướng hẫn thực hiện nghị định 09/CP. Đây là văn bản cao nhất của Nhà nước về quản lý các doanh nghiệp du lịch.
4. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch và chiến lược phát triển du lịch.
Từ năm 1992, sau khi được thành lập, Tổng cục du lịch dưới sự lãnh đạo của chính phủ đã bắt tay vào xây dựng quy hoạch, kế hoạch và chiến lược phát triển du lịch Việt Nam trong từng giai đoạn cụ thể. Đến tháng 8/1994, bản quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam giai đoạn 1995 - 2010 đã được Tổng cục du lịch hoàn tất và được Thủ tướng chính phủ phê duyệt theo quyết định số 307/TT ngày 25/05/1995.
Có thể nói trong những năm qua việc thực hiện quản lý Nhà nước đối với công tác quy hoạch, kế hoạch của ngành du lịch đã được triển khai mạnh mẽ và có kết quả. Những nội dung và kết quả nghiên cứu, quy hoạch của ngành đã đóng góp tích cực vào việc xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước ta và mỗi địa phương. Mặt khác, quy hoạch du lịch cũng có cơ sở giúp cho ngành trong công tác chỉ đạo, quản lý, xây dựng các kế hoạch phát triển du lịch của cả nước, đồng thời phối hợp với các bộ, ngành, địa phương trong việc quản lý thực hiện quy hoạch tạo điều kiện cho du lịch phát triển.
5. Quản lý Nhà nước đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành du lịch.
Do tình hình phát triển nhanh của các doanh nghiệp trong ngành du lịch đã thu hút được một lực lượng lao động trực tiếp khá lớn. Năm 1993, cả nước có 43.210 lao động trực tiếp trong ngành du lịch, năm 1997 đã lên đến 150.000 lao động và năm 2001 là 200.000 lao động. Tuy nhiên chất lượng chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của ngành. Mới có khoảng 7% đạt trình độ đại học và trên đại học, 50% được đào tạo qua ác trường dạy nghề còn lại chưa qua đào tạo. Chất lượng của lực lương lao động có ảnh hưởng lớn đến chất lượng của sản phẩm du lịch. Vì vậy sự quản lý của Nhà nước đối với việc đào tạo, bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực cho ngành du lịch là rất cần thiết.
Cho đến nay cả nước có 15 trường và trung tâm dạy nghề du lịch và khách sạn, hon 10 trường đại học có khoa, tổ hoặc bộ môn chuyên ngành du lịch. Các cơ sở này hàng năm cung cấp khoảng 4000 công nhân kỹ thuật và hàng trăm cử nhân. Các cơ sở đào tạo sau đại học trong cả nước và quốc tế hàng năm cung cấp cho ngành từ 5 đến 10 thạc sỹ, tiến sỹ.
Công tác thu hút các chuyên gia hoặc các tổ chức đào tạo nguồn nhân lực về du lịch từ nước ngoài được chú ý hơn. Các trường đào tạo du lịch của các quốc gia như: Cộng hoà liên bang Đức, Cộng hoà Pháp, Austraylia... cùng với các tổ chức du lịch thế giới và khu vực như: WTO, ASIA, PATA... đều muốn hợp tác giúp đỡ ngành du lịch nước ta trong công tác đào tạo nguồn nhân lực.
Đầu năm 2002 vừa qua, tại Wasington, Tổng cục du lịch đã làm việc với hội đồng du lịch quốc tế (I IC) và công ty tư vấn - đào tạo du lịch Hoa Kỳ về chương trình đào tạo tại Hoa Kỳ và Việt Nam cho một số cán bộ quản lý và nhân viên phục vụ trong các khách sạn 4 - 5 sao trong những năm sắp tới.
Nhìn chung công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho ngành du lịch trong những năm qua đã dần được hoàn thiện cả về số lượng và chất lượng để đáp ứng nhu cầu phát triển về du lịch. Trong những năm tới, công tác này cần tiếp tục phát huy để ngày càng theo kịp với trình độ khu vực và thế giới, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta.
