MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 3
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ CHẤT LƯỢNG VÀ QUẢN TRỊ CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM 4
1. CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM 4
1.1. Một số khái niệm về chất lượng sản phẩm 4
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm 4
2. QUẢN TRỊ CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM 6
2.1. Khái niệm và những nguyên tắc của quản trị chất lượng 6
2.2. Hệ thống quản lý chất lượng 7
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG QUẢN TRỊ CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM CỦA NGÀNH THỦY SẢN VIỆT NAM 14
1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ NGÀNH THỦY SẢN VIỆT NAM 14
2. CHẤT LƯỢNG THỦY HẢI SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY 15
3. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG THỦY SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY 18
3.1. Quy định về chất lượng sản phẩm thúy sản 18
3.2. Công tác kiểm tra, quản lý chất lượng thủy sản 20
3.2.1 Ở góc độ quản lý nhà nước về thủy sản 20
3.2.2 Ở góc độ doanh nghiệp 21
3.3 Những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân 23
3.3.1 Thành tựu và nguyên nhân 23
3.3.2 Hạn chế và nguyên nhân 24
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG THỦY SẢN 27
1. Quy hoạch chuỗi sản xuất và cung ứng thủy sản 27
2. Nâng cao nhận thức của người sản xuất về chất lượng thủy sản 27
3. Hoàn thiện cơ cấu tổ chức và năng lực kiểm soát của Cơ quan quản lý nhà nước về chất lượng thủy sản: 27
4. Hoàn thiện hệ thống luật lệ văn bản pháp lý: 28
5. Xã hội hóa công tác kiểm nghiệm, xét nghiệm chất lượng, an toàn thực phẩm thủy sản 28
6. Xây dựng hợp tác liên Bộ ngành, tổ chức Hội, Hiệp hội về chất lượng thủy sản 29
KẾT LUẬN 30
TÀI LIỆU THAM KHẢO 31
30 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4632 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Quản trị chất lượng trong ngành thủy sản Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhóm được hình thành từ lòng tin cậy, tự do trao đổi ý kiến và sự thông hiểu của các thành viên đối với mục tiêu, kế hoạch chung của doanh nghiệp
Lập kế hoạch thực hiện TQM: trên cở sở nghiên cứu các cẩm nang áp dụng TQM, lập kế hoạch thực hiện theo từng phần của TQM để thích nghi dần, từng bước tiếp cận và tiến tới áp dụng toang bộ TQM.
Hệ thống HACCP
HACCP (Hazard Analysis Crifical control points) là hệ thống phân tích mối nguy và xác định điểm kiểm soát trọng yếu. Nó là sự tiếp cận có tính khoa học, hợp lý và có tính hệ thống cho sự nhận biết, xác định và kiểm soát mối nguy hại trong chế tạo, gia công, sản xuất, chuẩn bị và sử dụng thực phẩm để đảm bảo rằng thực phẩm là an toàn khi tiêu dùng. Hệ thống này nhận biết những mối nguy hại có thể xảy ta trong quá trình sản xuất thực phẩm và đặt ra các biện pháp kiểm soát để tránh những mối nguy xảy ra. Mối nguy được định nghĩa như tác nhân hoặc điều kiện sinh học, hoá học hoặc vật lý, thực phẩm có khả năng gây ra hậu quả có hại cho sức khoẻ. Ví dụ, mối nguy của thực phẩm là các mảnh kim loại, thuốc trừ sâu và chất gây ô nhiễm. HACCP quan trọng bởi vì nó kiểm soát mối nguy tiềm tàng trong sản xuất thực phẩm. Thông qua việc kiểm soát những rủi ro thực phẩm chủ yếu, những nhà sản xuất có thể đảm bảo tốt hơn cho người tiêu dùng sản phẩm của họ an toàn cho tiêu dùng. Với sự giảm bớt mối nguy thực phẩm, việc bảo vệ sức khoẻ cộng đồng sẽ được củng cố. Những chương trình kiểm soát an toàn thực phẩm truyền thống nói chung dựa trên sự kiểm tra và việc nghiên cứu thành phẩm tức là cách tiếp cận “quan sát, phát hiện và tiếp xúc” tin tưởng vào phát hiện mối nguy hại tiềm tàng hơn là ngăn chặn. Với hệ thống HACCP, an toàn thực phẩm thích được hợp nhất vào đề cương của phương pháp hơn là hệ thống không hiệu lực của phương pháp nghiên cứu thành phẩm. Bởi vậy, hệ thống HACCP cung cấp phương pháp mang lại lợi nhuận hơn và ngăn ngừa cho an toàn thực phẩm. Kinh nghiệm của một vài quốc gia cho biết việc áp dụng hệ thống HACCP dẫn đến việc phòng ngừa có hiệu quả hơn bệnh tật từ sản phẩm.
