MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 3
NỘI DUNG 4
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ TIỀN GỬI Ở CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 4
1.1: Khái quát chung về nguồn tiền gửi trong Ngân Hàng Thương Mại 4
1.1.1: Khái niệm và đặc điểm tiền gửi trong các Ngân Hàng Thương Mại 4
1.1.1.1: Khái niệm 4
1.1.1.2: Đặc điểm 5
1.1.2: Vai trò của tiền gửi trong Ngân Hàng Thương Mại 7
1.2: Quản lý nguồn tiền gửi 7
1.2.1: Quản lý lãi suất 7
1.2.1.1: Định nghĩa 7
1.2.1.2: Nguyên nhân phải quản lý lãi suất 8
1.2.1.3: Mục tiêu quản lý 9
1.2.1.4: Các cách quản lý lãi suất 9
1.2.2: Quản lý quy mô và cơ cấu 10
1.2.2.1: Nội dung quản lý 10
1.2.3: Quản lý kỳ hạn 12
1.2.3.1: Định nghĩa 12
1.2.3.2: Nội dung quản lý 12
1.2.4: Phân tích tính thanh khoản của nguồn vốn 13
1.2.4.1: Tính thanh khoản của nguồn vốn 13
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ TIỀN GỬI TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 18
2.1: Thực trạng quản lý tiền gửi tại các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam 18
2.1.1: Quản lý lãi suất 19
2.1.2: Quản lý quy mô và cơ cấu 20
2.1.3: Quản lý kỳ hạn 22
2.1.4. Phân tích tính thanh khoản của nguồn vốn 22
2.2: Đánh giá thực trạng 24
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ TIỀN GỬI Ở NHTM VN 28
KẾT LUẬN 33
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 34
34 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2573 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Quản lý tiền gửi ở các Ngân hàng thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.
Trong điều kiện cụ thể, các nguồn của NH có thể có tốc độ và quy mô thay đổi khác nhau. Các NH lớn có quy mô nguồn lớn và tốc độ tăng trưởng nguồn có thể không cao như các NH nhỏ. Những NH ở trung tâm tiền tệ có cơ cấu nguồn khác với NH ở xa.
* Phân tích kỹ các nhân tố gắn liền với thay đổi đó (các nhân tố ảnh hưởng và bị ảnh hưởng).
Những nhân tố ảnh hưởng và bị ảnh hưởng bởi quy mô và kết cấu của nguồn tiền thường xuyên thay đổi và cần phải được nghiên cứu kỹ lưỡng. Đây là cơ sở để NH đưa ra quyết định phù hợp để thay đổi quy mô và kết cấu nguồn tiền.
Vào gần dịp Tết, quy mô của tiền gửi tiết kiệm có thể giảm xuống tương đối, hoặc nếu NH phục vụ chủ yếu cho các DN xây dựng, tiền gửi của họ tăng giảm nhiều phụ thuộc vào mùa xây dựng. Từ thực tế đó, các nhà quản lý NH cần chia các loại khách hàng gắn với quy mô và tốc độ gia tăng của mỗi nguồn. Các khách hàng, hoặc nhóm khách hàng có tiền gửi lớn được đặc biệt chú ý, các nhóm khách hàng truyền thống, các nhóm khách hàng nhạy cảm với những thay đổi về công nghệ, lãi suất và chất lượng phục vụ kèm theo cần phải được nghiên cứu cụ thể. Các nhà quản lý cũng cần xem xét thị phần nguồn tiền của các NH khác trên địa bàn và khả năng cạnh tranh của họ.
* Lập kế hoạch nguồn cho từng giai đoạn phù hợp với yêu cầu sử dụng.
Kế hoạch nguồn cần được xây dựng cho từng giai đoạn, bao gồm kế hoạch gia tăng quy mô của mỗi nguồn, nhằm đáp ứng nhu cầu cho vay, đầu tư hoặc nhu cầu chi trả cho các DN và dân chúng, khả năng thay đổi cơ cấu nguồn hoặc tìm kiếm nguồn mới. Kế hoạch nguồn được đặt trong kế hoạch sử dụng và lợi nhuận kỳ vọng, bao gồm kế hoạch về lãi suất, mở chi nhánh hoặc điểm huy động, loại nguồn, tiếp thị…
1.2.3: Quản lý kỳ hạn
1.2.3.1: Định nghĩa
Quản lý kỳ hạn là xác định kỳ hạn của nguồn phù hợp với yêu cầu về kỳ hạn của sử dụng, đồng thời tạo sự ổn định của nguồn.
