MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 2
PHẦN 1: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 3
PHẦN 2: THANH KHOẢN VÀ RỦI RO THANH KHOẢN 6
I. KHÁI NIỆM 6
1.1. Tính thanh khoản của tài sản 6
1.2. Tính thanh khoản của nguồn 6
1.3. Cung và cầu thanh khoản, mua và bán thanh khoản 7
1.4. Rủi ro thanh khoản 7
II. CÁC CHỈ TIÊU THANH KHOẢN 9
PHẦN 3: QUẢN LÝ THANH KHOẢN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 11
I. KHÁI NIỆM 11
II. MỤC TIÊU QUẢN LÝ THANH KHOẢN 12
III. NỘI DUNG QUẢN LÝ THANH KHOẢN 12
3.1. Xác định cầu thanh khoản 13
3.2. Xác định cung thanh khoản 14
IV. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ THANH KHOẢN 20
4.1. Nhân tố chủ quan 20
4.2. Nhân tố khách quan 21
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 22
22 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6652 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Quản lý thanh khoản trong ngân hàng thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ua chịu hàng hoá và trang thiết bị , phát hành chứng khoán, vay vốn của tổ chức tín dụng khác…
Cho thuê thiết bị trung và dài hạn : Ngân hàng mua các thiết bị và máy móc cần thiết và cho khách hàng thuê với điều kiện khách hàn phải trả tới hơn 70% hoặc 100% giá trị của tài sản cho thuê.
Cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn : Uỷ thác vay hộ, uỷ thác cho vay hộ, uỷ thác phát hành, uỷ thác đầu tư… trong đó ngân hàng thực hiện việc quản lý tài sản và quản lý tài chính hộ cho các cá nhân và doanh nghiệp.
Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm : Ngân hàng bán bảo hiểm cho khách hàng, cung cấp dịch vụ tiết kiệm gắn với bảo hiểm.
Cung cấp các dịch vụ đại lý : Đại lý cho các ngân hàng khác như thanh toán hộ, phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi làm ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ…
PHẦN 2THANH KHOẢN VÀ RỦI RO THANH KHOẢN
I. KHÁI NIỆM
Để đi sâu tìm hiểu về hoạt động quản lý thanh khoản tại ngân hàng chúng ta cần biết một số khái niệm cơ bản sau :
1.1. Tính thanh khoản của tài sản
Là khả năng chuyển tài sản thành tiền, được đo bằng thời gian và chi phí. Chi phí ở đây không phải là chi phí để bán tài sản thành tiền mà là tổn thất (giảm giá) của tài sản. Thời gian và chi phí càng cao thì tính thanh khoản của tài sản càng thấp và ngược lại. Tính thanh khoản của tài sản phản ánh rủi ro (tổn thất) khi chuyển tài sản thành tiền trong khoảng thời gian nhất định. Tuy nhiên một số trường hợp, một tài sản muốn bán nhanh (thời gian chuyên tiền ngắn) thi chi phí (tổn thất) lại lớn. Điều này cho thấy tính thanh khoản của một tài sản phụ thuộc vào nhiều nhân tố và có thể thay đổi giữa các vùng, các nước. Vì vậy những tài sản nào đáp ứng cả hai yêu cầu : thời gian ngắn và chi phí thấp mới được xếp vào tài sản thanh khoản.
Ngân hàng nắm giữ danh mục tài sản có tính thanh khoản khác nhau. Kết cấu tài sản với tính thanh khoản khác nhau tạo nên tính thanh khoản của nhóm tài sản hoặc tổng tài sản.
1.2. Tính thanh khoản của nguồn
Ngân hàng huy động vốn để tạo lập nên các tài sản, trong đó có các tài sản có tính thanh khoản cao. Như vậy khả năng huy động tạo khả năng thanh toán chongân hàng, phản ánh được tính thanh khoản của nguồn vốn. Tính thanh khoản của nguồn được đo bằng thời gian và chi phí để mở rộng nguồn khi cần thiết. Thời gian và chi phí càng thấp, tính thanh khoản của nguồn càng cao. Tính thanh khoản của nguồn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như sự phát triển của thị trường tài chính, sự gia tăng thu nhập của dân cư và tính nhạy cảm của thu nhập với lãi suất, vị tríânf mạng lưới ngân hàng…
1.3. Cung và cầu thanh khoản, mua và bán thanh khoản
Cung thanh khoản chính là khả năng cung ứng tiền của một ngân hàng thương mại nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng, bao gồm việc giữ tài sản thanh khoản và khả năng huy động mới.
