MỤC LỤC
PHẦN I:THUẾ VÀ QUẢN LÝ THUẾ THEO CƠ CHẾ TKTN
I. Khái niệm và đặc điểm của thuế. 5
1. Khái niệm . 5
2. Đặc điểm . 8
3. Chức năng của thuế. 9
II. Giới thiệu về quản lý thuế theo cơ chế tự khai tự nộp . 11
1. Khái niệm về cơ chế tự khai tự nộp và dặc điểm . 11
2. Điều kiện để thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp thuế . 12
3. Ưu điểm của cơ chế tự khai, tự nộp . 13
4.Hạn chế của cơ chế tự khai, tự nộp. 15
5. Đổi mới hoạt động .16
PHẦN II: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN THÍ ĐIỂM CƠ CHẾ TỰ KHAI TỰ NỘP NHỮNG NĂM 2004-2005 VẦ TÌNH HÌNH HIỆN NAY.
I. Tính tất yếu khách quan thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp . 1
II. Kết quả đạt được thực hiện thí điểm cơ chế tự khai, tự nộp ở cục thuế Quảng Ninh và Thành Phố Hồ Chí Minh . 19
III.Thực trạng hiện nay.
IV. Những khó khăn, thách thức khi áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp .
1. “ Gánh nặng” từ dự toán thuế . 22
2. Hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, quyền hạn của cơ quan Thuế chưa ngang tầm.
3. Công nghệ quản lý thuế theo cơ chế mới còn hạn chế . 23
4. Công tác hỗ trợ đối tượng nộp thuế, công tác thanh, kiểm tra, công tác thu nợ, và cưỡng chế thuế đat hiệu quả chưa cao. 24
5. Tổ chức bộ máy ngành thuế chưa hợp lý . 26
V. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của cơ chế tự khai, tự nộp .26
1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về thuế . 26
2. Đẩy mạnh công tác hưỡng dẫn, hỗ trợ các đối tượng nộp thuế thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp . 27
3. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra . 28
4. Thông tin tuyên truyền tới các đối tượng nộp thuế về TKTN.29
5. Hiện đại hóa cơ sở vật chất cho ngành thuế . 29
C. KẾT LUẬN . .30
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO . 31
26 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 2692 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Quản lý thuế theo cơ chế tự khai, tự nộp ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
an lận về thuế …
Áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp, cơ quan Thuế phải tăng cưòng công tác tuyên truyền, phổ biến và giải đáp các vướng mắc về chính sách, chế độ thủ tục về thuế mà các tổ chức, cá nhân thường gặp trong quá trình kê khai nộp thuế để đối tượng nộp thuế thực hiện tốt nghĩa vụ thuế của mình đối với Nhà nước.
Cơ chế tự khai, tự nộp là cơ chế quản lý thuế hiện đại, hiệu quả, được hầu hết các nước trên thế giới áp dụng, nó cho phép các cơ quan thuế phân bổ nguồn lực theo hướng chuyên môn hóa, chuyên sâu trong quản lý cải tiến các quy trình quản lý rõ ràng làm tăng sự minh bạch trong quản lý thuế, đồng thời giảm bớt chi phí quản lý, thúc đẩy cải cách hành chính thuế.
2. Điều kiện để thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp thuế.
Việc thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp thuế đòi hỏi các điều kiện sau:
2.1 Hệ thống luật thuế phải thực sự minh bạch, người dân có thể dễ dàng tiếp cận và tìm hiểu chính sách thuế.
Để áp dụng cơ chế quản ký thuế tiên tiến đòi hỏi đối tượng nộp thuế phải nắm chắc các quy định của luật thuế để tự mình kê khai, tính toán đúng số thuế phải nộp cho Nhà nước. Muốn vậy, các luật thuế phải đơn giản , dễ hiểu, minh bạch, từng quy định trong các luật thuế phải được rõ ràng, không mơ hồ, không làm cho người dân muốn hiểu thế nào cũng được.
2.2 Trình độ dân trí cao, sự hiểu biết và tuân thủ pháp luật của người dân tốt, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật đạt hiệu quả thiết thực.
Vì đối tượng nộp thuế là người trực tiếp tính toán số thuế mà mình phải nộp cho ngân sách nhà nước, do đó đòi hỏi họ phải có một kiến thức cơ bản để hiểu được các quy định của luật thuế. Mặt khác , cơ chế tự khai, tự nôp đòi hỏi sự tự giác cao của đối tượng nộp thuế do vậy mà người dân cần phải có ý thức tuân thủ pháp luật tốt. để đạt được điều kiện này thì cơ quan quản lý thuế phải đổi mới và nâng cao hiệu quả của công tác giáo dục, tuyên truyền, phổ biến các chính sách thuế.
