Đề án Quản lý rủi ro tín dụng trong các ngân hàng thương mại Việt Nam

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 1

PHẦN 1 QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG CÁC NHTM 2

1.1. Khái quát về rủi ro trong hoạt động của NHTM 2

1.1.1. Khái niệm rủi ro 2

1.1.2. Phân loại 2

1.2. Rủi ro tín dụng của NHTM 2

1.2.1. Khái niệm và bản chất. 2

1.2.2. Nguyên nhân. 3

1.2.3. Hậu quả. 6

1.2. Quản lý rủi ro tín dụng trong các ngân hàng thương mại 6

1.2.1. Dấu hiệu nhận biết. 6

1.2.2. Đo lường. 9

1.2.3. Kiểm soát. 13

1.2.4. Giám sát. 16

PHẦN 2 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 18

2.1. Quan điểm quản lý rủi ro tín dụng tại các NHTM Việt Nam 18

2.2. Thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tại các NHTM Việt Nam 18

2.2.1. Bộ máy quản lý rủi ro tín dụng 18

2.2.2. Quy trình quản lý rủi ro tín dụng 18

2.2.3. Công tác quản lý rủi ro tín dụng 19

2.3. Đánh giá thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tại các NHTM Việt Nam 20

2.3.1. Thành công 20

2.3.2. Hạn chế 20

PHẦN 3 GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM 21

KẾT LUẬN 23

 