Các nguyên tắc của HACCP:
1) Tiến hành phân tích mối nguy hại: Xác định các mối nguy hại tiềm ẩn ở mọi giai đoạn có thể ảnh hưởng tới an toàn thực phẩm từ sơ chế, chế biến, phân phối cho tới khâu tiêu thụ cuối cùng. Đánh giá khả năng xuất hiện các mối nguy hại và xác định các biện pháp kiểm soát chúng.
2) Xác định các điểm kiểm soát tới hạn: (CCP)Xác định các điểm tại công đoạn vận hành của sơ đồ dây chuyền sản xuất cần được kiểm soát để loại bỏ các mối nguy hại hoặc hạn chế khả năng xuất hiện của chúng. Thuật ngữ “Điểm” dùng ở đây được hiểu là bất kỳ một công đoạn nào trong sản xuất hoặc chế biến thực phẩm bao gồm từ sản xuất hoặc tiếp nhận nguyên liệu, thu hoạch, vận chuyển, chế biến hoặc bảo quản.
3) Xác lập các ngưỡng tới hạn: Xác định các ngưỡng tới hạn không được vượt quá nhằm đảm bảo khống chế có hiệu quả các điểm kiểm soát tới hạn .
4) Thiết lập hệ thống giám sát các điểm kiểm soát tới hạn. Xây dựng một hệ thống các chương trình thử nghiệm hoặc quan trắc nhằm giám sát tình trạng được kiểm soát của các điểm kiểm soát tới hạn.
5) Xác định các hoạt động khắc phục cần phải tiến hành khi hệ thống giám sát cho thấy tại một điểm kiểm soát tới hạn nào đó không được kiểm soát đầy đủ.
6) Xác lập các thủ tục kiểm tra để khẳng định rằng hệ thống HACCP đang hoạt động có hiệu quả.
7) Thiết lập hệ thống tài liệu liên quan đến mọi thủ tục, hoạt động của chương trình HACCP phù hợp cới các nguyên tắc trên các bước áp dụng chúng.
Lợi ích của việc được chứng nhận HACCP
Cải tiến phương pháp nội bộ
Hệ thống duy trì cân đối kế toán để ngăn ngừa hệ thống hỏng hóc
Tuân thủ theo các yêu cầu cần thiết, các công ty được chứng nhận ít đụng độ những vấn đề với người điều chỉnh
Giảm bớt tính thường xuyên của kiểm toán ngân hàng
Lợi thế cạnh tranh với các công ty không được chứng nhận
Nâng cao hình ảnh công ty.
Hệ thống Tiêu chuẩn Việt Nam
Hệ thống Tiêu chuẩn Việt Nam là các tiêu chuẩn do Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường chất lượng của Việt Nam đề ra và được coi là chuẩn của quốc gia. Hệ thống Tiêu chuẩn Việt Nam gồm: Tiêu chuẩn quốc gia (TCVN) và Tiêu chuẩn cơ sở (TCCS). Tính đến hết năm 2006, Hệ thống Tiêu chuẩn Việt Nam hiện hành gồm khoảng 6000 TCVN.