2.3 Các cơ quan hành pháp phải có năng lực cao và phối hợp tốt với cơ quan thuế trong công tác quản lý hành chính
Trong khi cơ chế tự khai, tư nộp thuế đòi hỏi đối tượng nộp thuế phải có sự tực giác tuân thủ cao thì có một bộ phận không nhỏ dân chúng có ý thức chấp hành pháp luật chưa tốt. Vì vậy, đòi hỏi các cơ quan hành pháp nói chung và cơ quan thuế nói riêng phải có trình độ quản lý cao để đảm bảo thực hiện đúng những quy định của pháp luật.
2.4 Các thủ tục như đăng ký thuế, kê khai, nộp thuế, hoàn thuế…, phải đơn giản. Các chương trình thanh tra thuế và cưỡng chế thuế phải có hiệu quả và hiệu lực.
Các thủ tục về thuế phải đơn giản để giúp các tổ chức, cá nhân dễ dàng hoàn thành nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước. Đồng thời cơ quan thuế phải luôn luôn thanh tra, kiểm tra viẹc thực hiện nghĩa vụ thuế của các đối tượng nộp thuế vì gian lận, trốn lậu thuế là một căn bênh kinh niên tồn tại song song cùng với việc thu thuế của Nhà nước.
2.5 Cần có chế tài pháp luật đủ nghiêm để răn đe các hành vi vi phạm.
Khi áp dụng mô hình quản lý thuế theo cơ chế tự khai, tự nộp thì các chế tài pháp luật nghiêm minh là rất cần thiết, rất quan trọng trong bối cánh khả năng lợi dụng sự cho phép tự giác của Nhà nước để trốn lậu thuế là khá cao, nhất là đối với nước ta- một nước có trình độ phát triển chưa cao về mọi mặt.
3 .Ưu điểm của cơ chế tự khai, tự nộp.
Cơ chế tự khai, tự nộp thuế đã được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới, đây là cơ chế hành thu tiên tiến đem lại nhiều lợi ích cho cả cơ quan thu thuế và tổ chức , cá nhân nộp thuế. Cơ chế này có những ưu điểm sau:
3.1 Tiết kiệm thời gian,công sức.
Khi áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp thì hàng tháng cán bộ quản lý thu thuế sẽ không phải mất thời gian để tính toán lại số thuế phải nộp của đối tượng nộp thuế, không phải mất thời gian đi gửi thông báo thuế cho đối tượng nộp thuế. Hơn nữa, trong cơ chế ‘’ Thông báo thuế” trường hợp đối tượng nộp thuế đã thực hiện nghiêm túc luật thuế, kê khai và tính toán chính xác số thuế phải nộp thì rõ ràng việc phải tính toán lại của cơ quan thuế là thừa và lãng phí thời gian, công sức. Với số lượng các đối tượng nộp thuế hiên lên đến gần 100 ngàn doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế hơn 1,4 triệu tổ chức hộ kinh doanh cá thể thì việc không phải tính toán lại số thuế phải nộp sẽ tiết kiệm được rất nhiều thời gian và công sức cho cán bộ quản lý thu thuế.
Đối với các đối tượng nộp thuế thì với việc cơ chế tự khai, tự nộp sẽ làm giảm được các thủ tục hành chính trong việc thực hiện nghĩa vụ kê khai và nộp thuế của mình, do đó cũng sẽ tiết kiệm được nhiều thời gian và công sức.
3.2 Tiết kiệm chi phí quản lý hành chính về thuế.
Khi áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp thì hàng tháng cơ quan Thuế không phải gửi hàng triệu thông báo thuế nên ngành thuế tiết kiệm được chi phí giấy mực, in ấn, cước phí bưu điện… đem lại một hiệu quả kinh tế không nhỏ, bởi chi phí hành thu càng thấp thì hiệu quả công tác quản lý thuế càng được nâng cao.Ngoài ra, khi thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp cơ cấu tổ chức của cơ quan Thuế được tổ chức theo chức năng nên bộ máy quản lý sẽ gọn nhẹ hơn bớt cồng kềnh ,do đó giảm được một phần lớn chi phí quản lý mà hiệu quả quản lý vẫn cao.