1.2.3.2: Nội dung quản lý
* Xác định kỳ hạn danh nghĩa của nguồn và các nhân tố ảnh hưởng
Ví dụ: Trong tiền gửi tiết kiệm có: tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi kỳ hạn 3 tháng, tiền gửi kỳ hạn 6 tháng.
Các kỳ hạn danh nghĩa thường gắn với một mức lãi suất nhất định, theo xu hướng, nguồn có kỳ hạn danh nghĩa càng dài, lãi suất càng cao. Trong trường hợp bình thường (tức không có khủng hoảng xảy ra) cũng có một số người gửi rút tiền ra trước hạn, song nhìn chung mọi người gửi đều cố gắng duy trì kỳ hạn danh nghĩa để được hưởng lãi suất ở mức cao nhất. Do vậy, kỳ hạn danh nghĩa là một chỉ tiêu phản ánh tính ổn định của nguồn vốn.
=> Quản lý kỳ hạn vì vậy là một nội dung đảm bảo an toàn và sinh lợi cho NH
* Xác định kỳ hạn thực của nguồn và các nhân tố ảnh hưởng
- Định nghĩa: Kỳ hạn thực tế của khoản tiền gửi là thời gian mà khoản tiền tồn tại liên tục tại một đơn vị ngân hàng
- Ví dụ: Nhiều người gửi tiết kiệm tại một NH với kỳ hạn danh nghĩa 6 tháng, song khoản tiền gửi có thể được duy tr. nhiều lần 6 tháng (các kỳ hạn 6 tháng nối tiếp nhau, người gửi không rút tiền ra khỏi NH) và trên thực tế trở thành khoản tiền gửi trung và dài hạn.
* Xem xét khả năng chuyển hoán kỳ hạn của nguồn.
Một nguồn tiền nào đó trong NH được tạo ra bởi sự tiếp nối liên tục của các khoản huy động và đi vay. Một nguồn với kỳ hạn danh nghĩa là ngắn hạn, có thể tồn tại liên tục trong nhiều năm, tức là thành nguồn có kỳ hạn thực tế là trung và dài hạn. Phân tích và đo lường kỳ hạn thực tế của nguồn tiền là cơ sở để NH quản lý thanh khoản, chuyển hoán kỳ hạn của nguồn, sử dụng các nguồn có kỳ hạn ngắn để cho vay với kỳ hạn dài hơn.
=> Quản lý kỳ hạn luôn gắn liền với quản lý lãi suất. Một sự gia tăng trong lãi suất nguồn đều liên quan tới không chỉ tăng quy mô của nguồn mà còn tới tính ổn định của nguồn giữa các NH, tính ổn định trong từng NH. Lựa chọn cơ cấu lãi suất sao cho vừa đảm bảo gia tăng tổng nguồn, tiết kiệm, chi phí, vừa lại tăng tính ổn định của nguồn là nội dung quản lý nguồn vốn của NH.
1.2.4: Phân tích tính thanh khoản của nguồn vốn
Thực hiện chức năng trung gian tài chính, trung gian thanh toán, NH thường xuyên phải duy trì khả năng thanh toán. Sự ổn định của hệ thống NH liên quan chặt chẽ tới khả năng cung cấp thanh khoản của nó.
1.2.4.1: Tính thanh khoản của nguồn vốn
* Nhu cầu thanh khoản từ phía nguồn vốn
- Nhu cầu rút tiền của người gửi: các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân
có tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi khác…
- Các khoản tiền vay đến hạn trả
- Lãi cho các khoản tiền gửi.
* Cung thanh khoản từ phía nguồn vốn:
Khả năng huy động mới nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng
* Các nhân tố ảnh hưởng đến nhu cầu thanh khoản:
- Nhóm nhân tố tạo ra hoảng loạn trong khách hàng gửi tiền: bất ổn chính trị, tham nhũng trong hệ thống tài chính.
- Nhóm nhân tố liên quan đến thu nhập và nhu cầu chi tiêu của khách hàng: tính thời vụ trong sản xuất và tiêu dùng.
- Nhóm nhân tố cạnh tranh trên địa bàn giữa các trung gian tài chính như chính sách lãi suất huy động…
- Nhóm nhân tố tạo nên sức mạnh và uy tín của bản thân NH: cán bộ, công nghệ, thị phần…
* Rủi ro thanh khoản:
Là tổn thất xảy ra cho NH khi nhu cầu thanh khoản thực tế vượt quá khả năng thanh khoản dự kiến. Trong điều kiện bình thường, các NH vẫn có thể gặp phải một số vấn đề về thanh khoản trong quá trình đáp ứng các nhu cầu rút tiền của người gửi.