Hệ thống TCVN hiện hành có những ưu điểm chủ yếu sau:
Hệ thống TCVN đã góp phần quan trọng trong việc phục vụ nhu cẫu sản xuất kinh doanh, quản lý kinh tế xã hội,…
Về cơ bản, hệ thong TCVN đã được xây dưng và phát triển sát thực các đói tượng theo yêu cầu quản lý cấp bách
Được soát xét kịp thời để loại ra khỏi hệ thống TCVN đã quá lạc hậu hoặc không còn cần thiết hoặc thuộc các đối tượng có thể quản lý dưới dạng văn bản khác, cấp khác.
Số lượng TCVN hòan toàn phù hợp hoặc tương đương với các tiêu chuẩn quốc tế, khu vực và nước ngoài ngày một nhiều hơn. Năm 2000 Việt Nam có 1300 TCVN tương đương với TCQT và TCNN, thì đến thàng 12/2006 con số này là 2077.
Tính đồng bộ các nội dung (loại) tiêu chuẩn được chú trọng.
Thủ tục và phương pháp xây dựng TCVN luôn được cải tiến và hiện nay đang áp dụng thủ tục gần giống với thủ tục xây dựng tiêu chuẩn quốc tế ISO
Tuy nhiên, hiện nay TCVN chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu đổi mới hiện nay và còn một số tồn tại như:
Hệ thống TCVN thực sự chưa được áp dụng rộng rãi, chưa thực sự phát huy hiệu lực và hiệu quả cao.
Trình độ khoa học kỹ thuật của nhiều TCVN còn thấp và lạc hậu, cần phải soát xét, thay thế.
Số lượng tiêu chuẩn quốc tế được chấp nhận còn chiếm tỷ trọng chưa cáo trong hệ thống TCVN.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG QUẢN TRỊ CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM CỦA NGÀNH THỦY SẢN VIỆT NAM
1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ NGÀNH THỦY SẢN VIỆT NAM
Ngành Thuỷ sản Việt Nam đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế đất nước. Quy mô của Ngành Thuỷ sản ngày càng mở rộng và vai trò của Ngành Thuỷ sản cũng tăng lên không ngừng trong nền kinh tế quốc dân.
Từ cuối thập kỷ 80 đến nay, tốc độ tăng trưởng GDP của Ngành Thuỷ sản cao hơn các ngành kinh tế khác cả về trị số tuyệt đối và tương đối. Giai đoạn 5 năm 2000-2005, GDP của Ngành Thuỷ sản đã tăng từ 16.664 tỷ đồng lên 30.906 tỷ đồng, tức là gấp gần 2 lần và năm 2008 ước tính đạt 40.327 tỷ đồng (theo giá thực tế). Tỷ trọng GDP của Ngành Thuỷ sản trong GDP của toàn bộ nền kinh tế năm 2000 chưa đến 4%, năm 2005 tỷ lệ đó là 5% và tỷ lệ này vẫn tiếp tục được giữ vững.
Thủy sản cung cấp thực phẩm, tạo nguồn dinh dưỡng cho mọi người dân Việt Nam. Thuỷ sản được đánh giá là nguồn cung cấp chính đạm động vật cho người dân. Năm 2008, mức tiêu thụ trung bình mặt hàng thuỷ sản của mỗi người dân Việt Nam là 19,4 kg, cao hơn mức tiêu thụ trung bình sản phẩm thịt lợn (17,1 kg/người) và thịt gia cầm (3,9 kg/người). Có thể nói ngành thuỷ sản có đóng góp không nhỏ trong việc bảo đảm an ninh lương thực quốc gia.
Ngành Thuỷ sản là một trong những ngành tạo ra lương thực, thực phẩm, cung cấp các sản phẩm tiêu dùng trực tiếp. Với sự phát triển nhanh, ngành thuỷ sản đã tạo ra hàng loạt việc làm và thu hút một lực lượng lao động đông đảo tham gia vào tất cả các công đoạn sản xuất, làm giảm sức ép của nạn thiếu việc làm trên phạm vi cả nước. Đặc biệt do sản xuất của nhiều lĩnh vực như khai thác, nuôi trồng thuỷ sản chủ yếu là ở quy mô hộ gia đình nên đã trở thành nguồn thu hút mọi lực lượng lao động, tạo nên nguồn thu nhập quan trọng góp phần vào sự nghiệp xoá đói giảm nghèo.