3.3 Nâng cao trách nhiệm pháp lý của đối tượng nộp thuế.
Với cơ chế ‘’ Thông báo thuế “ trách nhiệm pháp lý của đối tượng nộp thuế đối với tính chính xác của việc tính toán số thuế phải nộp không cao bởi vì số thuế họ phải nộp được xác định theo thông báo của cơ quan Thuế. Vì vậy, có thể có tình trạng các cơ sở kinh doanh tính toán số liệu một cách qua loa, đại khái và nếu cán bộ thuế kiểm tra không kỹ thì có thể dẫn đến sai số thuế phải nộp mà các cơ sở kinh doanh đó không hề có lỗi. Nhưng khi áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp thì đối tượng nộp thuế phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về tính trung thực của số liệu kê khai và cả tính chính xác của việc tính toán số thuế phải nộp.Tức là, đối tượng nộp thuế được nâng cao trách nhiệm pháp lý trong việc kê khai thuế với Nhà nước, tăng sự tự giác ,được chủ động trong việc thực hiện nghĩa vụ của mình.Hơn nữa,còn thiết lập được niềm tin giữa cơ quan Thuế và người nộp thuế.
3.4 Tạo tiền đề nâng cao hiệu quả công tác của cơ quan Thuế .
Thực hiện áp dụng cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế cơ quan Thuế có điều kiện để cải tiến cơ cấu tổ chức nhằm sử dụng hiệu quả nhất các nguồn lực hiện có ,công tác quản lý thu thuế được tổ chức theo hướng ngày càng hiện đại và chuyên môn hóa . Nhờ việc không mất thời gian tính toán lại số thuế phải nộp của đối tượng nộp thuế và phát hành thông báo thuế mà cán bộ Thuế có điều kiện tập trung thời gian và công sức cho các công việc quản lý khác như: công tác phục vụ , hỗ trợ các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh hiểu và tự giác thực hiện các nghĩa vụ thuế của mình đối với Ngân sách nhà nước, công tác thanh tra ,kiểm tra,công tác đôn đốc thu nộp và cưỡng chế thuế…Triển khai thực hiện cơ chế này sẽ tạo điều kiện cho ngành thuế đẩy mạnh hiện đại hóa công tác quản lý mà cụ thể là đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ tin học trong công tác quản lý thu thuế.Đó là tiền đề để nâng cao hiệu quả công tác quản lý thu thuế.
4. Hạn chế của cơ chế tự khai, tự nộp.
Khi áp dụng một cơ chế chính sách mới bên cạnh những lợi ích to lớn thì cũng có nhiều điểm hạn chế. Do đó, việc áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp thuế nếu không đáp úng đựợc những điều kiện nhất định thì sẽ có những hạn chế
sau:
4.1 Nguy cơ trốn lậu thuế, thất thoát thuế lớn nếu trình độ dân trí thấp và không có biện pháp quản lý thuế phù hợp.
Nếu không có biện pháp quản lý phù hợp, chẳng hạn công tác kiểm tra không kịp thời, việc phổ biến các luật thuế kém hiệu quả, công tác hướng dẫn các đối tượng nộp thuế không đầy đủ, chu đáo … Có thể dẫn đến các tình trạng đối tượng nộp thuế lợi dụng việc không kiểm tra tính toán lại số thu thường kì của cơ quan Thuế để cố tình kê khai sai nhằm trốn lậu thuế. Trong trường hợp do hiểu biết các luật thuế của đối tượng nộp thuế kém và công tác hướng dẫn của cơ quan Thuế không hiệu quả thì có thể có tình trạng kê khai sai số thuế phải nộp một cách vô ý. Vói trình độ dân trí của nước ta còn thấp ,ý thức tự giác và tuân thủ pháp luật của người dân chưa cao thì nguy cơ thất thoát thuế là rất lớn.
4.2 Đòi hỏi cao về cơ sở vật chất và trình độ quản lý của các cơ quan Nhà Nước
Để áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp một cách hiệu quả đòi hỏi cơ sở vật chất của ngành thuế phải được hiện đại hóa, đặc biệt là hệ thống cơ sở vật chất phục vụ cho công tác thông tin, liên lạc sao cho việc kiểm tra, đối chiếu số liệu có thể phục vụ nhanh chóng và chính xác. Do đó, cần phải có sự đầu tư ban đầu rất lớn trong khi ngân sách nhà nước còn hạn hẹp. Mặt khác, trình độ quản lý của các quan hành pháp hiện nay còn thấp, nếu không có sự chuẩn bị kĩ càng có thể xảy ra tình trạng buông lỏng công tác quản lý thuế.