Tuy nhiên, những khó khăn lớn về thanh khoản thường xuất hiện khi nhu cầu chi trả tiền gửi có biến động lớn so với mức bình thường mà ngân hàng không thể dự đoán trước được. Bất kỳ một sự tăng lên đột ngột nào của làn sóng rút tiền gửi của khách hàng, đều có thể làm tăng thêm những khó khăn về thanh khoản cho NH. Kết quả cuối cùng có thể đẩy NH vào tình trạng mất khả năng thanh toán.
* Quản lý rủi ro thanh khoản nguồn vốn.
Một NH dựa quá nhiều vào các nguồn quỹ vay mượn trên thị trường để giải quyết các nhu cầu thanh khoản có thể phải đối mặt với những rủi ro thanh khoản rất lớn. Hoạt động quản lý tài sản nợ của mỗi NH còn phải dựa vào danh tiếng của NH trên thị trường, chất lượng thị trường tiền tệ và trạng thái thanh khoản chung của hệ thống tài chính để quản lý thanh khoản. Điều đó đòi hỏi các nhà quản lý NH phải kết hợp lựa chọn thích hợp giữa phương pháp sử dụng các tài sản có lỏng dự trữ để đáp ứng nhu cầu thanh khoản với giải pháp tìm kiếm các nguồn thanh khoản trên thị trường.
Có nhiều loại chiến lược mà các nhà quản lý NH thực hiện để quản lý danh mục tài sản nợ của họ. Mỗi chiến lược đều phải cân đối giữa mức độ rủi ro với thu nhập. Mục tiêu chung của những chiến lược này là tăng thu nhập, giảm chi phí, đảm bảo khả năng thanh toán trong mọi điều kiện của thị trường.
+ Chiến lược phát triển một cơ sở nguồn vốn vững chắc từ các thị trường bán lẻ.
Một chiến lược cơ bản thường được sử dụng trong hầu hết các NH là mở rộng và khai thác các nguồn vốn cá nhân (bán lẻ). Tiền gửi cá nhân là một trong những nguồn vốn chủ yếu nhất của chiến lược huy động vốn của các NH, bởi vì đặc điểm ổn định của nguồn vốn này cũng như chi phí tương đối thấp so với nguồn vốn khác trên thị trường
Để có được nguồn vốn này, NH phải đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng với chi phí khá cao. Đồng thời, để giành được khách hàng, các NH phải có sự chuẩn bị để đầu tư nâng cấp hệ thống mạng lưới chi nhánh, mở ra các kênh phân phối bằng điện tử, giúp họ thu hút thêm những người gửi tiền cá nhân. Các NH cũng phải chuẩn bị các điều kiện cần thiết để nâng cao khả năng cạnh tranh về lãi suất trong huy động tiền gửi. Trong tiến trình khai thác và duy trì vững chắc nguồn vốn tiền gửi cá nhân, một vấn đề cần quan tâm đó là kết hợp giữa mạng lưới chi nhánh bán lẻ với các kênh phân phối bằng điện tử như: máy rút tiền tự động ATM hay các ngân hàng bằng điện thoại. Tuy chi phí dịch vụ của các chi nhánh khácao nhưng nó vẫn cần được tiếp tục duy trì để phát triển chiến lược quản lý tài sản nợ
Trong quản lý tài sản nợ, các NH cần phải nhận thức rõ và giám sát toàn diện các khoản chi phí huy động vốn từ các khu vực cá thể trong mọi điều kiện của thị trường. Trong trường hợp lãi suất thị trường cao, các tài khoản tiền gửi thanh toán được trả lãi suất thấp tương xứng với giá trị cơ hội mà NH thu được. Khi lãi suất thị trường thấp thì các NH có thể phải chịu những chi phí cơ hội cao đối với các nguồn vốn này, bao gồm các chi phí mở tài khoản tiền gửi khách hàng kèm theo các khoản mục chi phí liên quan: cấp sổ séc, gửi thông báo cho khách hàng
+ Chiến lược đa dạng hoá các nguồn vốn
Đa dạng hoá các nguồn vốn để giảm thấp mức độ ảnh hưởng của thị trường. Tuy nhiên, khi đa dạng hoá các nguồn vốn huy động, NH sẽ mở rộng nguồn vốn đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn của nó, đồng thời cũng làm tăng thêm chi phí huy động vốn dưới các điều kiện của thị trường.
