MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
Phần I: Cơ sở lý luận 2
I. Khái niệm về quản lý: 2
1. Quản lý và các dạng quản lý 2
2. Quản lý nhà nước về kinh tế: 3
2.1.Khái niệm: 3
2.2.Các kết luận cần lưu ý: 4
II. Khái niệm về đói nghèo: 4
1.Quan niệm chung: 4
2. Phương pháp đánh giá nghèo khổ: 7
III. Quản lý với bài toán xoá đói giảm nghèo và nâng cao dân trí: 10
Phần II: Lời giải cho bài toán xóa đói giảm nghèo 13
I. Nguyên nhân của đói nghèo: 13
II. Thực trạng nghèo đói ở Việt nam: 19
1. Việt Nam được xếp vào nhóm các nước nghèo của thế giới : 19
2. Nghèo đói phổ biến trong những hộ có thu nhập thấp và bấp bênh : 19
3. Nghèo đói tập trung ở các vùng có điều kiện sống khó khăn: 20
4. Đói nghèo tập trung trong khu vực nông thôn : 21
5. Nghèo đói trong khu vực thành thị 22
6. Tỷ lệ nghèo đói khá cao trong các vùng sâu, vùng xa, vùng núi cao 23
7. Tỷ lệ hộ nghèo đói đặc biệt cao trong các nhóm dân tộc ít người 24
III.Các giải pháp chủ yếu để xóa đói giảm nghèo: 24
1.Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn: 24
2. Các giải pháp về đất đai và tư liệu sản xuất cho các hộ nghèo: 26
3. Về chính sách đối với người nghèo vay vốn: 26
4. Chính sách đào tạo và chuyển giao công nghệ: 29
5. Chính sách đầu tư kết cấu hạ tầng cho xã nghèo: 30
6. Một số chính sách khác: 31
7. Chính sách về y tế và giáo dục: 31
8. Một số giải pháp xã hội khác: 31
9. Phát huy sức mạnh tổng hợp của Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể: 32
Phần III : Kết luận 35
Danh mục tài liệu tham khảo 38
40 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1867 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Quản lý với bài toán xoá đói giảm nghèo và nâng cao dân trí khu vực miền núi phía Bắc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và dòng chảy chính của nền kinh tế , là địa bàn chính cho sự hoạt động của số đông người để tạo ra thu nhập vượt khỏi đường biên nghèo khổ. Đồng thời trong những tình huống đột xuất, Nhà nước vẫn áp dụng những can thiệp tức thời khi cần giải quyết nạn đói , các thảm họa xảy ra ở một khu vực nào đó.
Kinh nghiệm cho thấy , nhà nước không nên can thiệp trược tiếp tới hộ nghèo, mà chỉ thông qua các chính sách để hỗ trợ phát triển cho người nghèo.
Kinh nghiệm của các nước Đông nam Á : tăng trưởng kinh tế là cần thiết song không thể chỉ dựa hoàn toàn vào tăng trưởng kinh tế để xóa đói giảm nghèo.Thành công của Trung Quốc trong vấn đề này không chỉ do tăng trưởng kinh tế, mà còn do những biện pháp giải quyết việc làm ở nông thôn, mở rộng hệ thống dạy nghề, tăng kỹ thuật mới, giảm nhẹ đièu kiện làm việc, cải thiện điều kiện sống ( mô hình xí nghiệp hương trấn ).
(Từ những kinh nghiệm trên, các nhà nghiên cứu đã khái quát hóa về mặt lý luận và thống nhất một định nghĩa là: Chương trình Xóa đói giảm nghèo là một hệ thống các giả pháp xác định rõ vai trò của Nhà nước, của các tổ chức trong xã hội, trong việc phân phối hợp lý các hành động của mình để nâng cao mức sống cho người nghèo, tạo cho họ những cơ hội phát triển trong đời sống cộng đồng bằng chính lao động của bản thân.)
Nhưng có gì để đảm bảo rằng chúng ta sẽ thành công khi áp dụng những kinh nghiệm trên; Những chính sách , đường lối của Nhà nước là hoàn toàn đúng đắn, vấn đề còn lại là việc thực hiện . Theo tôi có hai lý do lớn nhất cản trở việc biến các chính sách này thành hiện thực: Một là, trình độ và nhân cách nhà quản lý kém; Hai là trình độ dân trí thấp.