5. Đổi mới hoạt động thanh tra – dịch vụ tuyên truyền, hỗ trợ và hướng dẫn nhằm đáp ứng yêu cầu của cơ chế tự khai, tự nộp.
Để đáp ứng yêu cầu của việc thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp, cơ quan Thuế đã tiến hành cải cách các quy trình quản lý thuế theo hướng hiện đại với sự hỗ trợ lớn của công nghệ thông tin. Các quy trình quản lý thuế được xây dựng phù hợp với bộ máy tổ chức theo mô hình chức năng và thể hiện nguyên tắc quản lý theo rủi ro .Đồng bộ với việc xây dựng các qui trình mới là các việc đẩy mạnh các nghiệp vụ quản lý theo từng chức năng quản lý:
Trong nghiệp vụ hỗ trợ cơ sở kinh doanh:cơ quan Thuế chủ động nắm bắt và tổ chức tuyên truyền ,hỗ trợ đối tượng nộp thuế sát với yêu cầu ,đặc điểm của từng nhóm đối tượng nộp thuế với những hình thức phù hợp và chất lượng tốt .Cơ quan Thuế phải biết được nhu cầu của khách hàng của mình,đó là đối tượng nộp thuế và có trách nhiệm cung cấp được những dịch vụ hỗ trợ đúng với yêu cầu của khách hàng .
Trong nghiệp vụ xử lý tờ khai thuế: cơ quan Thuế theo dõi tờ khai thuế của cơ sở kinh doanh từ tờ khai đầu tiên, qua đó tờ khai điều chỉnh (nếu có) đến tờ khai cuối cùng, các lỗi cơ sở kinh doanh đã mắc. Qua đó, cơ quan Thuế có thể có biện pháp xử lý phù hợp như: hướng dẫn cơ sở kinh doanh để tránh các lỗi đã mắc trong kê khai nếu việc mắc lỗi là do chưa hiểu rõ;hoặc xem xét sửa đổi mẫu tờ khai nếu tờ khai chưa phù hợp; hoặc đó là dấu hiệu để xem xét, lựa chọn các trường hợp thanh tra nếu việc mắc lỗi mang tính lặp đi, lặp lại một cách cố ý …
Trong nghiệp vụ đôn đốc và thu nợ thuế: cơ quan Thuế đẩy mạnh công tác đôn đốc và thu nợ thuế. Với sự hỗ trợ của các chương trình tin học, cơ quan Thuế theo dõi chặt chẽ các trường hợp chậm nộp tờ khai, chậm nộp thuế, phát hành các thông báo nhắc nhở, các thông báo phạt đối với các cơ sở kinh doanh không nộp tờ khai, nộp thuế. Cơ quan Thuế theo dõi được số nộp cho số thuế phát sinh và số nộp cho nợ tồn đọng của cơ sở kinh doanh theo từng loại thuế. Qua đó xác định được tính chất của nợ thuế, mức nợ, tuổi nợ của từng món nợ thuế để có biện pháp thu nợ phù hợp theo hướng nhằm giảm cá khoản nợ có mức nợ và tuổi nợ cao.
Trong nghiệp vụ thanh tra, kiểm tra: cơ quan Thuế tiến hành thanh tra kiểm tra trên cơ sở thu nhập được đủ các thông tin cần thiết về cơ sở kinh doanh( từ tờ khai, báo cáo tài chính và các thông tin từ các nguồn khác) để phân tích, đánh giá xác định theo các tiêu chí đánh giá rủi ro, dự báo những vấn đề nghi ngờ có gian lận trốn thuế nhằm lựa chọn trường hợp, chuẩn bị nội dung,cách thức thanh tra phù hợp.
PHẦN II: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN THÍ ĐIỂM CƠ CHẾ TỰ KHAI, TỰ NỘP Ở VIỆT NAM NHỮNG NĂM 2004-2005 VÀ 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2009
I. Tính tất yếu khách quan thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp.
Cơ chế tự khai, tự nộp là cơ chế quản lý thuế tiên tiến, hiện đại, dựa trên ý thức tuân thủ tự giác của người nộp thuế. Với việc áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp thì cơ quan Thuế sẽ không phải can thiệp vào việc thực hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp mà tập trung nguồn lực cho công tác tuyên truyền, hỗ trợ, hướng dẫn để người nộp thuế có đủ năng lực thực hiện nghĩa vụ ngân sách nhà nước. Đồng thời cũng tăng cường các biện pháp theo dõi giám sát, kiểm tra để kịp thời phát hiện, chấn chỉnh các hành vi phạm pháp luật thuế, tránh gây thất thu ngân sách nhà nước.