Do đa dạng hoá các nguồn vốn đã làm cho các NH ngày càng phải dựa vào các tổ chức tài chính chuyên nghiệp nhiều hơn để mở rộng quy mô hoạt động của mình. Hơn nữa, cạnh tranh trong lĩnh vực tài chính đã thúc đẩy sự ra đời của hàng loạt các sản phẩm tiền gửi mới so với các loại tiền gửi NH truyền thống trước đây và được cung cấp bởi nhiều tổ chức tài chính phi NH. Như vậy, các NH đã mất đi đáng kể các nguồn vốn rẻ nhất của họ. Sự thay đổi này làm tăng lên đáng kể chi phí huy động vốn của NH.
+ Chiến lược tăng cường nguồn vốn dài hạn, lãi suất cố định
Danh mục tài sản nợ của hầu hết các NH có xu hướng nghiêng về các nguồn vốn dài hạn với lãi suất cố định. Đó là kết quả đương nhiên của quá trình chuyển dịch cơ cấu đầu tư của bộ phận các nhà đầu tư sang các nguồn vốn dài hạn, dẫn đến một hiện tượng phổ biến là các NH sử dụng các nguồn vốn ngắn hạn để tài trợ cho các tài sản có dài hạn. Điều này đã tạo ra rủi ro thanh khoản và làm tăng thêm các khó khăn cho ngân hàng khi thay thế các nguồn vốn đã đến hạn thanh toán
Trên thị trường tài chính chuyên nghiệp, mỗi NH còn có thể tăng các nguồn vốn dài hạn với lãi suất cố định bằng cách phát hành thêm các loại trái phiếu hoặc các loại chứng chỉ tiền gửi. Tuy các công cụ nợ này có mức chi phí huy động khác cao, nhưng lại cung cấp cho NH một nguồn vốn dài hạn và ổn định. Ngoài ra có thể chuyển nhượng, mua bán trên thị trường thứ cấp nên hầu như không có rủi ro rút vốn đối với công cụ này. Nó đảm bảo cho NH một nguồn vốn ổn định đến tận khi các công cụ nợ đến hạn
Để tăng vốn bằng cách sử dụng các công cụ đó, mỗi NH cần phải có uy tín, có mối quan hệ quen biết rộng rãi trên các thị trường. Ngoài ra, để đi đến quyết định chọn lựa các công cụ tăng vốn dài hạn nào, mỗi nhà quản lý NH phải xem xét phối hợp thời gian tăng quỹ sao cho phù hợp, đồng thời phải tính toán và so sánh giữa tổng số chi phí cần thiết để dự trữ thanh khoản với tổng số tăng thêm và chi phí trả lãi suất cao nếu như cần thiết phải tăng thêm nguồn vốn. Như vậy, vấn đề quản lý thanh khoản và quản lý tài sản nợ trong mỗi NH có quan hệ mật thiết với nhau.
CHƯƠNG 2THỰC TRẠNG QUẢN LÝ TIỀN GỬI TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
2.1: Thực trạng quản lý tiền gửi tại các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam
Chắc chắn rằng không phải người gửi tiền nào cũng hành xử giống hệt nhau. Một số người chọn gửi tiền vào những ngân hàng có lãi suất huy động cao, nhưng bù lại thì họ sẽ phải lo lắng nhiều hơn về những thông tin thất thiệt hay nguy cơ đổ bể thật sự của ngân hàng mình chọn. Ngược lại, có những người muốn ít phải lo lắng hơn về những vấn đề trên thì lại chọn những ngân hàng có uy tín cao hơn để gửi tiền. Hiện nay, gửi tiền tại các ngân hàng là vẫn là phương thức được ưa thích nhất của đại đa số nhân dân. Việc lựa chọn ngân hàng tùy thuộc vào thái độ của mỗi người đối với hai yếu tố rủi ro và lãi suất. Hai yếu tố này phụ thuộc nhiều vào mô hình quản lý tiền gửi của NHTM.
Trong việc quản lý tiền gửi, chi phí và quy mô là hai vấn đề mà các nhà quản lý ngân hàng luôn phải tìm cách giải quyết. Đúng ra việc quản lý này về cơ bản phải theo những quy luật của cung-cầu vốn và chiến lược kinh doanh của ngân hàng. Nhưng hiện nay một số ngân hàng Việt Nam lại đang phải quản lý tiền gửi theo sức ép của sự cạnh tranh và đảm bảo khả năng thanh khoản.