Trình độ quản lý kém dẫn tới tình trạng sử dụng kém hiệu quả những đồng vốn của những dự án xóa đói , giảm nghèo; thiếu kế hoạch rõ ràng, tổ chức nhân sự chưa khoa học, lãnh đạo thiếu trách nhiệm, kiểm tra thiếu sát sao. Tất cả những yếu kém ấy lam lệch đi những đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước, ấy là chưa kể đến sự tha hóa về đạo đức của một số nhà quản lý, gây lãng phí , thất thoát và mất niềm tin của nhân dân với Đảng.
Nghèo đói và dân trí thấp dường như là đôi bạn song hành luôn đi cùng nhau. Bất kì một xã nghèo nào của Việt nam đều có dân trí thấp, trẻ em không được đi học hoặc việc đi học hết sức khó khăn, các phong tục lạc hậu ăn sâu vào cuộc sống của những người dân nghèo, việc tiếp súc với các hoạt động văn hóa tiên tiến, lối sống lành mạnh rất hạn chế…
Quá trình xóa đói giảm nghèo đòi hỏi các nhà quản lý phải khắc phục được hai khó khăn trên, có thể nói việc khắc phục được hai khó khăn trên là hai tiền đề vô cùng cần thiết để những chính sách, đường lối của nhà nước phát huy hiệu quả tối đa trong việc giúp đỡ người nghèo thoát nghèo.
Phần II: Lời giải cho bài toán
xóa đói giảm nghèo
Nguyên nhân của đói nghèo:
Nghèo khổ hay đói nghèo là một hiện tượng kinh tế , xã hội, vừa là vấn đề của lịch sử để lại, vừa là vấn đề của phát triển, thường có trong quá trình phát triển, mà quốc gia nào cũng vấp phải. Nó đụng chạm trực tiếp tới cuộc sống của con người, từ cá nhân, gia đình đến cộng đồng. Mỗi quốc gia ở các mức độ khác nhau đều phải quan tâm giải quyết vấn đề đói nghèo để vượt qua những trở ngại cho sự phát triển phồn thịnh về kinh tế và từng bước đạt tới công bằng xã hội. Tất nhiên, các chế độ xã hội khác nhau thì mục đích và mức độ quan tâm cũng khác nhau. Song đây đang là vấn đề toàn cầu nên nó cũng thu hút sự quan tâm, phối hợp cac snỗ lực giải quyết của cộng đồng quốc tế.
Để chống lại đói nghèo, giản bớt sự nghèo khổ, cần phải xác định đúng những nguyên nhân dẫn tới đói nghèo.
Có nhiều ý kiến khác nhau xung quanh việc xác định nguyên nhân của đói nghèo. Trên thực tế không có một nguyên nhân biệt lập, riêng rẽ dẫn tới đói nghèo, nhất là đói nghèo trên diện rộng, có tính chất xã hội. Nó cũng không phải là nguyên nhân thuần túy về kinh tế hoặc do thiện tai, địch họa. Ở đây nguyên nhân của tình trạng đói nghèo là có sự đan xen, thâm nhập vào nhau cả cái tất yếu lẫn ngẫu nhiên, cả cái cơ bản và tức thời ( đột xuất ) , cả nguyên nhân sâu xa lẫn nguyên nhân trực tiếp, cả khách quan lẫn chủ quan, tự nhiên lẫn kinh tế- xã hội.
Vì vậy phải giải thích hiện tượng này theo một hệ thống các nguyên nhân, nhận diện các nhóm nguyên nhân có tính phổ biến và đặc thù khác nhau. Cũng cần thấy sự khác biệt, tính trội theo các vùng, các nhóm dân cư, khu vực khi chịu tác động tác động của những nguyên nhân đó . Có ý kiến đưa ra 3 nhóm nguyên nhân, trong mỗi nhóm lại bao gồm nhiều nguyên nhân cụ thẻ như sau:
Nhóm 1: Do bản thân người nghèo: không biết làm ăn, thiếu hoặc không có vốn, đông con, neo đơn , thiếu lao động, ăn tiêu lãng phí, lười lao động, mắc vào tệ nạn xã hội.
Nhóm 2: Do điều kiện tự nhiên và môi trường: đất canh tác ít và xấu, thời tiết không thuận lợi, bất lợi về địa lý ( xa xôi, hẻo lánh, không có đường giao thông…)
Nhóm 3: Do thể chế, chính sách và cơ chế lạc hậu: Không đồng bộ, không phù hợp với thực tiễn, không có sự quan tâm và khuyến khích phát triển sản xuất, hoặc áp dụng chính sách cứng nhắc…
Tổng hợp các nguyên nhân trên chúng ta thấy; nhóm 1 có nguyên nhân chủ yếu là do đối tượng ( chủ quan ) ; nhóm 2 và 3 có tính chất khách quan. Cả ba nhóm này tác động vào đối tượng trong không gian và thời gian, dẫn đến tình trạng đói nghèo.