Từ đầu những năm 1980, ngành thuỷ sản đã đi đầu trong cả nước về mở rộng quan hệ thương mại sang những khu vực thị trường mới trên thế giới. Năm 2000 ngành thuỷ sản mới chỉ có quan hệ thương mại với 50 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Đến năm 2005, quan hệ này đã được mở rộng ra 80 nước và vùng lãnh thổ và con số này cho đến nay là trên 100 nước và vùng lãnh thổ. Xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam đã trở thành hoạt động có vị trí quan trọng hàng nhất nhì trong nền kinh tế ngoại thương Việt Nam, kim ngạch xuất thủy sản đã đạt ngưỡng 1 tỷ USD vào năm 2000 và tăng liên tục cho đến nay. Theo số liệu của Hải quan, tính đến ngày 14/11/2009, tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của cả nước đã chạm mức 5 tỷ USD. Dự kiến xuất khẩu thuỷ sản của cả năm 2009 sẽ đạt khoảng 5,3 tỉ USD. Đưa Việt Nam vào top 5 nước xuất khẩu thủy sản lớn nhất trên thế giới.
2. CHẤT LƯỢNG THỦY HẢI SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY
Theo đánh giá của Cục Quản lý Chất lượng an toàn vệ sinh và thú y thuỷ sản (NAFIQAVED), trong khoảng 10 năm trở lại đây, vấn đề chất lượng và an toàn thực phẩm thủy sản về cơ bản được giải quyết, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Chất lượng các mặt hàng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam không ngừng được nâng lên và ngày càng có uy tín trên thị trường thế giới. Ngành thuỷ sản đã đạt được nhiều tiến bộ mà thể hiện rõ nhất ở kết quả xuất khẩu, tuy nhiên vấn đề dư lượng kháng sinh và nhiễm khuẩn do tiêm chích tạp chất và ngâm hoá chất vẫn là nỗi lo và tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với các doanh nghiệp.
Trong thời gian qua, các nhà máy chế biến thủy sản của Việt Nam đã đạt trình độ khu vực và được phép vào các thị trường lớn như EU, Mỹ, Nhật Bản. Năm 2009, hàng thuỷ sản Việt Nam đã có mặt tại 108 quốc gia và vùng lãnh thổ, đồng nghĩa với việc chất lượng, an toàn vệ sinh sản phẩm thuỷ sản đã được chấp nhận rộng rãi trên thị trường quốc tế.
Cả nước hiện có khoảng 439 cơ sở chế biến xuất khẩu, trong đó có 296 cơ sở chế biến thuỷ sản đông lạnh, còn lại là cơ sở sản xuất hàng khô và đồ hộp. Khoảng 300 đơn vị sản xuất đã áp dụng tiêu chuẩn vệ sinh an toàn quốc tế (HACCP) do vậy có nhiều đơn vị đã đủ tiêu chuẩn xuất khẩu vào các thị trường khó tính. Tính đến nay, cả nước có 245 doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường EU; 350 doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn vào thị trường Mỹ, 337 doanh nghiệp vào thi trường Trung Quốc và 266 doanh nghiệp vào Hàn Quốc. Sản phẩm thuỷ sản Việt Nam hoàn toàn có khả năng cạnh tranh trong xu thế hội nhập cho dù phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức như đòi hỏi cao về chất lượng sản phẩm hay luật lệ buôn bán của từng thị trường.
Năm 2009, ngành thủy sản triển khai rộng rãi chương trình kiểm soát dư lượng hoá chất độc hại trong nuôi thuỷ sản với việc tiến hành đối với hầu hết các loài thuỷ sản nuôi tập trung như tôm sú, tôm thẻ chân trăng, tôm càng xanh, cá basa, cá tra, cá rô phi và cua.