Cầu thanh khoản là nhu cầu thanh toán của khách hàng mà ngân hàng có nghĩa vụ đáp ứng. Cầu thanh khoản bao gồm yêu cầu chi trả và vay hợp pháp của ngân hàng.
Việc ngân hàng bán các tài sản để đáp ứng nhu cầu thanh khoản gọi la bán thanh khoản. Việc mở rộng nguồn để đáp ứng nhu cầu thanh khoản gọi là mua thanh khoản trên thị trường. Cả bán và mua thanh khoản đều gắn liền với chi phí: đó là tổn thất mà ngân hàng phải chấp nhận khi bán tài sản với giá thấp hơn dự tính và lãi suất cao hơn mà ngân hàng phải trả để có nguồn mới. Chi phí này là cái giá mà ngân hang phải trả để có được thanh khoản. Do yêu cầu cấp bách trong thanh toán nên chi phí huy động (mua thanh khoản) của ngân hàng thường cao hơn huy động bình thường.
Hoạt động thanh khoản tại ngân hàng thương mại :
Tính thanh khoản của ngân hàng là khả năng của ngân hàng trong việc đáp ứng các nhu cầu thanh toán của khách hàng (ví dụ như rút tiền và yêu cầu vay của khách hàng) được tạo bởi tính thanh khoản của tài sản và tính thanh khoản của nguồn. Khả năng thanh khoản tại các ngân hàng là mục tiêu di động luôn được hình thành từ những thay đổi trên thị trường tài chính. Một ngân hàng được coi là có tính thanh khoản cao khi nó có đủ ngân quỹ và các tích sản lưu hoạt khác cùng với khả năng tăng vốn nhanh từ các nguồn khác nhau với chi phí thấp, khiến nó có khả năng đáp ứng các nghĩa vụ chi trả và các ràng buộc tài chính, theo một phương pháp thích hợp.
1.4. Rủi ro thanh khoản
Là khả năng xảy ra tổn thất cho ngân hàng khi cung thanh khoản không đáp ứng được cầu thanh khoản.
Rủi ro thanh khoản chỉ là một vấn đề thông thường xảy ra hàng ngày đối với hoạt động ngân hàng. Chỉ trong trường hợp đặc biệt hạn hữu nó mới đe doạ đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Vì thanh khoản là vấn đề thường nhật, cho nên một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu đối với nhà quản lý là đảm bảo khả năng thanh khoản một cách thường xuyên và đầy đủ.
Tại sao ngân hàng phải đối mặt với rủi ro thanh khoản ?
+ Những nguyên nhân tiền đề : có 3 nguyên nhân chính khiến cho ngân hàng phải đối mặt với rủi ro thanh khoản thường xuyên là :
- Ngân hàng huy động và đi vay vốn với thời hạn ngắn, và cứ tuần hoàn chúng để sử dụng cho vay với thời hạn dài hơn. Do đó, nhiều khi ngân hàng phải đối mặt với sự không trùng khớp với thời hạn đến hạn giữa tài sản nợ và tài sản có. Ngân hàng luôn phải sẵn sàng thanh khoản để đối mặt với các nhu cầu hoàn trả tức thời.
- Sự nhạy cảm của tài sản tài chính với những thay đổi của lãi suất. Khi lãi suất tăng, nhiều người gửi tiền sẽ rút tiền ra tìm kiếm nơi gửi khác có mức lãi suất cao hơn. Những người có nhu cầu tín dụng sẽ hoãn lại, hoặc rút hết số dư hạn mức tín dụng với mức lãi suất thấp hơn lãi suất thoả thuận. Như vậy thay đổi lãi suất sẽ ảnh hưởng đến luồng tiền vào ra của ngân hàng và cuối cùng là đến thanh khoản của ngân hàng.
- Ngân hàng luôn phải đáp ứng nhu cầu thanh khoản một cách hoàn hảo. Những trục trặc về thanh khoản sẽ làm xói mòn niềm tin của dân chúng vào ngân hàng. Ngân hàng phải liên hệ chặt chẽ với những khách hàng có số dư tiền gửi lớn và những khách hàng đang còn hạn mức tín dụng lớn chưa sử dụng hết để biết được kết hoạch của họ khi nào thì rút tiền và rút bao nhiêu để có phương án thanh khoản thích hợp.