Kết quả điều tra xã hội học cho thấy:
- Thiếu vốn : chiếm 70%-90% tổng số hộ được điều tra
- Đông con: chiếm 50%-60%
- Thiếu kinh nghiệm làm ăn: chiếm 40%-50%.
- Rủi ro, đau ốm nặng: 10%-15%
-Neo đơn, thiếu lao động: 6%-155.
- Lười lao động, ăn tiêu lãng phí: 5%-6%.
- Mắc các tệ nạn xã hội: 2%-3%.
Kết quả thu được đã xác nhận giả thiết nghiên cứu cho rằng thiếu vốn và đông con cũng như thiếu kinh nghiệm làm ăn là những nguyên nhân quan trọng và phổ biến nhất của đói nghèo.
Dùng phhương pháp điều tra xã hội học để kiểm chứng trên thực tế cho thấy: Các phân loại theo ba nhóm nguyên nhân treen là hợp lý và có sức thuyết phục.
Cũng theo phươnmg pháp này, có thể nhận diện một cách cụ thể hơn thành năm nhóm nguyên nhân sau:
*Nhóm 1: Những nguyên nhân chủ quan
Là những nguyên nhân do bản thân người lao động , phổ biến là:
- Không có kinh nghiệm làm ăn, không biết cách sản xuất , kinh doanh
- Thiếu hoặc không có vốn.
- đông con, ít lao động.
- Neo đơn, thiếu lao động.
- Rủi ro, đau ốm.
- Ăn tiêu lãng phí, lại lười biếng…
*Nhóm 2: Những nguyên nhân khách quan
Ở đây có nguyên nhân khách quan về mặt tự nhiên và nguyên nhân khách quan về mặt xã hội:
Những nguyên nhân khách quan về mặt điều kiện tự nhiên như:
- Đất canh tác ít.
- Đất cằn cỗi , ít màu mỡ, canh tác khó, năng suất cây trồng và vật nuôi đều thấp.
- Thời tiết, khí hậu không thuận lợi cho sản xuất.
- Xa xôi, hẻo lánh.
- Không có đường giao thông…
Những nguyên nhân khách quan về mặt xã hội như sự quan tâm xã hội (của chính quyền địa phương và trung ương). Nhóm này có ảnh hưởng khá mạnh tới tình trạng đói nghèo của nhân dân cả nước và địa phương. Chẳng hạn như:
- Nhà nước ( trung ương- địa phương ) chưa có biện pháp xây dựng các cơ sở hạ tầng tối thiểu: giao thông, thủy lợi, điện…
- Chưa có biện pháp hành chính và giáo dục thích đáng để hạn chế xóa bỏ tệ nạn xã hội.
- Chưa có biện pháp chấn áp, giáo dục thích đáng làm cho xã hội, địa phương được an toàn như nạn trộm cắp tài sản, hoa màu, vật nuôi…làm cho dân không yên tâm sản xuất.
- Hợp tác xã thu hồi bớt ruộng của người nghèo do họ không thể trả được nợ sản phẩm, làm cho họ càng nghèo hơn.
*Nhóm 3: Các nguyên nhân kết hợp
Các nhóm 1 và 2 nêu trên là những nguyên nhân trực tiếp có tính chất chủ quan và khách quan. Kết hợp lại tạo thành 3 dạng nguyên nhân gây nghèo đói:
- Vì mắc tệ nạn xã hội mà nghèo đói ( nhất là cờ bạc, nghiện hút, số đề).
- Do thiếu đất và do bị thu hồi bớt ruộng đất mà nghèo đói.
- Do không biết làm gì khác ngoài nghề nông mà nghèo đói.
Dĩ nhiên , thiếu vốn, đông con, thiếu tư liệu sản xuất và kinh nghiệm vẫn là trục tác động chính dẫn tới nghèo đói.
*Nhóm 4: Nguyên nhân do thiếu thị trường
Đối với người nghèo, tất cả mọi biện pháp cứu trợ chỉ có giá trị tức thời, không thể làm thay đổi hoàn cảnh đói nghèo kinh niên của người nghèo, do đó cũng không thay đổi thân phận của người nghèo đói được. Điều quan trọng để họ tự mình vượt qua đói nghèo là đẩy mạnh sản xuất, tăng thu nhập. Muốn vậy phải có thị trường cung cấp vật tư nông nghiệp, nguyên vật liệu, tiêu thụ sản phẩm theo giá thỏa thuận. Nguyên nhân thiếu thị trường lại có thể tìm ở các nguyên nhân khác: xa xôi hẻo lánh, thiếu đường giao thông, thiếu an toàn, thiếu các chính sách, biện pháp khuyến khích.