doc24 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4441 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Quản lý rủi ro tín dụng trong các ngân hàng thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng thông tin chưa được tổ chức một cách hữu hiệu; thanh tra tại chỗ vẫn là phương pháp chủ yếu, khả năng kiểm soát toàn bộ thị trường tiền tệ và giám sát rủi ro còn yếu;… -Hệ thống thông tin quản lý còn bất cập. Hiện nay, trung tâm tín dụng ngân hàng (CIC) của ngân hàng nhà nước đã hoạt động hơn một thập niên và đã được những kết quả bước đầu rất đáng khích lệ trong việc cung cấp thông tin tín dụng. Tuy nhiên, thông tin cung cấp còn đơn điệu, thiếu cập nhật, chưa đáp ứng được yêu cầu tra cứu thông tin. -Sự thay đổi về lãi suất, tỷ giá hối đoái, lạm phát, chỉ số giá cả tăng, nguyên vật liệu đầu vào tăng làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của khách hàng, khó khăn tài chính dẫn đến không có khả năng trả nợ. 1.2.3. Hậu quả. Tín dụng là hoạt động chủ yếu, hoạt đọng quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Đi liền với nó là rủi ro trong hoạt động tín dụng. Rủi ro tín dụng là khách quan, là không thể tránh khỏi. Rủi ro tín dụng là bạn đường trong kinh doanh, có thể đề phòng, hạn chế, chứ không thể loại trừ. Do vậy, rủi ro dự kiến luôn được xác định trước trong chiến lược kinh doanh. Có rât snhieeuf lý do khiến người ta phải quan tâm đến vấn đề rủi ro trong hoạt động tín dụng. Sở dĩ như vậy là do rủi ro nếu không được dự kiến trước sẽ gây ra nhiều ảnh hưởng bất lợi cho cả ngân hàng lẫn người gửi tiền vào ngân hàng. Nếu một khoản cho vay nào đó bị thất thoát, không thu hồi được thì ngân hàng phải sử dụng các nguồn vốn của mình để trả cho người gửi tiền. Trường hợp không đủ nguồn vốn để trả lại cho người gửi tiền, ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng mát khả năng thanh toán, thậm chí phá sản. Vì hoạt động của ngân hàng có tính xã hội hóa cao nên dù chỉ có một ngân hàng có sự thất thoát trong hoạt động tín dụng không được ứng cứu kịp thời của ngân hàng trung ương thì có thể gây ra “phản ứng dây chuyền”, đe dọa đến cả hệ thống ngân hàng. Rủi ro tín dụng tăng lên làm chi phí của ngân hàng tăng cao ngoài dự kiến, thu nhập giảm sút, phần nộp vào ngân sách nhà nước giảm. Việc tích lũy để đầu tư đào tạo lại cán bộ, nâng cao trình độ gặp nhiều khó khăn về kinh phí. Ngân hàng bị mất vốn, phải khoanh nợ, giãn nợ, thậm chí là xóa nợ; ngoài một phần ngân sách Nhà nước cấp bù thì phần chủ yếu do ngân hàng phải trích lập phòng ngừa rủi ro nên thu nhập bị giảm. Ngoài ra, rủi ro tín dụng cao khiến cho uy tín trong nước và uy tín quốc tế của ngân hàng bị giảm sút. Điều này cũng gây tâm lý hoang mang, dao động cho cán bộ ngân hàng nói chung và cán bộ tín dụng nói riêng. Có thể nói, rủi ro tín dụng là rất nguy hiểm nếu vượt ra ngoài dự kiến. Nó có ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động của ngân hàng. Chính vì vậy, vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào để có thể quản lý cẩn thận loại rủi ro này. 1.2. Quản lý rủi ro tín dụng trong các ngân hàng thương mại 1.2.1. Dấu hiệu nhận biết. Việc kinh doanh khó có thể thất bại qua một qua một đêm, do vậy mà sự thất bại đó thường có một vài dấu hiệu biểu hiện rất rõ ràng. Ngân hàng cần có cách nhận ra những dấu hiệu ban đầu của khoản vay có vấn đề và có hành động cần thiết nhằm ngăn ngừa hoặc xử lý chúng. Nhưng cần chú ý là các dấu hiệu này đôi khi được nhận ra qua một quá trình chư không hẳn là một thời điểm, do vậy, cán bộ tín dụng phải nhận biết chúng một cách có hệ thống. Chúng ta có thể xếp các dấu hiệu của rủi ro tín dụng