6. Quản lý Nhà nước về công tác quảng bá, hợp tác quốc tế và xúc tiến du lịch.
Đối với mọi ngành sản xuất và du lịch thì vấn đề quảng bá, hợp tác quốc tế và xúc tiến thương mại chiếm một vị trí quan trọng trong quá trình tạo một sản phẩm có chỗ đứng trên thị trường. ở nước ta, du lịch đang trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn, vì vậy công tác tuyên truyền, quảng bá, hợp tác quốc tế và xúc tiến du lịch ngày càng được quan tâm. Tổng cục du lịch đã tham gia nhiều hội thảo, hội nghị, diễn đàn quốc tế và phối hợp với các tổ chức quốc tế tại Việt Nam với mục tiêu quảng bá, thúc đẩy quan hệ quốc tế, giới thiệu hình ảnh Việt Nam với thế giới. Các chương trình du lịch, sản phẩm du lịch của Việt Nam giới thiệu trên thị trường thế giới thông qua các hội chợ du lịch quốc tế.
Hợp tác đa phương được đẩy mạnh và chủ động hơn những năm trước, du lịch Việt Nam xuất hiện trong các diễn đàn, các sự kiện quốc tế với một vị thế mới, cao hơn.
Du lịch Việt Nam chú trọng và bắt đầu tham gia hợp tác du lịch APEC: tham dự nhóm cộng tác du lịch APEC lần thứ 18 và diễn đàn du lịch APEC lần thứ 2. Tổng cục du lịch đã chuẩn bị phương án cam kết trong lĩnh vực du lịch để phục vụ cho Việt Nam đàm phán gia nhập tổ chức thương mại thế giới.
Các hoạt động trên đã nâng cao vai trò của cơ quan quản lý Nhà nước về du lịch, phát huy tác dụng xúc tiến, quảng bá cho du lịch Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
III. Những vấn đề tồn tại trong công tác quản lý Nhà nước về du lịch ở nước ta.
1. Về hệ thống pháp luật du lịch.
Mặc dù pháp lệnh du lịch đã được công bố và là một văn bản pháp luật mang tính pháp lý cao nhất từ trước đến nay trong lĩnh vực du lịch nhưng việc ban hành các văn bản thi hành vẫn còn chậm chạp. Do đó đã gây ra những hạn chế nhất định trong công tác quản lý Nhà nước về du lịch và bản thân hoạt động của các doanh nghiệp du lịch. Các văn bản hiện nay mới chỉ là các văn bản pháp quy dưới luật nên tính ổn định pháp lý của các văn bản này không cao mà du lịch lại là lĩnh vực rất rộng, có liên quan đến nhiều ngành và lĩnh vực khác. Hơn nữa công tác tuyên truyền, hướng hẫn thực thi còn hạn chế, chưa nhanh nhay vơí những biến động của nền kinh tế thị trường.
Việc ban hành nghị định, nghị quyết, chỉ thị, văn bản hướng dẫn trong thời gian qua là phù hợp tuy nhiên việc triển khai thực hiện chưa được tốt ở doanh nghiệp, nguyên nhân là do:
- Việc nhận thức của các doanh nghiệp về văn bản pháp luật chưa đúng đắn.
- Việc ban hành các văn bản pháp luật đôi khi chưa hợp lý, còn chồng chéo giữa các ngành hoặc chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành hữu quan trong việc ban hành pháp luật.
- Các văn bản pháp luật ban hành mới chỉ nhằm giải quyết kịp thời từng vấn đề nảy sinh trong hoạt động du lịch vì vậy các văn bản chưa có hệ thống trong một khung pháp lý gắn bó chặt chẽ với nhau.
Môi trường pháp lý là hết sức quan trọng đối với mọi lĩnh vực kinh doanh đặc biệt trong lĩnh vực kinh doanh du lịch. Do vậy để xây dựng một môi trường pháp lý phù hợp thì trước tiên hệ thống pháp luật du lịch phaỉ được nhất quán, đồng bộ và phù hợp với điều kiện của đất nước. Đó là cơ sở pháp lý để xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan chức năng, tổ chức doanh nghiệp và các cá nhân trong hoạt động và phát triển du lịch ở nước ta.
2. Quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp du lịch.
Mặc dù công tác quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp du lịch (chủ yếu là doanh nghiệp khách sạn, doanh nghiệp lữ hành và vận chuyển khách du lịch) đã có nhiều cố gắng song vẫn còn một số hạn chế sau:
- Các văn bản quản lý Nhà nước đối với các hoạt động kinh doanh khách sạn chưa phát huy hết hiệu lực trong thực tế. Nguyên nhân do các bộ các ngành không quan tâm đúng mức và không có sự chỉ đạo kiên quyết của Chính phủ.
- Chức năng quản lý Nhà nước về khách sạn còn chồng chéo, ảnh hưởng đến hoạt động king doanh của khách sạn do cung vượt quá cầu.
- Đối với các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành thì sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước ngày càng gay gắt, thiếu lành mạnh, môi trường kinh doanh lộn xộn. Điều này tạo điều kiện cho các hãng lữ hành nước ngoài lợi dụng ép giá cũng như can thiệp sâu hơn vào hoạt động kinh doanh của Việt Nam.
- Tình trạng kinh doanh lữ hành trái phép, nép bóng, bán chức năng đang diễn ra ngày càng phức tạp. Một số doanh nghiệp lữ hành quốc tế tự ý hình thành nhiều trung tân du lịch mà không được phép của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Chúng ta buông lỏng để các trung tâm này hoạt động trái pháp luật, gây phá giá, trốn thuế, làm xáo trộn thị trường du lịch, ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp làm ăn nghiêm túc.
Nhiều doanh nghiệp lữ hành trong nước còn thụ động, không chủ động vươn ra thị trường nước ngoài để tiếp cận mở rộng thị trường và tìm kiếm nguồn khách hoạt động, đối tác vì vậy hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp này còn thấp.
Nguyên nhân là do công tác quản lý, kiểm tra, kiển soát của các cơ quan quản lý Nhà nước về du lịch nói chung và về lữ hành nói riêng còn bị buông lỏng. Việc xử lý không nghiêm túc các vi phạm cũng đã tạo điều kiện cho một số doanh nghiệp kinh doanh trái phép, coi thường pháp luật kỷ cương; việc áp dụng luật thuế VAT còn nhiều bất cập, một số thuế suất dịch vụ chưa phù hợp, gây trở ngại cho các hoạt động doanh nghiệp. Chính sách thuế, chính sách ưu đãi về vốn và đầu tư đổi mới ngành du lịch còn ít được quan tâm. Chính sách tiền lương còn bất cập chưa khuyến khích được các doanh nghiệp tích luỹ vốn, đổi mới phương tiện và công nghệ, nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên.
3. Về công tác quản lý và quy hoạch du lịch.
Có thể nói công tác quản lý và quy hoạch du lịch ở nước ta đã đạt được những kết quả nhất định nhưng bên cạnh đó vẫn còn một số hạn chế. Năm 1995, Thủ tướng chính phủ đã phê duyệt dự án '' Quy hoạch tổng thể và phát triển du lịch Việt Nam thời kỳ 1995 - 2010'', song nhiều khu tài nguyên du lịch được xác định để xây dựng các điểm du lịch đã bị khai thác, chen lấn hoặc xây dựng cho những mục đích khác nhau.
Trong những năm qua, việc phát triển du lịch thiếu quy hoạch, kế hoạch đã dẫn đến việc xây dựng hàng loạt các cơ sở lưu trú, các khách sạn, nhà nghỉ, nhà trọ một cách nhanh chóng, ồ ạt. Nhiều nhà nghỉ, nhiều khách sạn thiếu thẩm mỹ kiến trúc, không tuân theo các quy định về cấu tạo địa chất, về độ cao, cấu trúc không gian mở, gây ảnh hưởng cho cảnh quan, mất đi vẻ tự nhiên cho phong cảnh khu, điểm du lịch.