Việc chuyển sang thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp là phù hợp với xu thế cải cách quản lý hành chính của nhà nươc theo hướng dân chủ, tôn trọng và phát huy tính tự giác, tự chịu trách nhiệm trước pháp luật của người dân. Người nộp thuế được giảm bớt các thủ tục hành chính, được chủ động trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế của mình đối với nhà nước. Còn về phía cơ quan Thuế, cơ chế mới sẽ tạo điều kiện để sắp xếp lại bộ máy quản lý chuyên sâu theo chức năng, chuyên môn hóa tới từng cán bộ. Khi áp dụng cơ chế này, cơ quan Thuế có thể đáp ứng yêu cầu quản lý khi số lượng doanh nghiệp tăng lên nhanh chóng, các giao dịch kinh tế diễn ra ngày một phức tạp và đảm bảo yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế. Hơn nữa, nền kinh tế ngày càng phát triển, luật doanh nghiệp mới có một số quyết định thông thoáng hơn nên số lượng các doanh nghiệp, đối tượng sản xuất kinh doanh ngày càng tăng lên nhiều. Trong khi đó số cán bộ thuế còn thiếu nhiều về cả số lượng và chất lượng. Do vậy cơ quan Thuế phải đổi mới phương thức quản lý thuế thì mới có thể theo kịp được yêu cầu sản xuất kinh doanh.
Như vậy thực hiện quản lý thuế theo cơ chế người nộp thuế tự khai, tự nộp thuế là tất yếu khách quan, phù hợp với xu thế thời đại, nhất là trong điềukiện hiện nay nhà nước ta đang đẩy mạnh cải cách hành chính để đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Hơn nữa, trên thế giới có rất nhiều nước đã áp dụng cơ chế này và đã thu được kết quả rất cao trong việc thu thuế cho ngân sách nhà nước.
II. Kết quả đạt được thực hiện thí điểm cơ chế tự khai, tự nộp ở cục thuế Quảng Ninh và Thành Phố Hồ Chí Minh.
Thực hiện quyết định số 197/2003/QD-TTg của Thủ tướng chính phủ và thông tư số 127/2003TT-BTC của Bộ tài chính, từ ngày 1 - 1 – 2004 cục thuế TPHCM và cục thuế Quảng Ninh đã tiến hành thực hiện thí điểm cơ chế doanh nghiệp tự kê khai tự tính thuế , tự nộp thuế vào Ngân sách nhà nước đối với hai loại thuế giá trị gia tăng và thu nhập doanh nghiệp cho một số đối tượng.
Cục thuế TPHCM và Quảng Ninh đã tổ chức tập huấn cho các doanh nghiệp thí điểm về kê khai thuế, một số chính sách , chế độ như kê khai thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, chế độ hoàn thuế, việc sử dụng quản lý hóa đơn chứng từ, chính sách ưu đãi miễn giảm thuế. Soạn thảo,in tài liệu về cơ chế tự khai, tự nộp thuế, giải đáp vướng mắc của các doanh nghiệp làm thí điểm. Riêng kế toán trưởng của các doanh nghiệp thí điểm được cán bộ nghiệp vụ hướng dẫn quy trình quản lý thuế theo cơ chế tự khai, tự nộp. … Từ ngày 5 đến ngày 10 hằng tháng phòng tự khai nộp gửi doanh nghiệp tờ khai thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp để kê khai và nộp lại cho cơ quan Thuế trực tiếp hoặc qua bưu điện. Trong tháng 12 –2003 cả hai cục thuế cũng đã thành lập phòng tự khai nộp với các bộ phận thực hiện bốn chức năng: bộ phận tuyên truyền hỗ trợ đối tượng nộp thuế; bộ phận xử lý tờ khai thuế; bộ phận đôn đốc thu nợ và cưỡng chế thuế , bộ phận thanh tra và kiểm tra thuế.
Những tháng đầu do bỡ ngỡ, một số doanh nghiệp số tờ khai chậm nhưng đến nay 100% số doanh nghiệp đã nộp đúng hạn, kịp thời , đầy đủ cho cơ quan Thuế.