+ Ngưyên nhân từ hoạt động :
- Nguyên nhân từ bên tài sản nợ : rủi ro thanh khoản có thể phát sinh bất cứ lúc nào khi những người gửi tiền thực hiện việc rút tiền ngay lập tức. Để đáp ứng nhu cầu này ngân hàng phải đi vay trên thị trường tiền tệ hoặc bán bớt tài sản với giá thấp.
- Nguyên nhân từ bên tài sản có : rủi ro thanh khoản phát sinh liên quan đến các cam kết tín dụng. Một cam kết tín dụng cho phép người vay rút tiền vay bất cứ lúc nào trong thời hạn của nó, ngân hàng phải đảm bảo có đủ tiền ngay lập tức để đáp ứng nhu cầu của khách hàng nếu không ngân hàng sẽ phải đối mặt với rủi ro thanh khoản.
Như vậy trong hầu hết các trường hợp khi ngân hàng phải đối mặt với rủi ro thanh khoản thì chi phí huy động vốn bổ sung tăng lên một cách đáng kể do lượng vốn cung ứng trên thị trường giảm. Hậu quả là ngân hàng phải bán một số tài sản có độ thanh khoản thấp để đáp ứng nhu cầu gửi tiền của người gửi. Điều này khiến cho ngân hàng gặp phải rủi ro thanh khoản nghiêm trọng và ngân hàng buộc phải bán thốc bán tháo tức thời ngay cả số tài khoản khó chuyển nhượng với giá thấp. Do bán khẩn cấp một số tài sản nên khả năng thanh toán cuối cùng của ngân hàng bị đe doạ. Từ chỗ đối mặt với rủi ro thanh khoản ngân hàng sẽ đối mặt với rủi ro rủi ro phá sản. Mà ngân hàng có thể bị đóng cửa nếu như không taqng đủ và kịp thời nguồn thanh khoản cho dù khả năng thanh toán cuối cùng của ngân hàng là tốt. Từ đó có thể thấy được tầm quan trọng của quản lý thanh khoản của các nhà quản trị ngân hàng.
II. CÁC CHỈ TIÊU THANH KHOẢN
- Tỷ lệ tín dụng/tiền gửi : nếu một ngân hàng có tỷ lệ này cao, hàm ý ngân hàng đã dựa chủ yếu vào nguồn vốn ngắn hạn hơn là nguồn vốn dài hạn để tài trợ tín dụng.
- Tỷ lệ tiền vay/tổng tài sản : nếu một ngân hàng có tỷ lệ này cao, hàm ý ngân hàng đã dựa chủ yếu vào nguồn vốn ngắn hạn hơn là nguồn vốn dài hạn để tài trợ tín dụng.
- Tỷ lệ cam kết tín dung/tổng tài sản : tỷ lệ này cao phản ánh nhu cầu thanh khoản cũng phải cao để đáp ứng nhu cầu rút tiền ra bất cứ lúc nào của người vay. Như vậy một ngân hàng có nhiều cam kết tín dụng sẽ phải đối mặt với rủi ro thanh khoản cao hơn ngân hàng có ít cam kết tín dụng.
- Chỉ tiêu trạng thái tiền mặt :
Trạng thái tiền mặt = (tiền mặt + tiền gửi đến hạn tại các tổ chức tín dụng khác)/tổng tài sản có
Nếu chỉ tiêu này càng cao, hàm ý ngân hàng càng có khả năng xử ký các nhu cầu tiền mặt tức thời.
- Chỉ tiêu chứng khoán thanh khoản
Chứng khoán thanh khoản = chứng khoán chính phủ/tổng tài sản có
Các chứng khoán thanh khoản bao gồm trái phiếu và tín phiếu kho bạc là những chứng khoán có độ thanh khoản cao nhất.
- Chỉ tiêu năng lực sử dụng vốn sinh lời
Năng lực sử dụng vốn = (dư nợ tín dụng + dư nợ cho thuê)/tổng tài sản có
Vì tín dụng và cho thuê tài chính được xem là những tài sản thanh khoản cao nhất, do đó chỉ tiêu này càng lớn ngân hàng càng bộc lộ là kém thanh khoản.