Ngoài ra, NAFIQAVED còn thực hiện khá tốt nhiều biện pháp kiểm soát khác như việc đưa tạp chất vào nguyên liệu thuỷ sản, chất lượng giống thuỷ sản nhập khẩu, kiểm dịch thuỷ sản, hoạt động của những người hành nghề thú y thuỷ sản.
Tuy nhiên, những khuyến cáo về số hàng vi phạm tiêu chuẩn chất lượng đang gia tăng. Theo Bộ Thuỷ sản, do hoạt động kiểm soát dư lượng hóa chất, kháng sinh có hại đến sức khoẻ người tiêu dùng chưa được thực hiện nghiêm túc tại tất cả các công đoạn từ nuôi trồng, đánh bắt, thu mua vận chuyển nguyên liệu, đến chế biến nên số lượng hàng thủy sản bị phát hiện kháng sinh có hại vẫn còn cao.
Qua báo cáo của cơ quan kiểm soát thực phẩm Mỹ (FDA), phần lớn các khuyết điểm của hàng thuỷ sản bị vi phạm về: bao bì, nhãn hiệu, vệ sinh an toàn, nhiễm trùng (Salmonella...) và hàm lượng kháng sinh cao vượt mức cho phép (Chloramphenicol...)
Việc sử dụng hóa chất ngoài vòng kiểm soát đang gây trở ngại cho ngành thủy sản. Chính phủ đã yêu cầu Bộ Thủy sản tăng cường hơn nữa việc quản lý, sử dụng các loại hóa chất, kháng sinh cấm sử dụng trong sản xuất, kinh doanh thủy sản nguyên liệu và chế biến để bảo vệ người tiêu dùng và những thị trường xuất khẩu của Việt Nam. Mặc dù Bộ Thủy sản triển khai nhiều biện pháp quyết liệt nhằm bảo đảm vệ sinh sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu, nhưng một số doanh nghiệp vẫn bị phát hiện sử dụng hoá chất, kháng sinh bị cấm. Chẳng hạn như vấn đề mạ băng, khách hàng yêu cầu mạ băng không quá 10% cho thị trường Nga, và quy định mạ băng tối đa là 20% nhưng có nhiều doanh nghiệp mạ băng lên đến 30%; về listeria, khách hàng châu Âu thông báo có rất nhiều lô hàng cá tra của Việt Nam bị phát hiện listeria và thị trường Nga cũng đang rất căng thẳng vấn đề này. Thị trường Australia cũng đã có phản ứng về tỷ lệ protein trong cá tra của doanh nghiệp Việt Nam. Trước kia ngư dân đánh bắt xa bờ thường mang theo nước đá cây để ướp thủy sản, nhưng từ khi xuất hiện chất "bột đắng", sử dụng rẻ tiền mà hiệu quả hơn nhiều, họ đã dùng loại này thay nước đá. Thực chất đây là chất chloramphenicol, một chất độc gây ung thư. Bộ thủy sản đã đưa các chất này vào danh sách cấm nhập khẩu và cấm sử dụng trong nuôi trồng, đánh bắt thủy sản. Thế nhưng các hoạt động nhập lậu, mua bán rồi sử dụng lén lút vẫn không thể quản lý được.