Cục thuế TPHCM đã lựa chọn 337 doanh nghiệp làm thí điểm, tính đến ngày 31-12-2004 kết quả 337 doanh nghiệp đã nộp 11912 tỷ đồng trên 21421 tỷ đồng chiếm 55,6% số thu của cục và đạt 135% so với dự toán năm. song với việc vận hành cơ chế doanh nghiệp tự khai, tự nộp, cục thuế đã tập trung lực lượng đẩy mạnh công tác kiểm tra, thanh tra thuế. Hằng tháng bộ phận thanh tra của phòng tự khai nộp đã lên chương trình kiểm tra quyết toán thuế, đã kiểm tra quyết toán thuế năm 2003 của 61/337 doanh nghiệp với số thuế truy thu và phạt 17281 triệu đồng. Khi doanh nghiệp thực hiện tự khai, tự nộp vào ngân sách nhà nước đã tạo điều kiện cho cơ quan Thuế tập trung lực lượng xử lý những vấn đề lớn hơn như giúp doanh nghiệp lành mạnh hóa tài chính, kiểm tra hoàn thuế nhanh chóng kịp thời cho 112 doanh nghiệp làm điểm với số thuế đã hoàn 143tỷ.Dự kiến năm 2005 bổ sung từ 50 đến 100 doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế vào diện tự khai, tự nộp.
Cục thuế Quảng Ninh cũng đã lưạ chọn 112 doanh nghiệp nhà nước làm thí điểm.trong năm 2004,12 doanh nghiệp này đã nộp ngân sách nhà nước hơn 660 tỷ đồng ,chiếm 40% số thu toàn ngành và đạt 125% so với dự toán năm.Các doanh nghiệp đều nâng cao ý thức trách nhiệm ,chủ động nộp thuế đúng hạn ,hiện tượng tồn đọng thuế đã chấm dứt.Trên cơ sở những thành công của năm đầu thực thiện chính sách tự kê khai, tự nộp thuế ,trong năm 2005 cục thuế Quảng Ninh sẽ mở rộng ra 100% số doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn;doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp quốc doanh làm tốt công tác kế toán sẽ đưa vào thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp thuế. Như vậy ,việc áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp đảm bảo sự thông thoáng,giảm các thủ tục kê khai ,báo cáo ,giúp doanh nghiệp có điều kiện về thời gian để chuẩn bị chu đáo các thủ tục nộp thuế vì theo cơ chế mới đến ngày 25 hằng tháng các doanh nghiệp mới phải nộp tờ khai thuế chứ không phải là vào ngày10 hàng tháng như trước đây.Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được ,việc thực hiện cơ chế mới vẫn còn những mặt tồn tại .Về phía cơ quan Thuế ,việthưc hiện các chức năng quản lý chuyên sâu còn gặp nhiều khó khăn do bước đầu còn thiếu kinh nghiệm.Đối với các doanh nghiệp làm thí điểm mức độ tuân thủ pháp luật thuế chưa đồng đều.Một số doanh nghiệp chưa chủ động nghiên cứu thực hiện chính sách cũng như những vướng mắc còn thụ động chờ cơ quan Thuế hướng dẫn.
III .THỰC TRẠNG HIỆN NAY.
Sáu tháng đầu năm 2009 ngành thế đã tổ chức 1.335 hội nghị,đối thoại với 14.453 DN,Doanh nhân,các cơ sở kinh doanh về thủ tục hành chính thuế và tinh thần,thái độ phục vụ của cán bộ thuế .Đã trả lời ngay tại Hội nghị 3.169/3.203 câu hỏi. Số còn lại nhưng vướng mắc về cơ chế chính sách đã được Tổng cục thuế nghiên cứu ,giải quyết giứt điểm.Những vướng mắc đã được giải đáp kịp thời,do đó được dư luận xã hội và cộng đồng DN hoan nghênh
Tổng cục Thuế cũng đã mở trang website điện tử, xuất bản các loại ấn phẩm về thuế để tuyên truyền hướng dẫn về các nội dung chính sách thuế; thủ tục về thuế.
Quy mô bộ máy ngày càng được hoàn thiện đáp ứng được nhu cầu nhiệm vụ đề ra
Nhờ cải cách trong công tác quản lý nên cũng đã tạo ra một môi trường quản lý nề nếp, văn minh, buộc cán bộ thuế, cơ quan thuế thay đổi phong cách tiếp xúc với NNT thông qua cách thức đón tiếp chu đáo, lịch sự, công khai, minh bạch, với mục tiêu tạo điều kiện thuận lợi nhất cho NNT.