thành các nhóm sau: Nhóm 1: Nhóm các dấu hiệu liên quan đến mối quan hệ với ngân hàng: * Trong quá trình hạch toán của khách hàng, xu hướng của các tài khoản của khách hàng qua một quá trình sẽ cung cấp cho ngân hàng một số dấu hiệu quan trọng gồm: - Phát hành séc quá bảo chứng hoặc bị từ chối. - Khó khăn trong thanh toán lương. - Sự dao động của các tài khoản mà đặc biệt là giảm sút số dư tài khoản tiền gửi. - Tăng mức sử dụng bình quân trong các tài khoản. - Thường xuyên yêu cầu hỗ trợ nguồn vốn lưu động từ nhiều nguồn khác nhau. - Không có khả năng thực hiện các hoạt động cắt giảm chi phí. - Gia tăng các khoản nợ thương mại hoặc không có khả năng thanh toán nợ khi đến hạn. * Các hoạt động cho vay: - Mức độ vay thường xuyên gia tăng. - Thanh toán chậm các khoản nợ gốc và lãi. - Thường xuyên yêu cầu nhân hàng cho đáo hạn. - Yêu cầu các khoản vay vượt quá dự kiến. * Phương thức tài chính: - Sử dụng nhiều các khoản tài trợ ngắn hạn cho các hoạt động phát triển dài hạn. - Chấp nhận sử dụng các nguồn tài trợ đắt nhất, ví dụ: Thường xuyên sử dụng nghiệp vụ chiết khấu các khoản phải trả (factoring). - Giảm các khoản phải trả tăng các khoản phải thu. - Các hệ số thanh toán phát triển theo chiều hướng xấu. - Có biểu hiện giảm vốn điều lệ. Nhóm 2: Nhóm các dấu hiệu liên quan tới phương pháp quản lý của khách hàng: - Thay đổi thường xuyên cơ cấu của hệ thống quản trị hoặc ban điều hành. - Hệ thống quản trị hoặc ban điều hành luôn bất đồng về mục đích, quản trị, điều hành độc đoán hoặc ngược lại quá phân tán. - Cách thức hoạch định của khách hàng có biểu hiện: + Được hoạch định bởi Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc điều hành ít hay không có kinh nghiệm. + Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc điều hành các doanh nghiệp lớn tham gia quá sâu vào vấn đề thường nhật. + Thiếu quan tâm đến lợi ích của cổ đông, của chủ nợ. + Thuyên chuyển nhân viên diễn ra thường xuyên. + Lập kế hoạch xác định mục tiêu kém; xuất hiện các hành động nhất thời, không có khả năng đối phó với những thay đổi. - Việc lập kế hoạch những người kế cận không đầy đủ. - Quản lý có tính gia đình: có biểu hiện thiếu tin tưởng vào những người quản lý không thuộc gia đình; cho thành viên của gia đình chưa được đào tạo, huấn luyện đầy đủ đảm đương vị trí then chốt. - Có tranh chấp trong quá trình quản lý: bao gồm các mối quan hệ tranh chấp giữa Hội đồng quản trị và Giám đốc điều hành với các cổ đông khác, chính quyền địa phương, nhân viên, người cho vay, khách hàng chính. - Có các chi phí quản lý bất hợp lý: tập trung quá mức chi phí để gây ấn tượng như thiết bị văn phòng rất hiện đại, phương tiện giapo thông đắt tiền, Ban Giám đốc có cuộc sống xa hoa, lẫn lộn giữa chi phí kinh doanh và tài chính cá nhân. Nhóm 3: Nhóm các dấu hiệu liên quan tới các ưu tiên trong kinh doanh. - Dấu hiệu hội chứng hợp đồng lớn: Khách hàng bị ấn tượng bởi một khách hàng có tên tuổi mà sau này có thể trở nên lệ thuộc; Ban Giám đốc cắt giảm lợi nhuận nhằm đạt được hợp đồng lớn. - Dấu hiệu hội chứng sản phẩm đẹp: Không đúng lúc hoặc bị ám ảnh bởi một sản phẩm mà không chú ý đến các yếu tố khác. - Sự cấp bách không thích hợp như: Do áp lực nội bộ dẫn tới việc tung sản phẩm dịch vụ ra quá sớm; các hạn mức thời gian kinh doanh đưa ra không thực tế; tạo mong đợi trên thị trường không đúng lúc. Nhóm 4: Nhóm các dấu hiệu thuộc về vấn đề kĩ thuật và thương mại, biểu hiện: - Khó khăn trong việc phát triển sản phẩm - Thay đổi trên thị trường: tỷ giá, lãi suất,; thay đổi thị hiếu; cập nhật kĩ thuật mới; mất nhà cung ứng hoặc khách hàng lớn; thêm đối thủ cạnh tranh. - Những thay đổi từ chính