*Nhóm 5: Những tình huống đột xuất.
Những tình huống đột xuất như sự tàn phá của các điều kiện tự nhiên làm mât cân bằng, ổn định bình thường đã có như mưa đá, gió Lào, bão, lụt, hạn hán, trựot núi, sóng thần, động đất, sâu bệnh… gây ra đói gay gắt cấp tính, phải cứu trợ khẩn khấp.
Để tìm độ xác thực của từng giả thiết trên, một cuộc kiểm tra theo bảng hỏi và thay đổi cách hỏi đối với đối tượng. Bảng hỏi được xây dựng thành một khung có 9 vấn đề được hiểu là 9 tình huống, nguyên nhân. Kết quả cho thấy:
Thiếu vốn: có 70-90% câu trả lời
Đông con: 50-60%
Thiếu kinh nghiệm: 40-50%
Thiếu ruộng, thiếu việc làm: 10-30%
Gặp rủi ro, đau ốm: 10-15%.
Neo đơn, thiếu lao động:5-10%.
Lười và lãng phí: 5-6%.
Mắc tệ nạn xã hội:2-3%.
Thiếu thị trường: Không ai trả lời, không ai chú ý tới.
Tuy nhiên, trật tự sẽ thay đổi khi gợi ý đối tượng trả lời ngay vào hoàn cảnh của chính mình.
Thiếu vốn; 50-70%
Thiếu kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh: 40-50%
Thiếu ruộng, thiếu việc làm: 10-30%.
Đông con, thiếu lao động; 10-25%.
Neo đơn, thiếu lao động: 5-10%.
Lười, lãng phí: 5-6%.
Rủi ro, đau ốm;2-3%.
Tệ nạn: 2-3%.
Thiếu thị trường: o%
Từ đây có thể nhận xét : Do người nghèo làm không đủ ăn nên hầu như có rất ít, hoặc không có sản phẩm để tiêu thụ trên thị trường. Mặt khác, họ cũng chưa thật sự có hoạt động kinh doanh , tư duy kinh tế hàng hóa chưa phát triển. Đây là dấu vết của kinh tế tự nhiên, thuần nông, tự cấp tự túc.
Do hoàn cảnh kinh tế mang lại, người nông dân nghèo và hộ nông dân nghèo có những suy nghĩ, tâm lý khác căn bản so với người nông dân giàu có. Họ chưa có đầu óc sản xuất, kinh doanh sinh lãi, chưa dám mơ tưởng tới doanh nghiệp, chủ trại của kinh tế nông trại.
Từ vị trí, đặc điểm của các nguyên nhân trên, chúng ta có thể rút ra một vài nhận xét:
- Trong các nguyên nhân gây nghèo đói, có một số nguyên nhân khá ổn định, có ý nghĩa phổ biến, thay đổi không lớn. Thiếu vốn, thiếu kinh nghiệm làm ăn là nguyên nhân có trọng số cao.
- Rủi ro, bệnh tật, neo đơn, tệ nạn xã hội cũng là nguyên nhân ổn định nhưng có trọng số thấp.
- Thị trường là một nguyên nhân tiềm tàng, có tầm quan trọng, là cơ sở để khai thông nghèo đói, vượt qua đói nghèo, tiến tới giàu có, khá giả. Đây là một xu hướng khách quan, có vùng đã chín muồi, có nơi còn ẩn dấu. Nó gắn liền với xu hướng có tính quy luật; Muốn giảm bớt đói nghèo và vượt qua đói nghèo, trở thành trung lưu, khá giả, phải chuyển kinh tế tự nhiên- thuần nông thành kinh tế hàng hóa, đa dạng cơ cấu, loại hình nghành nghề, loại hình sản phẩm, chuyển từ tư duy hiện vật sang tư duy giá trị.
- Nguyên nhân đông con tuy được thừa nhận ở nhiều nơi nhưng lại có trọng số không ổn định, khác xa nhau, tùy theo vùng và địa phương ( từ 5-10% đến 50-60% ).
- Các nguyên nhân về điều kiện tự nhiên cũng có sự thay đổi theo địa phương. Ở những vùng tưn nhiên quá khắc nghiệt thì tỷ lệ nghèo đói rất cao, có khi biết làm ăn mà vẫn nghèo đói. Trong trường hợp này hoặc là Nhà nước phải đầu tư để cải tạo, hoặc chuyển căn bản cơ cấu kinh tếtừ nông nghiệp sang công nghiệp, thậm chí di dân.