Nhờ đưa cơ chế "một cửa" vào hoạt động tập trung mọi hồ sơ tài liệu về một đầu mối tiếp nhận, theo dõi quá trình xử lí và trả kết quả yêu cầu, thủ tục hành chính thuế đã tăng cường kiểm soát nội bộ và giúp lãnh đạo kiểm tra, đôn đốc tiến độ giải quyết các yêu cầu, vướng mắc của NNT một cách kịp thời; đồng thời việc tăng cường sử dụng các ứng dụng tin học trong công tác tiếp nhận, luân chuyển và trả kết quả tại bộ phận “một cửa” cũng đã cho phép hạn chế tình trạng chậm muộn như trước kia.
IV. Những khó khăn, thách thức khi áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp.
Đổi mới quản lý thuế, áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp theo tổng kết của các cục thuế địa phương thực hiện thí điểm đã đạt được kết quả đáng kể, tổng số thu vượt so với dự toán, tỷ lệ tờ khai thuế lỗi giảm, cơ quan Thuế được phân bổ nguồn lực theo hướng chuyên môn hóa nên trình độ nghiệp vụ của các cán bộ thuế được đáp ứng nâng cao, đáp ứng yêu cầu của cơ chế mới, cải tiến các
quy trình quản lý thuế rõ ràng làm tăng sự minh bạch, giảm được lỗi quản lý…
Tuy nhiên, khi áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp thì chúng ta còn gặp phải những khó khăn, thách thức sau:
1. “ Gánh nặng” từ dự toán thuế.
Trong điều kiện nền kinh tế nước ta tăng trưởng chưa thật sự vững chắc thì dự toán thu thuế mà ngành thuế được Quốc hội và chính phủ giao thực hiện hàng năm liên tục tăng, năm sau cao hơn năm trước ít nhất là 10%, là một nhiệm vụ rất nặng nề bởi vì thuế là nguồn thu chủ yếu để bù đắp cho Ngân sách nhà nước. Đi cùng với việc cải tiến cách hành thu theo hướng hiện đại, ngành thuế luôn phải đối mặt và bám sát nhiệm vụ là hoàn thành dự toán thu được giao. Điều này làm cho quá trình thực hiện các bước cải cách quy trình thu thuế nói chung, áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp thuế nói riêng diễn ra dè dặt, từng bước để tránh gây ảnh hưởng đến kết quả thu.
2. Hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, quyền hạn của cơ quan Thuế chưa ngang tầm. Các thủ tục về kê khai thuế, chính sách thuế chưa rõ ràng .
Hiện nay, mặc dù chính sách thuế liên tục được sửa đổi, bổ sung, cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế- xã hội và phù hợp với thông lệ quốc tế, nhưng nhìn chung hệ thống chính sách vẫn còn phức tạp, còn nhiều quy định về ưu đãi, miễn giảm thuế, chưa đảm bảo sự trung lập của thuế. Các thủ tục kê khai nộp thuế mặc dù đã được đơn giản hóa, giảm bớt được những giấy tờ không cần thiết… nhưng vẫn còn nhiều điểm chưa tạo điều kiện thuận lợi cho cơ sở kinh doanh và chưa phù hợp với yêu cầu của hệ thống tự khai, tự nộp thuế. Các mẫu tờ khai thuế hoặc đơn giản quá hoặc phức tạp quá và còn nhiều biển mẫu kèm theo tờ khai nên chưa phù hợp và tạo điều kiện cho đối tượng nộp thuế dễ kê khai, cơ quan Thuế dễ thanh tra, kiểm tra.
3. Công nghệ quản lý thuế theo cơ chế mới còn hạn chế.
Cơ chế tự khai, tự nộp thuế đòi hỏi cơ quan quản lý thuế và đối tượng nộp thuế phải có sự trao đổi thông tin chặt chẽ với nhau, phải cập nhật kịp thời những thay đổi về kinh doanh của doanh nghiệp. Cùng với sự tiến bộ của công nghệ thông tin, hiện nay việc tin học hóa quá tình quản lý tuy đã có những tiến bộ so với trước nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của cơ chế mới. Hệ thống ứng dụng đã tham gia hỗ trợ trong một số các quy trình nghiệp vụ, nhưng hệ thống chỉ mới dừng ở mức độ tính thuế và theo dõi thống kê chứ chưa hỗ trợ tối đa cho yêu cầu quản lý thuế như thanh tra, kiểm tra, thu nợ, cung cấp thông tin về đối tượng nộp thuế… các thông tin về số thu còn chậm, chưa phục vụ tôt cho việc chỉ đạo điều hành thu, chưa kết nối thông tin với cơ quan quản lý nhà nước để có thông tin về đối tượng nộp thuế, ứng dụng tin học trong công tác hỗ trợ đối tượng nộp thuế chưa nhiều. Mặt khác, việc nộp thuế thông qua các phương tiện tự động chưa được trang bị đồng bộ ảnh hưởng nhiều đến thời gian cũng như hiệu quả quản lý. Trình độ về công nghệ thông tin của các cán bộ quản lý thuế còn thấp nên việc ứng dụng tin học trong quản lý còn hạn chế.