- Chỉ tiêu tiền nóng
Chỉ tiêu tiền nóng = tiền nóng bên tài sản có/tiền nóng bên tài sản nợ
Tiền nóng là các loại tài sản nhạy cảm lãi suất thường gồm tiền mặt, tiền gửi không kỳ hạn, chứng khoán chính phủ ngắn hạn và các tài sản có thể chuyển thành tiền trong ngắn hạn.
- Chỉ tiêu tiền gửi thường xuyên
Tiền gửi thường xuyên = tiền gửi thường xuyên/tổng tài sản
Chỉ tiêu này càng lớn thì ngân hàng càng đảm bảo được thanh khoản
- Chỉ tiêu cơ cấu tiền gửi
Chỉ tiêu cơ cấu tiền gửi = tiền gửi không kỳ hạn/tiền gửi có kỳ hạn
Chỉ tiêu này càng thấp thì nhu cầu thanh khoản của ngân hàng càng thấp.
PHẦN 3QUẢN LÝ THANH KHOẢN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I. KHÁI NIỆM
Quản trị thanh khoản là một lĩnh vực quản lý quan trọng đối với mọi định chế tài chính. Các ngân hàng thương mại đều tham gia vào quá trình trung gian hoá kỳ hạn, đi vay ngắn hạn và cho vay dài hạn do vậy nhất thiết ngân hàng phải đối mặt với tình trạng thiếu thanh khoản tiềm năng. Quản lý thanh khoản là một lĩnh vực quản lý nhằm đáp ứng mục tiêu thanh khoản của ngân hàng tránh rủi ro thanh khoản cao.
Việc quản lý thanh khoản không phải là việc dễ làm bởi vì mỗi loại tài sản khác nhau đều có sự khác nhau về thanh khoản. Ngoài ra yêu cầu thanh khoản cũng biến đổi đáng kể trong các NHTM khác nhau và chủ yếu tuỳ theo tính ổn định và khả năng tiên liệu các nguồn quỹ. Khi xác định mức thanh khoản, nhà quản lý sẽ phải cân nhắc cẩn trọng giữa khả năng thanh khoản và khả năng sinh lời vì thanh khoản của ngân hàng liên quan trực tiếp đến an toàn và tính sinh lời. Đó la hai mặt của một bài toán, lãi suất cao gắn với tài sản tài chính có kỳ hạn dài và tính lưu hoạt kém, còn tỷ suất lợi tức thấp gắn với tài sản tài chính có kỳ hạn ngắn và tính lưư hoạt cao hơn, mà lời giải là nhà quản trị phải cân đối cho được nhu cầu thanh khoản với các mục đích sinh lợi. NHTM có thể giảm tối thiểu khả năng thanh toán của nó như thu hồi vốn thông qua việc bán lại các tài sản có tính thanh khoản cao và đầu tư vào các tài sản dài hơn để tìm kiếm mới lợi nhuận cao hơn, nhưng làm như vậy sẽ có mức rủi ro cao hơn, đồng thời có nguy cơ thiếu thanh khoản và thậm chí chịu thêm rủi ro lãi suất bởi tài sản có kỳ hạn dài.
Ngược lại có thể giảm tối thiểu rủi ro thiếu thanh khoản bằng cách chỉ nắm giữ đa số các tài sản có tính thanh khoản cao so với nhu cầu thanh khoản dự kiến nhưng ảnh hưởng đến mức sinh lời. Để gia tăng an toàn thanh khoản, chi phí cũng phải gia tăng. Có thể làm giảm thu nhập của ngân hàng. Do vậy duy trì an toàn thanh khoản – tức khả năng đáp ứng kịp thời nhu cầu thanh khoản là mục tiêu quan trọng và xuyên suốt trong hoạt động của ngân hàng.
II. MỤC TIÊU QUẢN LÝ THANH KHOẢN
- Đảm bảo khả năng chi trả kịp thời của ngân hàng với chi phí hợp lý
- Dự đoán các nguy cơ rủi ro thanh khoản và tổn thất có thể xảy ra.