- Nguyên nhân về đường giao thông có tính đặc thù rõ nét, nhất là vùng núi, vùng cao. Ở đây, có khi nó lại là nguyên nhân bao trùm gây nên đói nghèo và lạc hậu. Đây cũng là vùng đòi hỏi đầu tư lớn của Nhà nước trung ương.
- Đặc biệt nguyên nhân về thiên tai nặng là nguyên nhân bao trùm nhất, quyết định nhất gây ra đói gay gắt cấp tính cục bộ, đòi hỏi cứu trợ khẩn cấp.
Trên đây là những nguyên nhân cơ bản dẫn đến nghèo đói, tiếp theo chúng ta sẽ tìm hiểu về thực trạng đói nghèo ở Việt nam hiện nay.
Thực trạng nghèo đói ở Việt nam:
1. Việt Nam được xếp vào nhóm các nước nghèo của thế giới :
Tỷ lệ hộ đói nghèo của Việt Nam còn khá cao. Theo kết quả Điều tra mức sống dân cư (theo chuẩn nghèo chung của quốc tế), tỷ lệ đói nghèo năm 1998 là trên 37% và ước tính năm 2000 tỷ lệ này vào khoảng 32% (giảm khoảng 1/2 tỷ lệ hộ nghèo so với năm 1990). Nếu tính theo chuẩn đói nghèo về lương thực, thực phẩm năm 1998 là 15% và ước tính năm 2000 là 13%.
Theo chuẩn nghèo của Chương trình xóa đói giảm nghèo quốc gia mới, đầu năm 2000 có khoảng 2,8 triệu hộ nghèo, chiếm 17,2% tổng số hộ trong cả nước.
2. Nghèo đói phổ biến trong những hộ có thu nhập thấp và bấp bênh :
Mặc dù Việt Nam đã đạt được những thành công rất lớn trong việc giảm tỷ lệ nghèo, tuy nhiên cũng cần phải thấy rằng, những thành tựu này vẫn còn rất mong manh.
Thu nhập của một bộ phận lớn dân cư vẫn nằm giáp ranh mức nghèo, do vậy chỉ cần những điều chỉnh nhỏ về chuẩn nghèo, cũng khiến họ rơi xuống ngưỡng nghèo và làm tăng tỷ lệ nghèo.
Phần lớn thu nhập của người nghèo là từ nông nghiệp. Với điều kiện nguồn lực rất hạn chế (đất đai, lao động, vốn), thu nhập của những người nghèo rất bấp bênh và dễ bị tổn thương trước những đột biến của mỗi gia đình và cộng đồng. Nhiều hộ gia đình tuy mức thu nhập ở trên ngưỡng nghèo, nhưng vẫn giáp ranh với ngưỡng nghèo đói, do vậy, khi có những dao động về thu nhập cũng có thể khiến họ trượt xuống ngưỡng nghèo. Tính mùa vụ trong sản xuất nông nghiệp cũng tạo nên khó khăn cho người nghèo.
Mức độ cải thiện thu nhập của người nghèo chậm hơn nhiều so với mức sống chung và đặc biệt so với nhóm có mức sống cao. Sự gia tăng chênh lệch thu nhập giữa nhóm 20% giàu nhất và 20% nghèo nhất (từ 7,3 lần năm 1993 lên 8,9 lần năm 1998) cho thấy, tình trạng tụt hậu của người nghèo (trong mối tương quan với người giàu). Mặc dù chỉ số nghèo đói có cải thiện, nhưng mức cải thiện ở nhóm người nghèo chậm hơn so với mức chung và đặc biệt so với nhóm người có mức sống cao. Hệ số chênh lệch mức sống giữa thành thị và nông thôn còn rất cao.
Những tỉnh nghèo nhất hiện nay cũng là tỉnh xếp thứ hạng thấp trong cả nước về chỉ số phát triển con người và phát triển giới.
3. Nghèo đói tập trung ở các vùng có điều kiện sống khó khăn:
Đa số người nghèo sinh sống trong các vùng tài nguyên thiên nhiên rất nghèo nàn, điều kiện tự nhiên khắc nghiệt như ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa hoặc ở các vùng Đồng bằng sông Cửu Long, miền Trung, do sự biến động của thời tiết (bão, lụt, hạn hán...) khiến cho các điều kiện sinh sống và sản xuất của người dân càng thêm khó khăn. Đặc biệt, sự kém phát triển về hạ tầng cơ sở của các vùng nghèo đã làm cho các vùng này càng bị tách biệt với các vùng khác. Năm 2000, khoảng 20-30% trong tổng số 1.870 xã đặc biệt khó khăn chưa có đường dân sinh đến trung tâm xã; 40% số xã chưa đủ phòng học; 5% số xã chưa có trạm y tế; 55% số xã chưa có nước sạch; 40% số xã chưa có đường điện đến trung tâm xã; 50% chưa đủ công trình thuỷ lợi nhỏ; 20% số xã chưa có chợ xã hoặc cụm xã.