sách của Nhà nước: Đặc biệt chú ý sự tác động của các chính sách thuế, điều kiện thành lập và hoạt động, môi trường. - Sản phẩm của khách hàng mang tính thời vụ cao. - Có biểu hiện cắt giảm các chi phí sửa chữa, thay thế. Nhóm 5:Nhóm các dấu hiệu về xử lý thông tin về tài chính, kế toán: - Chuẩn bị không đầy đủ số liệu về tài chính hoặc chậm trễ, trì hoãn nộp các báo cáo tài chính. - Những kết luận về phân tích tài chính cho thấy; + Sự gia tăng không cân đối về tỷ lệ nợ thường xuyên. + Khả năng tiền mặt giảm. + Tăng doanh số bán nhưng lãi giảm hoặc không có. + Các tài khoản hạch toán vốn điều lệ không khớp. + Những thay đổi về lãi gộp và lãi ròng trên doanh số bán. + Lượng hàng hóa tăng nhanh hơn doanh số bán + Số khách hàng nợ tăng nhanh và thời hạn thanh toán của các con nợ được kéo dài. + Hoạt động lỗ. + Lập kế hoạch trả nợ mà nguồn vốn không đủ. + Không hạch toán đúng tài sản cố định. + Làm đẹp bảng cân đối bằng cách tạo ra các tài sản vô hình. + Thường xuyên không đạt mức kế hoạch về sản xuất và bán hàng. + Tăng giá trị quá cao thông qua việc tính lại tài sản. + Phân bố nợ không thích hợp. + Lệ thuộc vào sản phẩm bất thường để tạo lợi nhuận. + ... - Những dấu hiệu phi tài chính khác: Là dấu hiệu mà mắt thường cán bộ tín dụng cũng có thể nhận biết được như: + Những vấn đề về đạo đức, thậm chí dáng vẻ của nhà kinh doanh cũng biểu hiện dấu hiệu gì đó. + Sự xuống cấp trông thấy của nơi kinh doanh cũng là một dấu hiệu + Nơi lưu trữ hàng hóa quá nhiều, hư hỏng và lạc hậu. Trong tất cả các dấu hiệu đó dấu hiệu rõ ràng và có ý nghĩa hơn nhất là chậm thanh toán khoản cho vay. 1.2.2. Đo lường. Một trong những mục tiêu quan trọng của quản lý tín dụng là làm giảm tối đa rủi ro tín dụng. Muốn vậy, ngân hàng cần phải lượng hóa và đánh giá được rủi ro tín dụng để từ đó có các biệ pháp quản lý hiệu quả. * Lượng hóa rủi ro tín dụng Lượng hóa rủi ro tín dụng là việc xây dựng mô hình thích hợp để lượng hóa mức đọ rủi ro của khách hàng, từ đó xác định phần bù rủi ro và giới hạn tín dụng an toàn tối đa đối với một khách hàng cũng như để trích lập dự phòng rủi ro. Sau đây là các mô hình được áp dụng tương đối phổ biến: * Mô hình chất lượng 6 C: Tư cách người vay (Character) Cán bộ tín dụng phải làm rõ mục đích xin vay của khách hàng, mục đích xin vay của khách hàng có phù hợp với chính sách tín dụng hiện hành của ngân hàng và phù hợp với nhiệm vụ sản xất kinh doanh của khách hàng hay không, đồng thời xem xét lịch sử đi vay và trả nợ đối với khách hàng cũ; còn khách hàng mới thì cần thu thập thông tin tù nhiều nguồn khác như từ: trung tâm phòng ngừa rủi ro, tù ngân hàng bạn, từ các cơ quan thông tin đại chúng,... Năng lực của người vay ( Capacity ) Tùy thuộc vào quy định pháp luật của quốc gia . Đòi hỏi người đi vay phải có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự . Thu nhập của người đi vay (Cash) Trước hết , phải xác định được nguồn trả nợ cua người đi vay như luồng tiền từ doanh thu bán hàng hay thu nhập từ bán thanh lý tài sản hoặc từ phát hành chứng khoán ,.. Bảo đảm tiền vay (Collateral) Đây là điều kiện để ngân hàng cấp tín dụng và là nguồn tài sản thứ hai có thể dùng để trả nợ vay cho ngânhàng . Các điều kiện (Conditions) Ngân hàng quy định các điều kiện tùy theo chính sách tín dụng từng thời kỳ như cho vay hàng xuất khẩu với điều kiện thâu ngân phải qua ngân hàng , nhằm thực thi chính sách tiền tệ của ngân hàng Trung ương theo từng thời kỳ . Kiểm soát (Control) Tập trung vào những vấn đề như sự thay đổi cua luật pháp có liên quan va quy chế hoạt động mới có ảnh hưởng xấu đến người vay hay không ? Yêu cầu tín dụng của người vay có đáp