III. NỘI DUNG QUẢN LÝ THANH KHOẢN
Quản lý thanh khoản không chỉ được đặt ra đối với các ngân hàng thương mại mà còn đối với các trung gian tài chính hoạt động dựa trên tiền gửi. Tuy nhiên nội dung quản lý thường có điểm khác nhau giữa các ngân hàng khác nhau(tại các vùng khác nhau, tuỳ thuộc mục tiêu và chiến lược phát triển trong từng thời kỳ, các quy mô và điều kiện pháp lý khác nhau…). Có ngân hàng qủan lý thanh khoản nghiêng về phía tài sản, có ngân hàng nghiêng về phí nguồn(tức là duy trì khả năng vay nhanh chóng)… Đồng thời cũng có nhiều trường phái quản lý thanh khoản khác nhau, như trường phái quản lý khe hở thanh khoản (kết hợp cung cầu thanh khoản), trường phài quản lý theo các tỷ lệ thanh khoản,,,
Dưới đây là sơ đồ thể hiện mối liên hệ giữa cung, cầu thanh khoản và tài sản, nguồn vốn của ngân hàng:
Tài sản
Nguồn vốn
Cung thanh khoản
Cầu thanh khoản
Một cách tổng quát, thanh khoản ngân hàng có thể phân tích trong khuôn khổ cung cầu, nghĩa là xác định những nhu cầu chi trả và những nguồn thu của ngân hàng tại một thời điểm nhất định. Trong đó, những nhu cầu chi trả tại thời điẻm t gọi là “Cầu thanh khoản – kí hiệu D” và những nguốn t hu tại thời điểm t gọi là “Cung thanh khoản – kí hiệu là S”.
3.1. Xác định cầu thanh khoản
Để có thể thực hiện các mục tiêu quản lý thanh khoản, nhà quản lý phải xác định cầu thanh khoản, bao gồm các yếu tố tạo nên cầu thanh khoản, các nhân tố tác động đến cầu thanh khoản và ước lượng cầu thanh khoản.
Cầu thanh khoản được tạo thành bởi các yếu tố chính sau :
- Nhu cầu rút tiền của người gửi : đây là nhu cầu thanh khoản chính có tính thường xuyên, tức thời và vô điều kiện; bao gồm tất cả các loại thuộc tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi phát hành séc, tiền gửi có kỳ hạn có thể rút trước hạn, tiền gửi có kỳ hạn thanh toán khi đến hạn, thanh toán kỳ phiếu và trái phiếu khi đến hạn…
- Nhu cầu tín dụng hợp pháp của khách hàng để thanh toán hàng hoá và dịch vụ mà ngân hàng cam kết cho vay. Đây là các quan hệ tín dụng mà ngân hàng muốn duy trì và đáp ứng, bao gồm nhu cầu cấp tín dụng mới, gia hạn khi khoản vay đến hạn, sỉư dụng hạn mức tín dụng hay thực hiện cam kết tín dụng.
- Các khoản tiền vay đến hạn phải trả : đây là quan hệ tín dụng trên thị trường tiền tệ bao gồm hoàn trả tiền vay từ các ngân hàng khác, từ NHTW và các thoả thuận mua lại.
- Chi phí hoạt động và trả thuế : bao gồm các chi phí liên quan đến hoạt động , như chi tiền lương, tiền thưởng, bảo hiểm xã hội, công tác phí, mua sắm tài sản, chi sử dụng dịch vụ của các đơn vị khác; chi trả thuế các loại.
- Thanh toán cổ tức cho cổ đông : bao gồm chi trả cổ tức cho tất cả các loại cổ phiếu do ngân hàng phát hành.
- Trong cầu thanh khoản, có hai bộ phận quan trọng đối với ngân hàng. Đó là nhu cầu rút tiền và nhu cầu vay tiền của khách hàng. Loại thứ nhất gắn liền với tiền ngân hàng huy động được, loại thứ hai gắn liền với việc tạo nên tài sản mới. Các khoản tiền khi huy động được, ngay lập tức gia tăng ngân quỹ cho ngân hàng (tức là tăng cung thanh khoản), đồng thời cũng tạo nên nhu cầu về thanh khoản. Sự khác biệt về kỳ hạn của các dòng tiền vào (cung thanh khoản) và dòng tiền ra (cầu thanh khoản) tạo nên sự khác biệt về cung và cầu thanh khoản.
Cách thức mà ngân hàng áp dụng để quản lý cầu thanh khoản có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự an toàn của hệ thống. Sau đây là một số nội dung chính:
- Phân tích nhu cầu thanh khoản trong quá khứ để thấy những biến động về những nhu cầu này và các nhân tố ảnh hưởng.