Đến nay số lượng hàng vi pham gia tăng đến độ báo động, chất lượng thủy sản Việt Nam liên tiếp bị nước ngoài cảnh báo; do đó những hàng rào vệ sinh an toàn thực phẩm của một số nước khách hàng được dựng lên để kiểm tra hàng của Việt Nam. Tháng 7/2008, Nhật Bản đã ban hành lệnh kiểm tra 50%, tiếp đến là 100% đối với các lô hàng sản phẩm cá mực sau khi họ phát hiện 2 doanh nghiệp Việt Nam có lô hàng nhiễm dư lượng kháng sinh Chloramphenicol. Và theo quy định vệ sinh an toàn thực phẩm của Nhật Bản, nếu chỉ phát hiện một vài doanh nghiệp vi phạm, nước này có thể sẽ cấm toàn bộ doanh nghiệp cùng ngành xuất khẩu sang thị trường của họ. Điều này sã rất bất lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh thủy, hải sản khác của Việt Nam. Chỉ riêng trong 5 tháng đầu năm 2009 đã có hàng chục trường hợp với hàng ngàn thùng hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam bị trả về, bị cảnh báo thậm chí bị nước ngoài áp dụng biện pháp đình chỉ xuất khẩu đối với doanh nghiệp vi phạm. Trong tháng 4/2009, gần 30 lô hàng của các doanh nghiệp Việt Nam bị FDA trả về với lý do nhiễm kháng sinh và các tạp chất kháng. Tháng 5, Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi Nhật Bản đã liên tiếp cảnh báo 11 doanh nghiệp Việt Nam. Đầu tiên là các lô hàng tôm bị phát hiện dư lượng chất kháng sinh chloramphenicol, AOZ và Semicarbazide khi kiểm tra tại cảng nhập khẩu Nhật Bản. Sau đó vài ngày, lại có thêm 5 doanh nghiệp nữa bị cảnh báo với lý do tương tự. Trong số này có cả những doanh nghiệp đang nằm trong danh sách được phép xuất khẩu vào Nhật mà không bắt buộc phải kiểm tra hóa chất cấm.
Không chỉ ở Mỹ và Nhật, thủy sản Việt Nam cũng tiếp tục gặp khó khăn tại thị trường Trung Quốc. Cuối tháng 5/2009, Cục Kiểm nghiệm kiểm dịch tỉnh Phúc Kiến đã phát hiện chất chloramphenicol vượt quá tiêu chuẩn cho phép (0,10 mg/kg) trong 1 lô tôm nõn đông lạnh nhập khẩu từ Việt Nam. Ngay sau đó, Trung Quốc đã đề nghị Việt Nam tạm thời đình chỉ việc xuất khẩu thủy sản của doanh nghiệp này sang Trung Quốc. Sau khi xảy ra những trường hợp trên, VASEP đều có thông báo gửi đến các hội viên khuyến cáo phải kiểm tra nghiêm ngặt chất lượng, thế nhưng việc vi phạm vẫn cứ lặp lại dù nguy cơ đánh mất thị trường xuất khẩu đang ngày càng lộ rõ.
Các mặt hàng thủy sản tiêu dùng nội địa sản xuất với quy mô lớn mặc dù đã có những tiêu chuẩn ban hành, song việc kiểm tra chúng những năm gần đây hầu như không được chú trọng. Các sản phẩm nếu là mặt hàng nhỏ về số lượng thì hầu như chưa có tiêu chuẩn cụ thể mà chỉ là sự thỏa thuận hai bên mua và bán. Phần kiểm tra chất lượng hàng thuỷ sản nội địa những năm gần đây hầu như bị bỏ quên. Thông tin, tuyên truyền về chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm còn hạn chế. Người sản xuất kinh doanh thực phẩm nhận thức chưa đầy đủ về các kiến thức vệ sinh an toàn thực phẩm, các mô hình sản xuất tốt; tác hại của việc sử dụng các hóa chất kháng sinh cấm, hạn chế sử dụng. Với các nguyên nhân này cùng với việc chạy theo lợi nhuận người sản xuất nhiều khi đã vô tình hoặc lạm dụng hóa chất, thuốc kháng sinh không đúng quy định, gây hậu quả tồn dư các hoá chất độc hại quá mức cho phép. Hiện cả nước vẫn còn 209 cơ sở chế biến thủy sản chưa đạt tiêu chuẩn về chất lượng và an toàn vệ sinh sản phẩm, trong đó hầu hết là các cơ sở đã được xây dựng từ lâu, trang thiết bị lạc hậu, chưa được đầu tư nâng cấp.
Chúng ta chưa có một quy hoạch vùng phát triển thuỷ sản khoa học. Tỉnh nào tỉnh nấy khoanh nuôi tràn lan dẫn đến môi trường nước ô nhiễm nghiêm trọng. Trên một khúc sông nuôi cá thì cả một đoạn sông dài nước bị ô nhiễm; gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường cũng như chất lượng thủy sản.