ứng được tiêu chuẩn của ngân hàng hay không ? * Mô hình xếp hạng của Moody và Standard & poor: Rủi ro tín dụng trong cho vay và đầu tư thường được thể hiện bằng việc xếp hạng trái phiếu và khoản cho vay. Việc xếp hạng này được thực hiện bởi một số dịch vụ xếp hạng tư nhân trong đó có Moody Standard & Poor là những dịch vụ tốt nhất. Đối với Moody xếp hạng cao nhất từ Aaa nhưng với Standard & Poor thì cao nhất là AAA. Việc xếp hạng giảm dần từ Aa (Moody) và AA (Standard & Poor) sau đó thấp dần để phản ánh rủi ro không được hoàn vốn cao. Trong đó, chứng khoán (khaonr cho vay) trong 4 loại đầu được xem như loại chứng khoán (cho vay) mà ngân hàng nên đầu tư, còn các loại chứng khoán (khoản cho vay) bên dưới được xếp hạng thấp hơn thì ngân hàng không đầu tư (không cho vay). Nhưng thực tế vì phải xem xét mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa rủi ro và lợi nhận nên những chứng khoán (khoản cho vay) tuy được xếp hạng thấp (rủi ro không hoàn vốn cao) nhưng lại có lợi nhuận cao nên đôi lúc ngân hàng vẫn chấp nhận đầu tư vào các loại chứng khoán (cho vay) này. Mô hình xếp hạng của công ty Moody và standard & Poor Nguồn Xếp hạng Tình trạng Standard & Poor Aaa Chất lượng cao, rủi ro thấp nhất* Aa Chất lượng cao* A Chất lượng trên trung bình* Baa Chất lượng trung bình* Ba Chất lượng trung bình mang yếu tố đầu cơ B Chất lượng dưới trung bình Caa Chất lượng kém Ca Mang tính đầu cơ,có thể vỡ nợ C Chất lượng kém nhất, triển vọng xấu Moody AAA Chất lượng cao nhất, rủi ro thấp nhất* AA Chất lượng cao* A Chất lượng trung bình* BBB Chất lượng trung bình* BB Chất lượng trung bình mang yếu tố đầu cơ B Chất lượng dưới trung bình CCC Chất lượng kém CC Mang tính đầu cơ, có thể vỡ nợ C Chất lượng kém nhất, triển vọng xấu *Mô hình điểm số Z (Z – Credit scoring model): Đây là mô hình do E.I.Altman dùng để cho điểm tín dụng đối với các doanh nghiệp vay vốn. Đại lượng Z làm thước đo tổng hợp để phân loại rủi ro tín dụng đối với người đi vay và phụ thuộc vào: - Trị số tài chính của người vay. - Tầm quan trọng của các chỉ số này trong việc xác định xác suất vỡ nợ của người vay trong quá khứ. Từ đó Altman đã xây dựng mô hình điểm như sau: Z = 1,2X1 + 1,4X2 + 3,3X3 + 0.6X4 + 1,0X5 Trong đó: X1 = Hệ số vốn lưu động / tổng tài sản X2 = Hệ số lãi chưa phân phối / tổng tài sản X3 = Hệ số lợi nhuận trước thuế và lãi / tổng tài sản X4 = Hệ số giá trị thị trường của tổng vốn sở hữu/ giá trị hạch toán của nợ X5 = Hệ số doanh thu / tổng tài sản Trị số Z càng cao, thì xác suất vỡ nợ của người đi vay càng thấp. Ngược lại, khi trị số Z càng thấp hoặc là một số âm thì đó là căn cứ zếp khách hàng vào nhóm nguy cơ vỡ nợ cao. Theo mô hình cho điểm Z của Altman, bất cứ công ty nào có điểm số thấp hơn 1,81 phải được xếp vào nhóm có nguy cơ rủi ro tín dụng cao. *Mô hình điểm số tín dụng tiêu dùng: Các yếu tố quan trọng liên quan đến khách hàng sử dụng mô hình cho điểm tín dụng bao gồm: Hệ số tín dụng, tuổi đời, trạng thái tài sản, số người phụ thuộc, sở hữu nhà, điện thoại cố định, số tài khoản cá nhân, thời gian công tác. Bảng dưới đây là những hạn mục và điểm thường được sử dụng ở các ngân hàng của Hoa Kỳ: STT Các hạng mục xác định chất lượng tín dụng Điểm 1. Nghề nghiệp của người vay -Chuyên gia hay phụ trách kinh doanh 10 -Công nhân có kinh nghiệm 8 -Nhân viên văn phòng 7 -Sinh viên 5 -Công nhân không có kinh nghiệm 4 -Công nhân bán thất nghiệp 2 2. Trạng thái nhà ở -Nhà riêng 6 -Nhà thuê hay căn hộ 4 -Sống cùng bạn hay người thân 2 3. Xếp hạng tín dụng -Tốt 10 -Trung bình 5 -Không có hồ sơ 2 -Tồi 0 4. Kinh nghiệm nghề nghiệp -Nhiều hơn 1 năm 5 -Từ 1 năm trở xuống 2 5. Thời