- Đo mối liên hệ giữa các nhân tố ảnh hưởng và nhu cầu thanh khoản để xác định tần suất và độ lớn trong thay đổi nhu cầu thanh khoản
- Phân tích và định lượng nhu cầu thanh khoản đối với từng loại tiền gửi, từng nhóm khách hàng và từng thời kỳ trong một năm. Các ngân hàng thương mại dự đoán nhu cầu thanh khoản dựa trên phân tích các dòng tiền rút ra kỳ trước và có tính đến những thay đổi có thể xảy ra kỳ này. Kỳ tính có thể là hàng ngày, tuần, tháng, năm hoặc nhiều năm…
Ngân hàng có thể phân loại những nguồn, những thời điểm có tần suất chi trả lớn, các định tỷ lệ trung bình chi trả đối với các nguồn tiền. Các nguồn tiền có tính ổn định thấp (thường có vòng quay lớn) thường có tỷ lệ chi trả cao. Các nguồn tiền ổn định hơn (vòng quay thấp) thì tỷ lệ chi trả thấp. Điểm quan trọng là sau khi phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến nhu cầu thanh khoản, nhà quản lý ngân hàng sẽ xác định được chiến lược quản lý thanh khoản bằng cách thiết lập các chính sách nhằm duy trì những điều kiện để ổn định nhu cầu thanhh khoản và biện pháp đáp ứng nhu cầu này khi cần thiết, trên cơ sở đó vừa bảo đảm an toàn thanh khoản vừa tối đa hoá thu nhập.
3.2. Xác định cung thanh khoản
a.Quản lý thanh khoản từ phía tài sản – chiến lược dự trữ
Ngân hàng phải duy trì khả năng đáp ứng nhu cầu thanh khoản của khách hàng – nhu cầu thanh khoản. Cung thanh khoản có thể được tạo từ 2 phía : phía tài sản và phía nguồn vốn ( hoặc từ hai cách : duy trì dự trữ và khả năng huy động). Theo trường phái quản lý bên trong, có thể đáp ứng nhu cầu thanh khoản từ phía tài sản thông qua chiến lược dự trữ. Quan điểm này cho rằng duy trì thanh khoản của các tài sản thông qua quản lý tài sản, có thể cung cấp thanh khoản. Trên khía cạnh rủi ro điều đó có nghĩa là ngân hàng cần tạo nên tài sản phù hợp về thời gian, khối lượng và cấu trúc của nguồn.
Quản lý thanh khoản từ phía tài sản – chiến lược dự trữ thanh khoản bao gồm :
- Duy trì ngân quỹ với quy mô và cấu trúc thích hợp
- Phân tích tính thanh khoản của tài sản thông qua khả năng chuyển tài sản thành ngân quỹ
- Lựa chọn danh mục tài sản phù hợp với điều kiện cụ thể của ngân hàng nhằm đảm bảo thanh khoản thông qua các tỷ lệ thanh khoản phù hợp, hoặc thông qua dự đoán nhu cầu thanh khoản sắp tới.
- Điều chỉnh tính thanh khoản của tài sản bằng cách thay đổi cấu trúc kỳ hạn của tài sản, hoặc tạo thị trường cho tài sản, nhằm thay đổi tính thanh khoản của tài sản.
Phân tích ngân quỹ:
- Một ngân hàng thường đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng bằng ngân quỹ : tiền mặt trong két, tiền gửi tại ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng khác. Nếu một khách hàng có tiền gửi tiết kiệm tại ngân hàng, rất dơn giản ngân hàng sẽ xuất quỹ tiền mặt để trả; nếu một khách hàng có số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán, ký séc hoặc uỷ nhiệm chi để trả cho khách hàng tại ngân hàng khác thì ngân hàng sẽ sử dụng tiền gửi tại ngân hàng Nhà nước hoặc tiền gửi tại các tổ chức tín dụng để trả…nếu một khách hàng có nhu cầu thanh toán song chưa có hoặc chưa đủ tiền, ngân hàng có thể cho vay (sau khi phân tích tín dụng) để khách hàng thanh toán. Việc cho vay có thể dưới hình thức bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản…các khoản vay đến hạn trả (vay ngân hàng Nhà nước hoặc phát hành trái phiếu, ngân hàng trả bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản…các hoạt động này diễn ra hàng ngày tại ngân hàng giúp cho khách hàng thự hiện các hoạt động thanh toán và đầu tư kịp thời.