Bên cạnh đó, do điều kiện thiên nhiên không thuận lợi, số người trong diện cứu trợ đột xuất hàng năm khá cao, khoảng 1-1,5 triệu người. Hàng năm số hộ tái đói nghèo trong tổng số hộ vừa thoát khỏi nghèo vẫn còn lớn.
4. Đói nghèo tập trung trong khu vực nông thôn :
Nghèo đói là một hiện tượng phổ biến ở nông thôn với trên 90% số người nghèo sinh sống ở nông thôn. Năm 1999, tỷ lệ nghèo đói về lương thực, thực phẩm của thành thị là 4,6%, trong khi đó của nông thôn là 15,9%. Trên 80% số người nghèo là nông dân, trình độ tay nghề thấp, ít khả năng tiếp cận các nguồn lực trong sản xuất (vốn, kỹ thuật, công nghệ...), thị trường tiêu thụ sản phẩm gặp nhiều khó khăn do điều kiện địa lý và chất lượng sản phẩm kém, chủng loại sản phẩm nghèo nàn. Những người nông dân nghèo thường không có điều kiện tiếp cận với hệ thống thông tin, khó có khả năng chuyển đổi việc làm sang các ngành phi nông nghiệp. Phụ nữ nông dân ở vùng sâu, vùng xa, nhất là nữ chủ hộ độc thân, phụ nữ cao tuổi là những nhóm nghèo dễ bị tổn thương nhất. Phụ nữ nghèo lao động nhiều thời gian hơn, nhưng thu nhập ít hơn, họ ít có quyền quyết định trong gia đình và cộng đồng do đó có ít cơ hội tiếp cận các nguồn lực và lợi ích do chính sách mang lại.
Ước tính quy mô và tỷ lệ nghèo đói theo chuẩn nghèo mới giữa thành thị và nông thôn năm 2000
Số hộ nghèo (nghìn hộ)
So với số hộ trong vùng (%)
So với tổng số hộ nghèo cả nước (%)
Tổng số
2.8
17,2
100
Nông thôn:
2.535
19,7
90,5
Trong đó: - Nông thôn miền núi
785
31,3
28,0
- Nông thôn đồng bằng
1.75
16,9
62,5
Thành thị
265
7,8
9,5
Nguồn: Chương trình quốc gia xóa đói giảm nghèo.
5. Nghèo đói trong khu vực thành thị
Trong khu vực thành thị, tuy tỷ lệ nghèo đói thấp hơn và mức sống trung bình cao hơn so với mức chung cả nước, nhưng mức độ cải thiện điều kiện sống không đồng đều. Đa số người nghèo đô thị làm việc trong khu vực kinh tế phi chính thức, công việc không ổn định, thu nhập thấp và bấp bênh.
Việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế và chủ sở hữu trong khu vực Nhà nước dẫn đến sự dôi dư lao động, mất việc làm của một bộ phận người lao động ở khu vực này, làm cho điều kiện sống của họ càng thêm khó khăn hơn. Số lao động này phải chuyển sang làm các công việc khác với mức lương thấp hơn, hoặc không tìm được việc làm và trở thành thất nghiệp.
Người nghèo đô thị phần lớn sống ở những nơi có cơ sở hạ tầng thấp kém, khó có điều kiện tiếp cận tới các dịch vụ cơ bản (nước sạch, vệ sinh môi trường, thoát nước, ánh sáng và thu gom rác thải...).
Người nghèo đô thị dễ bị tổn thương do sống phụ thuộc chủ yếu vào nguồn thu nhập bằng tiền. Họ thường không có hoặc có ít khả năng tiết kiệm và gặp nhiều khó khăn trong việc vay vốn tạo việc làm.
Quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa làm tăng số lượng người di cư tự do từ các vùng nông thôn đến các đô thị, chủ yếu là trẻ em và người trong độ tuổi lao động. Hiện tại chưa có số liệu thống kê về số lượng người di cư tự do này trong các báo cáo về nghèo đói đô thị. Những người này gặp rất nhiều khó khăn trong việc đăng ký hộ khẩu hoặc tạm trú lâu dài, do đó họ khó có thể tìm kiếm được công ăn việc làm và thu nhập ổn định. Họ có ít cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội và phải chi trả cho các dịch vụ cơ bản như y tế, giáo dục ở mức cao hơn so với người dân đã có hộ khẩu.