Hậu quả của tình hình này là lợi nhuận ngân hàng sẽ giảm, thậm chí có ngân hàng sẽ lỗ hoặc các ngân hàng phải tăng mạnh lãi suất cho vay để bù đắp chi phí tiền gửi quá lớn. Cả hai điều này đều bất lợi cho bản thân các ngân hàng và nền kinh tế.
2.1.1: Quản lý lãi suất
Công tác điều hành lãi suất trong thời gian gần đây có những động thái tích cực đó là, ngay từ ngày 26-2, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã ban hành Thông tư số 07, chính thức quy định về việc cho phép các tổ chức tín dụng cho khách hàng vay VND theo lãi suất thỏa thuận.
Điểm mới của Thông tư này là, từ nay, các Ngân hàng thương mại (NHTM) có thể thỏa thuận với khách hàng để cho vay với lãi suất cao hơn lãi suất trần và nới rộng thời gian cho vay, nhằm đáp ứng nhu cầu vốn trực tiếp phục vụ đời sống của cá nhân, hộ gia đình của khách hàng vay
Không ồ ạt tăng lãi suất huy động trong ngày đầu áp dụng mức lãi suất cơ bản 8%, hầu hết các ngân hàng thương mại đều tỏ ra thận trọng để đảm bảo bài toán lợi nhuận. Thực tế cho thấy các ngân hàng thương mại vẫn đang xem xét động thái của nhau để quyết định các mức lãi suất huy động
Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước, một số ngân hàng thương mại điều chỉnh tăng lãi suất huy động đồng Việt Nam áp dụng từ ngày 26/11 với mức tăng khoảng 0,5-1,2% một năm so với tuần trước và mức cao nhất 10,5% một năm đối với kỳ hạn trên 12 tháng. Hiện, lãi suất huy động bình quân từng kỳ hạn của các tổ chức tín dụng tăng 0,1-0,6% một năm (tuần từ 23 đến 27/11) so với tuần trước Tại nhóm ngân hàng thương mại Nhà nước, mức lãi suất huy động VND bình quân ở kỳ hạn 12 tháng là 9,3-10,5% một năm so với mức 9,6-10% tại nhóm ngân hàng thương mại cổ phần.
Đến ngày 1/12, nhiều ngân hàng thương mại điều chỉnh tăng lãi suất huy động khoảng 0,3-1,2% một năm so với cuối tháng 11. Lãi suất tiền gửi đồng Việt Nam tại ngân hàng Việt Á áp dụng cho các kỳ hạn 3- 4 - 5 - 6 tháng, lĩnh lãi cuối kỳ thậm chí đã tiến tới mức 10,47% một năm. Song song với nâng lãi suất đồng Việt Nam, một số ngân hàng cũng điều chỉnh tăng lãi suất tiền gửi USD trong ngày 1/12, trung bình 0,2-0,5% một năm.Cùng với nâng lãi suất tiền gửi và tiết kiệm đồng Việt Nam, các ngân hàng cũng rục rịch điều chỉnh biểu lãi suất cho vay bắt đầu từ 1/12, mức lãi suất cho vay được đưa lên sát mức 12% một năm. Trong khi đó, lãi suất cho vay USD tăng khoảng 0,1 - 0,6% một năm (tuần từ 23-27/11).
Dưới sự điều hành chung của NHNN, các thành viên khác trong Hiệp hội ngân hàng cùng cam kết ấn định và niêm yết LSHĐ, lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam theo hướng ổn định, hài hòa lợi ích giữa người gửi tiền - ngân hàng và khách hàng vay, phù hợp với quy định của pháp luật và chỉ đạo của Chính phủ. Hơn nữa, các NHTM tăng lãi suất để thu hút nguồn vốn trong dân cư, nhưng sẽ cố gắng không tăng quá cao mức lãi suất cho vay và khách hàng có thể thỏa thuận với ngân hàng khi vay vốn. Có nhiều cơ sở để tin rằng, cùng với thời gian, yêu cầu giảm dần mặt bằng lãi suất ngân hàng đang ngày càng được triển khai cụ thể hoá và có hiệu quả trên thực tế.
2.1.2: Quản lý quy mô và cơ cấu
Mỗi Ngân hàng đều có quy mô và cơ cấu nguồn vốn riêng. Những NHTM lớn có quy mô vốn lớn sẽ có quy mô và tốc độ tăng trưởng khác với các NHTM nhỏ tiềm lức yếu hơn. Từ đó mỗi NHTM sẽ có mục tiêu phát triển khác nhau.