- Các nhân tố làm tăng giảm ngân quỹ và chính sách ngân quỹ: ngân quỹ (một phần dự trữ của ngân hàng) bao gồm những tài sản thanh khoản nhất của ngân hàng, được bổ sung thường xuyên từ các dòng tiền vào như gia tăng tiền gửi, vay, thu nợ, chứng khoán do ngân hàng nắm giữ đến hạn thanh toán…và cũng được sử dụng thường xuyên để chi trả tiền gửi, cho vay, đầu tư…Ngân quỹ gia tăng hoặc suy giảm có thể do yếu tố khách quan như thời vụ, chu kỳ kinh doanh và thu nhập của khách hàng, thay đổi trong các quy định của cơ quan quản lý, hoặc hệ thống…hoặc do ngân hàng quyết định theo chiến lược dự trữ mà ngân hàng theo đuổi. Gia tăng ngân quỹ (coi như các điều kiện khác không đổi) sẽ làm giảm thu nhập của ngân hàng. Do vậy tối thiểu hoá ngân quỹ (tối thiểu hoá tiền nhàn rỗi) là mục tiêu mà các ngân hàng phải theo đuổi.
Dự trữ khác ngoài ngân quỹ
- Các nhà quản lý ngân hàng luôn tìm kiếm các tài sản có khả năng thay thế được ngân quỹ trên phương diện thanh khoản, đồng thời gia tăng khả năng sinh lời của ngân hàng. Khi thị trường trái phiếu Chính phủ phát triển và những cam kết của chính phủ trở nên chắc chắn thì trái phiếu chính phủ trở thành loại tài sản có ít rủi ro và có khả năng chuyển đổi cao (gần như ngân quỹ) và sinh lợi cao hơn ngân quỹ. Loại tài sản này được xếp vào loại tài sản “đệm” giữa ngân quỹ và tín dụng.
- Các khoản mục tín dụng và chứng khoán khác cũng có tính thanh khoản khác nhau. Nhiều ngân hàng không có điều kiện nắm chứng khoán thanh khoản có thể tạo nên tính lỏng cho danh mục tín dụng và chứng khoán đầu tư thông qua lựa chọn kỳ hạn. Các khoản chiết khấu (thương phiếu có chât lượng) có thể tái chiết khấu với chi phí thấp, các khoản tín dụng có chất lượng cao sắp mãn hạn, hoặc dễ bán, các khoản tín dụng có nhiều kỳ hạn nợ nhỏ…đều làm tăng tính lỏng của tài sản.
Ước lượng cung thanh khoản từ phía tài sản
- Để đáp ứng có hiệu quả và kịp thời nhu cầu của khách hàng, ngân hàng cần duy trì tài sản thanh khoản một cách thích hợp vì tài sản càng thanh khoản lại chỉ đem lại một mức sinh lời thấtp Ngân hàng cần nắm giữ một phần tài sản thanh khoản để đáp ứng nhu cầu cần thiết như dự trữ bắt buộc, chi trả hàng ngày cho những người gửi tiền. Ngân hàng cũng phải nắm tài sản thanh khoản để “dự phòng” trong những trường hợp đột biến nhu cầu rút tiển gửi của ngân hàng. Và trường hợp thứ ba, tài sản thanh khoản được duy trì nhằm mục đích “tấn công” – cho vay nóng trong trường hợp cần thiết.
- Tính thanh khoản của tài sản được thay đổi thường xuyên : khi thị trường bất động sản đang sôi động, bất động sản có khả năng thanh khoản cao và ngược lại; khi NHNN nới lỏng chính sách tiền tệ, thương phiếu có thể dễ dàng được chiết khấu và ngược lại…Với các chi nhánh ngân hàng tại các vùng hoặc quốc gia khác nhau,tính thanh khoản của tài sản cũng khác nhau…Do vậy thường xuyên phân tích và định lượng tính thanh khoản của mỗi tài sản là cần thiết.
- Các tỷ lệ thanh khoản cần duy trì
Dự trữ sơ cấp/ Tổng tài sản
(Dự trữ sơ cấp + dự trữ thứ cấp)/ Tổng tài sản
(Ngân quỹ + chứng khoán thanh khoản)/ Tiền gửi và vay ngắn hạn
Dự trữ sơ cấp/ Tín dụng
- Ngân hàng cần xem xét tính phù hợp của từng tỷ lệ, lựa chọn các mức thích hợp cho từng thời kỳ. Ngân hàng cũng xác định tổng tài sản thanh khoản cần nắm giữ thông qua phân tích nhu cầu thanh khoản. Thời gian đáo hạn của tài sản nắm giữ cùng với ngân quỹ phải thoả mãn yêu cầu dự trữ pháp định (dự trữ bắt buộc) và nhu cầu chi trả (cầu thanh khoản).