gian sống tại địa chỉ hiện hành -Nhiều hơn 1 năm 2 -Từ 1 năm trở xuống 1 6. Điện thoại cố định -Có 2 -Không có 0 7. Số người sống cùng (phụ thuộc) -Không 3 -Một 3 -Hai 4 -Ba 4 -Nhiều hơn ba 3 8. Các điều khoản tại ngân hàng -Cả tài khoản tiết kiệm và phat hành Sec 4 -Chỉ tài khoản tiết kiệm 3 -Chỉ tài khản phát hành Sec 2 -Không có 0 Khách hàng có điểm cao nhất theo mô hình với 8 mục tiêu trên là 43 điểm, thấp nhất là 9 điểm. Giả sử ngân hàng biết mức 28 điểm là ranh giới giữa khách hàng có tín dụng tốt và khách hàng có tín dụng xấu, từ đó ngân hàng hình thành khung chính sách tín dụng thao mô hình điểm như sau: Tổng số điểm của khách hàng Quyết định tín dụng Từ 28 điểm trở xuống Từ chối tín dụng 29 – 30 điểm Cho vay đến 500 USD 31 – 33 điểm Cho vay đến 1000 USD 34 – 36 điểm Cho vay đến 2.500 USD 37 – 38 điểm Cho vay đến 3.500 USD 38 – 40 điểm Cho vay đến 5000 USD 41 – 43 điểm Cho vay đến 8000 USD 1.2.3. Kiểm soát. Rủi ro tín dụng không thể loại trừ hoàn toàn mà các ngân hàng chỉ có thể kiểm soát, quản lý để hạn chế thấp nhất các rủi ro có thể xảy ra. Phần này sẽ đề cập một số nguyên tắc mà các ngân hàng thương mại trên thế giới đã và đang thực hiện để kiểm soát rủi ro. 1.2.3.1. Quyết định cho vay trên cơ sở phải xác định và hiểu rõ người vay Trước hết, phải đảm bảo tín nhiệm trong quan hệ vay trả. Nguyên tắc này có thể được kiểm chứng qua thực tế và có quá trình quan hệ vay trả theo đúng các quy định của tín dụng và sự cam kết. Tuy nhiên, để thiết lập những quan hệ tín dụng đầu tiên thì nguyên tắc này vẫn phải được đảm bảo. Song nó còn được nhìn nhận và đánh giá ở những tiêu thức khác như: phẩm chất đạo đức kinh doanh; tính trung thực, nghiêm túc trong các quan hệ kinh tế; tính nghiêm túc trong việc chấp hành các luật lệ của Nhà nước. Thứ hai: phải đảm bảo nguyên tắc người vay vốn phải có đủ năng lực pháp lý và năng lực tài chính để sử dụng tiền vay và thực hiện các nghĩa vụ cam kết đối với các khoản vay. Thứ ba: phải đảm bảo nguyên tắc xây dựng được các phương án dự phòng trả nợ vay ngân hàng của người vay. 1.2.3.2. Hiệu quả và chất lượng tín dụng trên cơ sở hiệu quả sản xuất kinh doanh của người vay vốn. Điều này có nghĩa rằng: hạn chế rủi ro tín dụng cũng đồng nghĩa với hạn chế, giảm thiểu những rủi ro tổn thất trong sản xuất và kinh doanh. Một khi nguwoif vay vốn hoạt đọng sản xuất kinh donh khoong có hiệu quả, sản xuất sản phẩm không tiêu thụ được, kinh doanh không có lãi, tình trạng mất vốn do thua lỗ...sẽ là những nguyên nhân trực tiếp sẽ làm cho các khoản tín dụng không được thực hiện đúng hạn. trong trường hợp người vay vốn bị páh sản thì tình trạng mất vốn của ngân hàng sẽ trở nên nghiêm trọng hơn. Do đó ngân hàng có thu được vốn và lãi tiền vay hay không là phụ thuộc chủ yếu vào người vay vốn sử dụng vốn vào sản xuất kinh doanh có hiệu quả hay không. 1.2.3.3. Mở rộng khối lượng trên cơ sở nâng cao chất lượng tín dụng. Việc mở rộng hoạt đọng kinh doanh tín dụng là cần thiết để mở rộng hoạt động kinh doanh của các ngân hàng. Song chất lượng tín dụng mới có ý nghĩa quyết định sự tồn tại và phát triển thực chất của các ngân hàng. Chất lượng tín dụng chính là kết quả của các khoản tín dụng được thực hiện trọn vẹn, người vay thực hiện đúng cam kết vay tiền, ngân hàng thu được gốc và lãi vay đúng hạn. Như trên đã đề cập,trong quan hệ tín dụng thì quyền cho vay thực tế là ở ngân hàng, quyền trả nợ thực tế là của người vay. Do đó, khi ngân hàng đã quyết định và khoản cho vay được thực hiện thì việc thu hồi vốn lại phụ thuộc vào người vay hay đúng hơn phụ thuộc vào chính kết quả sử dụng vốn vay.Vì vậy, việc phân tích, đánh giá năng lực