Kinh tế Việt Nam vẫn được coi là nền kinh tế tăng trưởng dựa nhiều vào vốn; chỉ số ICOR tăng cao trong nhiều năm qua cho thấy rõ đặc điểm này. Tính chất này cũng được phản ánh vào sự tăng trưởng tín dụng cao ở khu vực ngân hàng trong nhiều năm qua. Tăng trưởng tín dụng bình quân mấy năm qua của Việt Nam đạt gần 30%/năm, trong khi các nghiên cứu chỉ ra rằng, tăng trưởng tín dụng gấp khoảng 3 lần tăng tưởng kinh tế (GDP) hàng năm là phù hợp. Cuối quý III năm 2009, tốc độ tăng trưởng tín dụng khoảng 28%, và như vậy cả năm 2009 có thể trên 30% (trong khi dự báo tăng trưởng kinh tế là 5,2%).
Thống kê cho thấy, những năm 1990, tín dụng cho nền kinh tế bằng khoảng 18% GDP, tuy nhiên đến nay (năm 2009) quy mô tín dụng đã đạt gần 100% GDP. Tốc độ tiền tệ hóa nền kinh tế (M2/GDP) đến nay ước khoảng 110%, trong khi tỷ lệ này vào năm 1990 chỉ khoảng 19% GDP. Sự tăng trưởng quy mô của từng ngân hàng và toàn thị trường như vậy là khá nhanh. Thế nhưng trình độ quản trị, cơ sở hạ tầng, thể chế thị trường lại chưa thực sự theo kịp. Các NHTM vẫn hoạt động theo mô hình cũ từ những năm 1990, Luật NHNN và Luật các tổ chức tín dụng đã bộc lộ những điểm lạc hậu cần sửa đổi.
Năm 2008 là năm thách thức về năng lực quản lý thanh khoản của các NHTM. Một số ngân hàng đã rơi vào tình trạng thiếu thanh khoản và biểu hiện của nó là trào lưu “siêu lãi suất” hồi đầu năm 2008, và các NHTM đã từng đẩy lãi suất trên thị trường liên ngân hàng lên tới mức 45%/năm. Sự tăng trưởng tín dụng như trên cùng với khả năng quản lý thanh khoản hạn chế đã tạo ra mất cân đối về kỳ hạn và làm cho hệ thống rất dễ bị tổn thương trước các cú sốc. Các ước tính cho thấy, cơ cấu nguồn vốn trong hệ thống ngân hàng có tới 80% tổng nguồn vốn là có kỳ hạn dưới 1 năm; chỉ có 20% tổng nguồn vốn là có kỳ hạn trên 1 năm (trong đó kỳ hạn trên 2 năm chưa tới 10%). Trong khi đó cơ cấu cho vay phổ biến tại các ngân hàng thương mại Việt Nam là gần 60% tổng dư nợ cho vay với thời hạn cho vay trên 1 năm.
Đến nay, nhìn chung các ngân hàng này vẫn hoạt động theo mô hình quản trị công ty đã cũ (nhất là các NHTM cổ phần nông thôn vừa được nâng cấp). Các NHTM quốc doanh vừa mới cổ phần hóa và niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán nhưng mô hình quản trị vẫn giữ nguyên như ngân hàng thương mại quốc doanh ngày xưa do mức độ cổ phần hóa quá ít (Vietcombank chỉ bán cổ phần ra ngoài tương đương 9,28% vốn điều lệ; con số này ở Vietinbank là 4%).
2.1.3: Quản lý kỳ hạn
Khác hẳn với thông lệ quốc tế, ngành ngân hàng Việt Nam vẫn đang quản lý dòng tiền theo kỳ hạn danh nghĩa, chứ không phải kỳ hạn thực. Các chuyên gia ngân hàng từ lâu đã khuyến nghị Ngân hàng Nhà nước (NHNN) về sự cần thiết quản lý dòng tiền theo kỳ hạn thực. Đến nay, cơ quan này đã có những bước đi đầu tiên. Tuy nhiên, đó sẽ là một con đường không bằng phẳng.
Theo thông tin có được từ cơ quan quản lý, trong thời gian tới, các quy định về quản trị ngành ngân hàng sẽ được tính theo kỳ hạn tiền gửi thực tế. Đây là một cấu phần nhỏ trong kế hoạch cải tổ ngành ngân hàng hướng theo các thông lệ quốc tế.
Từ lâu ngân hàng thương mại đã quen với việc “biến” các khoản tiền gửi dưới 12 tháng trở thành 12 tháng trở lên, dù chỉ là trên giấy tờ giao dịch để được hưởng mức dự trữ bắt buộc thấp hơn.