Chiến lược dự trữ và khả năng sinh lời
Chiến lược dự trữ của ngân hàng – duy trì ngân quỹ và tài sản thanh khoản khác – luôn phải cân nhắc giữa an toàn thanh khoản và khả năng sinh lợi. Ngân hàng phải cân nhắc giữa thu nhập phải từ bỏ trong hiện tại để duy trì thanh khoản với chi phí có thể bỏ ra trong tương lai để mua thanh khoản. Cân nhắc này phải dựa trên phân tích và định lượng nhu cầu thanh khoản và khả năng cung ứng thanh khoản hiện tại và tương lai thông qua tính thanh khoản của tài sản.
b.Quản lý cung thanh khoản từ phía nguồn – chiến lược huy động
Với sự phát triển của thị trường các công cụ nợ, các ngân hàng có thể phát triển việc huy động để đáo ứng nhu cầu thanh khoản.
Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến thời gian và chi phí huy động
- Các biện pháp đáp ứng nhu cầu thanh khoản từ phí bên nguồn phụ thuộc rất nhiều vào chi phí và thời gian huy động, tức là phụ thuộc vào sự phát triển của thị trường nguồn. Hàng loạt các nhân tố, từ chính sách ổn định vĩ mô của chính phủ và ngân hàng trung ương, sự phát triển và cạnh tranh của các ngân hàng và các trung gian tài chính khác trong nước, khu vực và quốc tế, độ nhạy cảm của tiền gửi đối với lãi suất, mạng lưới ngân hàng…tác động đến khả năng mở rộng nguồn nhanh chóng với chi phí thấp của một ngân hàng.
- Nhìn chung các ngân hàng đều thiết lập một chính sách huy động và sử dụng sao cho các dòng tiền vào đều đặn sẽ đáp ứng nhu cầu tín dụng và đầu tư dự kiến, đồng thời duy trì khả năng thanh khoản ở mức cần thiết. Vấn đề khó khăn là sự không phù hợp về quy mô và kỳ hạn của các dòng tiền vào với nhu cầu sử dụng của ngân hàng. Việc chuyển hoá kỳ hạn của các dòng tiền vào và ra – tức là tạo một sự phù hợp về kỳ hạn của của người gửi tiền và người vay tiền là một nội dung quan trọng trong hoạt động của ngân hàng thương mại. Khi chuyển hoá kỳ hạn ngân hàng đã đáp ứng nhu cầu kỳ hạn của khách, đồng thời gia tăng khả năng sinh lời. Tuy vậy, ngân hàng cũng có thể gánh chịu rủi ro lãi suất và rủi ro thanh khoản. Do sự không phù hợp về kỳ hạn của nguồn và tài sản ngân hàng phải cân nhắc về việc giữ nhiều tài sản thanh khoản hơn.
Lựa chọn cung thanh khoản từ phía nguồn
- Vay ngân hàng trung ương thường được ưu tiên sử dụng để đáp ứng nhu cầu thanh khoản do lãi suất thường thấp nhất trong khung lãi suất cho vay.
- Vay các ngân hàng khác trên thị trường liên ngân hàng : các ngân hàng được nối mạng với nhau và có thể cho nhau vay số tiền tạm nhàn rỗi. Lãi suất thị trường liên ngân hàng thường chỉ cao hơn lãi suất của ngân hàng trung ương, thủ tục vay mượn đơn giản, phần lớn dựa trên uy tín của ngân hàng vay. Đối với ngân hàng đang tạm thời thừa dự trữ, việc cho vay sẽ mang lại thu nhập cao hơn.
- Vay bằng cách phát hành các giấy nợ ngắn hạn như chứng chỉ tiền gửi. Lãi suất của các giấy nợ này thường cao hơn tiền gửi tiết kiệm cùn kỳ hạn nhưng lại có thời gian huy động tương đối nhanh. Loại giấy nợ này thường tập trung các doanh nghiệp và dân cư có thu nhập cao. Để tăng tính hấp
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Quản lý thanh khoản trong ngân hàng thương mại.DOC