Ngoài ra tại các điểm khu du lịch, nạn hàng rong, chèo kéo khách, cướp giật, ăn xin, mất vệ sinh... vẫn tồn tại bất chấp các cơ quan quản lý. Nguyên nhân là do các cơ quan này còn buông lỏng công tác quản lý cũng như việc xử phạt hành chính nên các vấn đề này vẫn chưa được giải quyết triệt để.
Những tình trạng trên do một số nguyên nhân sau:
- Việc phối hợp giưa UBND các tỉnh, thành phố với Tổng cục du lịch còn chưa thống nhất.
- Việc đầu tư vốn để thực hiện quy hoạch còn chưa hợp lý.
- Thiếu vốn đầu tư, thủ tục hành chính phức tạp, rắc rối, cản trở không nhỏ đối với nguồn đầu tư nước ngoài, khả năng huy động vốn trong nước thấp.
- Nguồn nhân lực phục vụ trong các khu vui chơi giải trí đang rơi vào tình trạng dư người. Kinh nghiệm tổ chức, quản lý khai thác ở các khu vui chơi giải trí còn yếu.
- Việc quản lý các khu, điểm du lịch còn chồng chéo giữa UBND các địa phương với các sở du lịch và Tổng cục du lịch.
- Theo kết luận của Tổng cục du lịch: du khách nước ngoài đến ta không có gì để mua. Từng địa phương, từng điểm du lịch đáng lẽ phải có những vật kỷ niệm mang đặc điểm, sắc thái của riêng mình nhưng lại toàn những thứ y như nhau và có thể mua ở Hà Nội.
Những tình trạng trên cần được khắc phục để đẩy mạnh công tác quản lý Nhà nước về du lịch.
4. Công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho du lịch.
Đội ngũ cán bộ của ngành tuy có sự trưởng thành về số lượng và chất lượng, nhưng cơ cấu thiếu hợp lý, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tế. Các cán bộ công nhân làm việc trong ngành vẫn còn hạn chế nhiều về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch chưa phát triển đồng bộ, thiếu thống nhất và thiếu sự phối hợp giữa các cơ sở đào tạo. Do đó, chất lượng đào tạo không đều, ảnh hưởng đến việc thực thi nghiệp vụ du lịch.
Chưa có sự phối hợp giữa các Sở đào tạo với các doanh nghiệp du lịch trong việc tổ chức cho các sinh viên trong ngành du lịch được tham gia làm một hoặc một số công việc cụ thể tại các cơ sở mà họ thực tập. Mà đối với sinh viên việc kết hợp lý thuyết vơí thực hành là vô cùng quan trọng vì kỹ năng của sinh viên sau khi ra trường kém, doanh nghiệp du lịch phải mất tiền của, thời gian để đào tạo lại gây lãng phí.
Vấn đề tồn tại lớn nhất của du lịch nước ta về công tác đào tạo đội ngũ trong ngành là chưa tiến hành đánh giá, phân loại chất lượng đội ngũ lao động doanh nghiệp vì vậy chưa xây dựng được chiến lược phát triẻen nguồn nhân lực lâu dài.
5. Công tác quảng bá, xúc tiến du lịch.
Công tác quảng bá, tiếp thị cho du lịch là một công việc quan trọng hàng đầu nhằm tăng cường thu hút khách du lịch. Nhưng cho đến nay, ngành du lịch nước ta vẫn chưa xây dựng được kế hoạch và chiến lược thực thi cho công tác tiếp thị toàn ngành.
Việc nghiên cứu thị trường vẫn chưa tập trung, còn mang tính chất tự phát ở một số doanh nghiệp chứ chưa mang tầm quốc gia. Vì thế du lịch Việt Nam chưa nắm được xu thế vận động của từng loại thị trường để so sánh nhằm đầu tư, khai thác cho từng loại thị trường cụ thể.
Kinh phí cho công tác quảng bá còn quá thấp, chỉ khoảng 100.000 USD/năm. Trong khi đó bình quân một năm Tổng cục du lịch Thái Lan đã phải chi 60 triệu USD, Singapo là 80 triệu USD. Điều này cho thấy việc đầu tư quảng bá, xúc tiến du lịch ở nước ta còn quá ít, kh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33887.doc