Ví dụ như khách hàng tới gửi tiền 3 tháng thì ngân hàng sẽ “nhờ” khách hàng ký vào giấy gửi tiền với kỳ hạn 12 tháng trở lên với đảm bảo rằng, sau 3 tháng vẫn nhận đủ lãi của kỳ hạn 3 tháng. Khách hàng không bị thiệt. Còn ngân hàng, thay vì phải nộp dự trữ bắt buộc 3% cho tiền gửi dưới 12 tháng thì chỉ phải nộp 1% cho khoản tiền gửi 12 tháng trở lên.
Đó là lý do nhiều ngân hàng phải có hai hệ thống sổ sách quản lý: một để báo cáo cơ quan quản lý là NHNN, hai là cho bản thân ngân hàng quản lý nguồn vốn của mình theo kỳ hạn tiền gửi thực
2.1.4. Phân tích tính thanh khoản của nguồn vốn
Hiện nay các NH rất tập trung mở rộng và khai thác thị trường cá nhân (thị trường bán lẻ), trong đó tiền gửi cá nhân là một trong những nguồn vốn chủ yếu chiến lược của các NHTM. Tuy nhiên trong xu hướng hiện nay các NH cũng thực hiện đa dạng hóa nguồn vốn cũng nhằm tăng khả năng thanh khoản cho mỗi NH
Sự sụt giảm mạnh giá cổ phiếu của ngân hàng trong thời gian qua, có nguyên nhân từ việc nhà đầu tư nhận thấy rằng khủng hoảng thanh khoản đang hoặc sắp xảy ra với ngân hàng. Nguyên nhân gây nên sự sụt giảm mạnh cổ phiếu của các ngân hàng thương mại cổ phần, đặc biệt là hàng loạt ngân hàng thương mại cổ phần nhỏ cũng xuất phát từ vấn đề thanh khoản
Như bảy tháng đầu năm 2008, tình trạng khan hiếm tiền đồng, lãi suất tiền gửi đồng Việt Nam liên ngân hàng tăng lên một cách chóng mặt đã đẩy các ngân hàng thương mại vào cuộc chạy đua lãi suất làm mặt bằng lãi suất huy động tăng dần lên từ 12% lên tới 18,6%/năm. Trong khi đó, về phía Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã hai lần tăng lãi suất cơ bản lên 12%/năm và 14%/năm, đồng thời, chỉ đạo các NHTM tuân thủ một cách nghiêm ngặt quy định không áp dụng lãi suất kinh doanh vượt quá 150% lãi suất cơ bản và không được thu phí đối với hoạt động cho vay. Mặc dù lãi suất huy động tăng cao như vậy nhưng theo nghiên cứu của một số chuyên gia thì thực sự đồng Việt Nam thu hút về ngân hàng lại không được như ý muốn của các nhà quản lý và tình trạng thanh khoản vẫn luôn bị những áp lực rất căng thẳng.
Việc cho vay đối với khách hàng tại các ngân hàng hầu như bị đình chỉ, hầu hết các ngân hàng chỉ ưu đãi cấp tín dụng theo hạn mức đối với những khách hàng truyền thống, trong khi đó lãi suất cho vay cũng bị đẩy lên rất cao, ở mức 18%/năm, rồi 21%/năm. Kết quả kinh doanh của các ngân hàng giảm sút một cách nghiêm trọng, nhiều ngân hàng bị lỗ hàng trăm tỷ và hầu hết các ngân hàng đều phải điều chỉnh giảm kế hoạch lợi nhuận năm 2008 khoảng 30- 40%
2.2: Đánh giá thực trạng
Những hoạt động điều hành trên đã mang lại những kết quả bước đầu tích cực theo chiều hướng, cả về tăng vốn huy động và cho vay, cũng như cân đối cung cầu, lành mạnh và minh bạch hóa thị trường tài chính, nhất là giảm dần lãi suất cho vay
Cần cân nhắc đầy đủ tính hai mặt của quản lý theo trần lãi suất ngân hàng, cần sớm có sự hoàn thiện hơn cơ sở luật pháp cho hoạt động này. Thực tế cho thấy, việc áp dụng lãi suất cho vay thoả thuận, việc linh hoạt điều chỉnh trần LSHĐ sẽ có những tác động tích cực đến thị trường tài chính-ngân hàng nói riêng, nền kinh tế nói chung, nhất là tạo thuận lợi cho việc tăng huy động vốn cho đầu tư xã hội thông qua hệ thống ngân hàng và nâng cao vị thế ngân hàng trong nền kinh tế; Bỏ trần LSHĐ sẽ giúp các cơ quan quản lý có thông tin về các động thái, diễn biến của thị trường chính xác, minh bạch, rõ ràng hơn và ra các quyết định quản lý thích hợp, hiệu quả hơn. Cơ chế thị trường sẽ sớm xác lập và hoàn thiện hơn, và do đó tăng sức hấp dẫn của môi trường đầu tư trong nước với các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài; Gia tăng cơ hội và lợi ích cho doanh nghiệp trong tiếp cận nguồn vốn ngân hàng và trong đầu tư xã hội. Nguồn vốn ngân hàng huy động được dồi dào hơn và có tính thanh khoản cao hơn; các doanh nghiệp sẽ có thể nhận được lãi suất cho vay của các ngân hàng thấp dần nhờ hệ quả của áp lực quy luật cung - cầu thị trường và áp lực cạnh tranh giữa các ngân hàngcũng như sự hỗ trợ thích hợp của NHNN như đã nêu trên.