Ngoài ra, đói nghèo còn chiếm tỷ lệ cao trong các nhóm đối tượng xã hội khác như những người không nghề nghiệp, người thất nghiệp, người lang thang và người bị ảnh hưởng bởi các tệ nạn xã hội (mãi dâm, nghiện hút, cờ bạc...).
6. Tỷ lệ nghèo đói khá cao trong các vùng sâu, vùng xa, vùng núi cao
Đói nghèo mang tính chất vùng rất rõ rệt. Các vùng núi cao, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người sinh sống, có tỷ lệ đói nghèo khá cao. Có tới 64% số người nghèo tập trung tại các vùng miền núi phía Bắc, Bắc Trung bộ, Tây Nguyên và Duyên hải miền Trung. Đây là những vùng có điều kiện sống khó khăn, địa lý cách biệt, khả năng tiếp cận với các điều kiện sản xuất và dịch vụ còn nhiều hạn chế, hạ tầng cơ sở rất kém phát triển, điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt và thiên tai xảy ra thường xuyên.
Ước tính quy mô và tỷ lệ nghèo đói theo chuẩn nghèo mới (2001-2005) của Chương trình xóa đói giảm nghèo theo vùng đầu năm 2001
Số hộ nghèo, (nghìn hộ)
So với tổng số hộ trong vùng (%)
So với tổng số hộ nghèo cả nước (%)
Tổng số
2.8
17,2
100
Vùng Tây Bắc
146
33,9
5,2
Vùng Đông Bắc
511
22,3
18,2
Vùng Đồng bằng sông Hồng
337
9,8
12,0
Vùng Bắc Trung Bộ
554
25,6
19,8
Vùng duyên hải miền Trung
389
22,4
13,9
Vùng Tây Nguyên
190
24,9
6,8
Vùng Đông Nam Bộ
183
8,9
6,6
Vùng Đồng bằng sông Cửu Long
490
14,4
17,5
Nguồn: Chương trình quốc gia xóa đói giảm nghèo
7. Tỷ lệ hộ nghèo đói đặc biệt cao trong các nhóm dân tộc ít người
Trong thời gian qua, Chính phủ đã đầu tư và hỗ trợ tích cực, nhưng cuộc sống của cộng đồng dân tộc ít người vẫn gặp nhiều khó khăn và bất cập. Mặc dù dân số dân tộc ít người chỉ chiếm khoảng 14% tổng số dân cư, song lại chiếm khoảng 29% trong tổng số người nghèo.
Đa số người dân tộc ít người sinh sống trong các vùng sâu, vùng xa, bị cô lập về mặt địa lý, văn hoá, thiếu điều kiện phát triển về hạ tầng cơ sở và các dịch vụ xã hội cơ bản.
III.Các giải pháp chủ yếu để xóa đói giảm nghèo:
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn:
Nền kinh tế thuần nông không thể đem lại sự giàu có, ổn định và phồn vinh cho các hộ làm nghề nông nói riêng và nền kinh tế nông nghiệp nói chung. Hơn nữa, nền kinh tế nông nghiệp nước tảtong điều kiện canh tác lạc hậu, ruộng đất bình quân đầu người quá thấp ( 0,1 ha/ người ), lại bị lệ thuộc vào thiên nhiên ( nhiều vùng mỗi năm phải chịu đựng 4-5 cơn bão lụt, có tỉnh 3 năm liền liên tiếp bị thiên tai, mất mùa đói kém ), nếu chỉ sản xuất thuần nông sẽ gặo rủi ro và khó vượt qua được tình trạng nghèo đói. Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và nông thôn theo tinh thần Nghị quyết 5 của ban chấp hành Trung ương đảng khóa VII là một biện pháp quan trọng hàng đầu, vừa có tính cấp bách để xóa đói, giảm nghèo, vừa mang tầm chiến lược cho sự phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôntheo hướng chuyển nền kinh tế thuần nông, tự túc tự cấp sang nền kinh tế hàng hóa, góp phần thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, cần chú trọng thực hiện một số giải pháp cụ thể sau đây:
Một là, thực hiện kiên quyết việc chuyển nền kinh tế thuần nông gắn với xóa đói, giảm nghèo, trước hết phải giúp cho tường hộ nghèo và xã nghèo có kế hoạch sản xuất lương thực một cách hợp lý, đồng thời mở rộng phát triểncác loại cây trồng khác, nhất là cây công nghiệp, thích ứng với điều kiện đất đai, khí hậu và thị trường, trên cơ sở tính toán hiệu quả kinh tế. Làm được như vậy sẽ hạn chế được tỷ lệ rủi ro, mất ở đồng thấp, vẫn thu hoạch được ở đồng cao, mất cây ngắn ngày, vẫn thu hoạch được cây dài ngày.