4. Công tác hỗ trợ đối tượng nộp thuế, công tác thanh, kiểm tra, công tác thu nợ, và cưỡng chế thuế đat hiệu quả chưa cao.
4.1 Về công tác hỗ trợ đối tượng nộp thuế.
Hiện nay, công tác tuyên truyền hỗ trợ đối tượng nộp thuế của ngành thuế đã được tổ chức thành hệ thống từ Trung ương đến địa phương, song hiệu quả hoạt động còn hạn chế. Cơ quan Thuế chủ yếu mới tập trung vào công tác tuyên truyền về thuế, còn công tác hỗ trợ đối tượng nộp thuế còn nghèo nàn, rời rạc, phân tán và bị động. Chức năng hỗ trợ hướng dẫn đối tượng nộp thuế còn chưa được phân định rõ ràng giữa các phòng trong cơ quan Thuế: Phòng hỗ trỡ và các phòng quản lý. Nội dung hỗ trợ mới chỉ dừng lại ở việc cung cấp một số lượng rất hạn chế các văn bản hướng dẫn, chưa co điều tra, khảo sát, phân tích nhu cầu của đối tượng nộp thuế theo nhu cầu của đối tượng. Cán bộ làm công tác hỗ trợ còn chưa co kinh nghiệm, chưa được đào tạo chuyên sâu về các kỹ năng hỗ trợ đối tượng nộp thuế. Bộ phận hỗ trợ tại tổng cục thuế chưa đảm nhiệm được vai trò trung tâm chỉ đạo thống nhất về các hoạt động hỗ trợ, chưa lập được chương trình kế hoạch hoạt động, chưa biên soạn được các tài liệu hỗ trợ để hướng dẫn thực hiện thống nhất trong nước.
4.2 Về công tác thanh tra, kiểm tra.
Hiện nay, công tác thanh tra, kiểm tra của cơ quan Thuế chưa được đặt đúng vị trí, chất lượng còn hạn chế, phương pháp, kỹ thuật thanh tra , kiểm tra còn lạc hậu. Việc thanh tra, kiểm tra của cơ quan Thuế chủ yếu được thể hiện dưới các hình thức thanh kiểm tra quyết toán thuế, các nội dung thanh tra, kiểm tra theo chuyên đề, kiểm tra thống nhất thu thuế qua chuyển giá và gian lận thương mại hầu như chưa đựoc thực hiện. Cơ quan Thuế chưa có chức năng điều tra, khởi tố nên khi thanh tra, kiểm tra phát hiện dấu hiệu vi phạm thì cơ quan Thuế không thể tiếp tục tiến hành trên cơ sở sổ sách, chứng từ , tài liệu do doanh nghiệp cung cấp nên hạn chế đến kết quả thanh tra, kiểm tra.
Tại tổng cục thuế, bộ phận thanh tra, kiểm tra chưa phát huy được vai trò chủ đạo giám sát. Việc thanh tra, kiểm tra còn phân tán, chưa có sự phối kết hợp trong cả nước. Việc lựa chọn đối tượng thanh tra, kiểm tra chưa dựa trên tiêu thức lựa chọn khoa học, chủ yếu tập trung vào các doanh nghiệp lớn, có số thu cao nhằm mục tiêu tăng số thu, còn các doanh nghiệp có số lỗ lớn, quy mô nhỏ, các chi nhánh thường rất ít được kiểm tra, giám sát. Việc ứng dụng tin học trong công tác thanh tra còn rất hạn chế. Ngành thuế chưa có sự trao đổi thông tin với các ngành khác nên không nắm bắt kịp thời, đầy đủ các hoạt động kinh doanh và tình hình nộp thuế của doanh nghiệp khi cần thiết.
4.3 Về công tác thu nợ và cưỡng chế thuế.
Hiện
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Quản lý thuế theo cơ chế tự khai, tự nộp ở Việt Nam _ SV- Đặng Thanh Hiếu.doc