Với cơ cấu tài sản và sản phẩm như hiện nay, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam rất dễ bị tổn thương.
Kinh nghiệm cho thấy, khi suy thoái hay khủng hoảng thì chính là lúc mà một nền kinh tế nói chung hay hệ thống ngân hàng nói riêng bộc lộ rõ các điểm yếu, điểm mạnh của nó, và đây là cơ hội để điều chỉnh một cách tổng thể
Nếu nhìn vào thực trạng của hệ thống ngân hàng Việt Nam và sự thay đổi của môi trường trong nước và quốc tế thì khu vực kinh tế quan trọng này của Việt Nam cũng cần phải được cơ cấu lại.
Một trong những yếu kém đáng chú ý nhất của hệ thống ngân hàng thương mại ở Việt Nam là sự tăng trưởng một cách không cân đối trong nhiều năm. Sự mất cân đối này cần được nhìn nhận cả trên phương diện vĩ mô và vi mô. Sự tăng trưởng nhanh về quy mô và vốn trong khi các thiết chế quản lý chưa theo kịp là các vấn đề nội tại của khu vực này. Sự mất cân đối này thể hiện ở nhiều yếu tố
+ Yếu tố đầu tiên phải kể đến là tăng trưởng tín dụng nóng.
+ Yếu tố mất cân đối thứ hai là mở rộng quy mô quá mức.
+ Yếu tố tiếp theo là quản lý thanh khoản bất cập
+ Yếu tố cuối cùng cần phải đề cập tới là tình trạng “vốn mới - quản trị cũ” tại các ngân hàng thương mại cổ phần.
Tín hiệu từ NHNN cho thấy một sự đột phá trong tư duy quản lý. Có quản lý theo kỳ hạn thực thì các số liệu thống kê mới có thể chính xác, tạo điều kiện để đưa ra các chính sách tiền tệ thích hợp. Tuy nhiên, các điều kiện hỗ trợ để áp dụng việc quản lý dòng tiền theo kỳ hạn thực ở Việt Nam là chưa có.
Ở các thị trường phát triển, có một điểm khác biệt cơ bản là ứng xử của người gửi tiền. Do áp dụng những mức lãi suất phạt rất cao trong trường hợp rút tiền trước hạn, người gửi tiền thường chỉ rút khi tới hạn.
Còn ở Việt Nam, người gửi tiền có thể rút tiền bất cứ khi nào họ muốn, thậm chí việc khách hàng rút tiền trước hạn vẫn nhận được lãi suất theo kỳ hạn tới ngày rút đã trở thành một thông lệ. Đã là thông lệ thì phải mất thời gian mới có thể xoá bỏ được.
Thông lệ nêu trên khiến việc triển khai quản lý tiền gửi trong hệ thống ngân hàng theo kỳ hạn thực ở Việt Nam phức tạp hơn các thị trường khác, do thời điểm rút tiền của người gửi là khó đoán định hơn.
Các NHTM hiện này đặc biệt chú trọng tới nguồn tiền gửi khi phân tích tính thanh khoản của nguồn vốn. Các NHTM luôn luôn phải xác định cung và cầu thanh khoản cũng như những nhân tố tác động tới cung - cầu thanh khoản. Ta đã biết nếu một NH dựa quá nhiều vào các nguồn quỹ vay mượn trên thị trường để giải quyết các nhu cầu thanh khoản có thể phải đối mặt với những rủi ro thanh khoản rất lớn. Hoạt động quản lý tài sản nợ của mỗi NH còn ph
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26852.doc