Hai là, Đặc biệt chú ý đến phát triển kinh tế vườn, ao , chuồng. Khắc phục tình trạng vườn tạp, ao, chuồng trống… khá phổ biến ở một số vùng nông thôn hiện nay, giải quyết tận gốc những nguyên nhân: Thiếu vốn, thiếu kiến thức, mất trật tự an ninh ( trong bảo vệ kết quả sản xuất trên đồng ruộng, đồi rừng, ao hồ…) trong địa bàn sinh sống, cư trú.
Ba là,phát triển tiểu thủ công nghiệp, nghành nghề truyền thống với cả ba mô hình:
- Những hộ gia đình đã có đủ điều kiện chuyển hoàn toàn thành gia đình làm nghề tiểu thủ công nghiệp
- Hộ kết hợp vừa làm nông nghiệp, vừa làm nghề khi hết mùa vụ.
- Hộ thường xuyên có lao động làm nông nghiệp và lao động làm nghề.
Bốn là, phát triển công nghiệp chế biến và dịch vụ gắn với đô thị hóa nông thôn.
Có thể nói nhiều sản phảm từ nông nghiệp của ta chưa được chế biến. Để có thể đưa các loại nông sản vào chế biến, vấn đề đầu tư là tốn kém và phức tạp. Song với hướng đi vào nền kinh tế hàng hóa và chất lượng tiêu dùng đòi hỏi ngày càng cao, phải tổ chức và đầu tư kết hợpcác loại quy mô nhỏ và vừa, công nghệ phù hợp với tập quán truyền thống. Ở nước ta các nông sản có thểđưa vào chế biến bao gồmlương thực, rau quả, gia cầm, gia súc, bảo đảm nhu cầu cho thị trường trong nước có chất lượng, đặc biệt cả khi trái mùa vụ. Các dịch vụ về cung ứng vật tư, về kỹ thuật sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm là vấn đề thiết thực cho phát triển kinh tế nông thôn và xóa đói, giảm nghèo. Đây là một hướng để chuyển dịch cơ cấu, công nghiệp hóa , hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn. Việc thực hiện theo hướng nêu trên nếu không có chính sách thuế, đầu tư kỹ thuật hợp lý để phát triển công nghiệp và dịch vụ thì cũng không xóa đói, giảm nghèo được ở nông thôn.
Gắn phát triển công nghiệp, dịch vụ với đô thị hóa nông thôn, tất yếu những thị tứ, thị trân sẽ được khuyến khích hình thành và phát triển, làm cho giữa các vùng có sự giao lưu kinh tế, văn hóa, xã hội, nhất là các vùng chưa phát triển. Ở đây cũng khuyến khích các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp trong nước đến đầu tư phát triển công nghiệp, dịch vụ với chính sách ưu đãi “ đủ độ” về miễn thuế có thời hạn về kinh doanh, đất đai và đầu tư một số hạ tầng cơ bản như : điện, nước, giao thông...
2. Các giải pháp về đất đai và tư liệu sản xuất cho các hộ nghèo:
Quy hoạch và sử dụng đất só hiệu quả, điều chỉnh thu hồi đất không sử dụng để giao quyền sử dụng đất cho hộ nghèo, thiếu hoặc không có đất trên địa bàn cũng là một giải pháp rất quan trọng góp phần thực hiện xóa đói, giảm nghèo ở nông thôn.
Những nơi thực sự thiếu đất sản xuất lại chưa có điều kiệnphát triển nghành nghề, thì phải tổ chức khai hoang, lấn biển, tạo ra nhiều quỹ đầt để đầu tư kết cấu hạ tầng và động viên hộ nghèo đến sản xuất, sinh sông sở các vùng đất mới. Các giải pháp này ở nước ta đã thực hiện từ lâu, song phần nhiều vì mục đích dãn dân, chưa phải là biện pháp kinh tế, xã hội chủ yếu. Do vậy, cần kết hợp khuyến khích cả hộ giàu, hộ nghèo và ttùy theo khả năng mà giao quyền sử dụng đất cho các hộ để sản
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Quản lý với bài toán xoá đói giảm nghèo và nâng cao dân trí khu vực miền núi phía Bắc.docx