tài chính và khả năng sản xuất kinh doanh của người vay để xem xét hiệu quả vốn tín dụng là đặc biệt quan trọng để quyết định chất lượng vốn tín dụng. Mọi sự hiểu biết của ngân hàng về những lĩnh vực sản xuất kinh doanh mà người vay vốn định đầu tư sẽ tạo thêm cho người vay cơ sở chắc chắn hơn để đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn vay. 1.2.3.4. Chủ động phân tán rủi ro để ngăn ngừa và hạn chế rủi ro. Có thể nói, phân tán rủi ro là một giải pháp có tính chủ động và ngăn ngừa tích cực những hậu quả lớn có thể xảy ra đối với mỗi ngân hàng, nhất là nhứng ngân hàng nhỏ, năng lực tài chính hạn chế. Việc phân tán rủi ro được thực hiện thông qua phân tán dư nợ và cộng đồng tài trợ. Nó được biểu hiện duwois hình thức mỗi ngân hàng không nên tập chung vốn quá nhiều cho một người vay. Những ngân hàng lớn cần huy động nhiều ngân hàng tham gia tài trợ và cùng quane lý vốn cho vay, hạn chế cho vay các lĩnh vực có tỷ lệ rủi ro cao. Khi nền kinh tế càng phát triển thì đòi hỏi các ngân hàng càng phải hợp tác và liên kết chặt chẽ để hỗ trợ nhau và tăng cường khả năng cùng tồn tại và phát triển trong nền kinh tế. Đồng thời sư hợp tác, liên kết đó cũng chính là sự phân tán rủi ro, tránh tập trung rủi ro lớn vào một ngân hàng. Do vậy, phân tán rủi ro vừa là yêu cầu quan trọng của mỗi ngân hàng thương mại, vừa là xu thế hội nhập và hợp tác trong thị trường tài chính hiện nay. 1.2.3.5. Cho vay phải có đảm bảo tiền vay với tính khả thi cao. Thông thường để tránh những rủi ro không trả được nợ của người vay, các ngân hàng quy định điều kiện vay vốn, trong đó điều kiện về đảm bảo tiền vay được xem như quan trọng nhất. Đảm bảo tiền vay có nhiều loại: đảm bảo bằng cầm cố, thế chấp tài sản bằng tiền vay; đảm bảo bằng tài sản hoặc bảo lãnh của bên thứ ba; đảm bảo bằng tài sản hình thành từ vốn vay và đảm bảo bằng chính sự tín nhiệm lẫn nhau trong quan hệ tín dụng. thực chất của đảm bảo vay vốn là sử dụng những giá trị của tài sản làm đảm bảo để trả nợ thay cho các khoản vay mà người vay đã sử dụng vào sản xuất kinh doanh nhưng không có khả năng trả nợ ngân hàng. Như vậy tài sản làm đảm bảo tiền vay phải có giá trị, bản thân nó phải trở thành hàng hóa, tức là khi chuyển giao quyền sở hữu thì đồng thời cũng phải đạt được sự chuyển đổi từ hiện vật thành giá trị để trả nợ ngân hàng. Trên thực tế, nhiều ngân hàng đã đưa ra và quán triệt nguyên tắc này, song các tài sản đảm bảo nợ vay khi phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ hì lại không thể chuyển hóa thành giá trị được, tức là không thể bán để thu hồi nợ khi các ngân hàng được phép phát mại tài sản. Do vậy, yêu cầu đặt ra đối với các khoản tài sản cho vay có tài sản làm đảm bảo tài sản nợ vay là tài sản đó phải là hàng hóa, có giá trị lớn hơn khoản vay, có thị trường tiêu thụ khi hàng hóa đó để thực hiện nghĩa vụ trả nợ. 1.2.3.6. Cho vay phải do chính ngân hàng quyết định và chịu trách nhiệm về quyết định đó. Việc có cho vay tiền hay không là do quyết định của ngân hàng. Trong thực tế, ngân hàng còn phải chịu những can thiệp từ bên ngoài vào các hoạt động tín dụng của mình. Điển hình là tình trạng cá nhân hay các cơ quan chính quyền các cấp đề nghị, thậm chí yêu cầu ngân hàng phải đáp ứng nhu cầu vốn nào đó vì quyền lợi của người vay. Thường thì sự can thiệp bên ngoài lại chỉ nhằm vào các khoản cho vay, mà không có sự can thiệp vào các khoản huy động vốn. Nhưng đến khi không thu hồi được nợ, mất vốn thì sự can thiệp đó lại không bị đưa ra xem xét và cùng chịu trách nhiệm. Mọi sự can thiệp bên ngoài đối với khoản cho vay đều phải kinh tế. Vì vậy, thiếu tính nghiệp vụ ngân hàng, thường đưa đến những sai lầm và gây ra những tổn thất. Có thể nói, sự độc lập điều hành và quản lý ngân hàng trong khuôn khổ pháp lý sẽ có ý nghĩa rất lớn đến tính đúng đắn trong quyết định cho vay và trách nhiệm đối với quyết định đó. 1.2.3.7. Phải quản lý các khoản nợ quá hạn, nợ khó đòi và các khoản nợ có vấn đề. Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đến hạn thỏa thuận ghi trên hợp đồng tín dụng. Nợ khó đòi là khoản nợ quá hạn đã qua một kỳ gian hạn nợ. Ngân hàng cần phải phân loại nợ quá hạn, nợ khó đòi hoặc nợ có vấn đề. Trên cơ sở phân tích nguyên nhân, thực trạng, ngân hàng có thể đưa ra các biện pháp giải quyết nhằm hạn chế những khoản nợ này. - Trong trường hợp người vay có khó khăn tài chính tạm thời song vẫn còn khả năng và ý chí trả nợ, ngân hàng sẽ áp dụng những chính sách hỗ trợ như: cho vay thêm, gia hạn nợ, giảm lãi... - Trong trường hợp người vay lừa đảo, chây ỳ, không có khả năng trả ngân hàng áp dụng chính sách thanh lý như bán tài sản thế chấp, phong tỏa tiền gửi trên tài khoản. - Ngân hàng cần xây dựng quỹ dự phòng để bù đắp tổn thất. Dựa trên rủi ro chấp nhận và danh mục các khoản cho vay rủi ro, ngân hàng xây dựng quỹ dự phòng. Quỹ này không có tác dụng giảm rủi ro mà để chống đỡ khi vốn của chủ khi tổn thất xảy ra. 1.2.4. Giám sát. Ngân hàng trong suốt thời gian cho vay phải liên tục giám sát các danh mục tín dụng nhằm có các hành động kịp thời khi có bất kỳ vấn đề nào nảy sinh đối với khoản vay. Việc giám sát được thực hiện bằng nhiều phương pháp khác nhau, tùy vào từng ngân hàng, hoặc dùng đồng thời các phương pháp, đó là: - Phương pháp dùng bảng so sánh: Cán bộ tín dụng xây dựng một bảng theo dõi với các nội dung đã được thống nhất với khách hàng (bao gồm các nội dung đã cam kết trong khế ước vay nợ và các tỷ số tài chính tối thiểu cần duy trì). Bảng theo dõi tiến hành theo dõi các chỉ tiêu từng tháng của khách hàng trong suốt thời gian vay. Qua bảng này chúng ta có thể thấy sự gia tăng hay giảm về chất lượng khoản vay một cách khá dễ dàng. Kết cấu của bảng như sau: Chỉ tiêu 1 2 3 ... ... Ghi số kế hoạch Ghi số thực tế Ghi số kế hoạch Ghi số thực tế Cột chỉ tiêu cần theo dõi có thể là: Doanh số bán hàng so với kế hoạch; Tỷ lệ phần trăm tổng lợi nhuận; tỷ lệ phần tră lãi ròng; Khoản phải thu, phải trả (hay các hệ số vòng quay của nó). Khi lên bảng số liệu cán bộ tín dụng phải kiểm tra tính thời điểm của thông tin, tính pháp lý của thông tin. Sau khi lập bảng, cán bộ tín dụng sẽ thấy được mức đọ so sánh giữa các chỉ tiêu theo 2 chiều: So với kế hoạch ban đầu và so với thời gian trước đó (tháng trước). - Phương pháp dùng đồ thị: Phương pháp này theo dõi giám sát khách hàng bằng cách: Khi nhận được các số liệu kế hoạch (trong phần xét duyệt cho vay) cán bộ tín dụng sẽ đưa lên một đồ thị mà một trục là tháng, một trục là các mức độ của chỉ tiêu. Mỗi chỉ tiêu được theo dõi bằng một đồ thị riêng. Mức Thán Khi nhận được số liệu thực tế, sau khi đã kiểm tra, cán bộ tín dụng tiếp tục đặt nó lên đồ thị. Các đường biểu diễn này phản ánh rõ xu hướng của chất lượng khoản vay. - Phương pháp kiểm tra tại chỗ: Phương pháp này đem lại sự yên tâm hơn cho ngân hàng so với việc phân tích các số liệu tài chính của khách hàng. Các nội dung xem xét cũng được xác định như trên nhưng bằng giải pháp kiểm tra tại chỗ mà thôi. Khi kiểm tra sẽ xuất hiện các dấu hiệu cảnh báo để từ đó có được nhận định trong việc giám sát. Tóm lại, việc giám sát cho dù bằng phương pháp nào thì cũng giúp cho ngân hàng kiểm soát được hành vi của người vay vốn, đảm baoe đồng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21371.doc
Tài liệu liên quan