Chúng ta vẫn chưa tập trung giải quyết tốt việc đổi mới công nghệ bảo quản sau thu hoạch đối với sản phẩm của nghề khai thác nhằm tăng chất lượng nguyên liệu. Vấn đề đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm khép kín từ khâu sản xuất ban đầu (từ khâu sản xuất giống và thức ăn cho thuỷ sản) đến các công đoạn nuôi, bảo quản sản phẩm sau thu hoạch theo nguyên tắc “ từ ao nuôi tới bàn ăn” còn nhiều bất cập chưa đáp ứng tốt các yêu cầu khắt khe của các thị trường và của người tiêu dùng hiện đại.
Vẫn tồn tại sự thiếu đồng bộ trong hệ thống bảo đảm an toàn chất lượng sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam hiện nay. Các rào cản về vệ sinh an toàn thực phẩm của thị trường xuất khẩu ngày càng chặt chẽ hơn. Ngược lại, hàng thuỷ sản nguyên liệu nhập từ các quốc gia khác vào Việt Nam ngày càng tăng nhưng Việt Nam lại chưa có biện pháp cụ thể để kiểm soát. Một vấn đề đang nổi cộm hiện nay là, các sản phẩm thuỷ sản được nhập khẩu vào Việt Nam theo cả hai con đường chính ngạch và tiểu ngạch, do đó việc thống kê, theo dõi về số lượng, chủng loại và chất lượng sản phẩm đều chưa đáp ứng yêu cầu quản lý. Sản phẩm vẫn chưa được quản lý chặt chẽ về chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm, nhiều loại không rõ xuất xứ và thời hạn sử dụng. Việc quản lý nguồn nhập khẩu không đầy đủ như vậy không chỉ cản trở công tác quản lý, gây tác hại đối với người tiêu dùng mà còn ảnh hưởng đến cả nguồn cung cấp nguyên liệu trong nước. Điều này đặt ra yêu cầu nâng cao năng lực quản lý và nhận thức về quyền lợi của người tiêu dùng.
3. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG THỦY SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Quy định về chất lượng sản phẩm thúy sản
Thức ăn dùng trong nuôi thủy sản
Thức ăn dùng trong nuôi thủy sản được quy định theo Quyết định số 50/2008/QĐ-TTg ngày 7/3/2008 bao gồm bột cá; thức ăn hỗn hợp dạng viên cho tôm sú, tôm càng xanh, cho cá tra và cá basa, cá rô phi; thức ăn cho động vật thủy sản khác đều phải tuân thủ các yêu cầu của tiêu chuẩn ngành, Quyết định số 24/2007/QĐ-BTS ngày 18/10/2007 của Bộ Thuỷ sản và Quyết định số 07/2008/QĐ-BTS ngày 24/02/2008 của Bộ Thuỷ sản. Các thức ăn này đều phải được Cục Quản lý chất lượng, an toàn vệ sinh và thú y thủy sản - Bộ Thủy sản kiểm tra và chứng nhận chất lượng.
Thủy sản và sản phẩm thủy sản phải gia nhiệt trước khi ăn
Thủy sản và sản phẩm thủy sản phải gia nhiệt trước khi ăn bao gồm các thuỷ sản và các sản phẩm thủy sản đông lạnh, ướp lạnh, khô. Các sản phẩm này phải đảm bảo các tiêu chuẩn về vi sinh và hoá học do Cục Quản lý chất lượng, an toàn vệ sinh và thú y thủy sản- Bộ Thủy sản kiểm tra.
Sản phẩm thủy sản ăn liền
Các sản phẩm thủy sản ăn liền bao gồm các sản phẩm thủy sản đông lạnh, ướp lạnh ăn liền, đồ hộp thủy sản, thủy sản khô ăn liền. Các sản phẩm này cũng phải tuân thủ các tiêu chuẩn vi sinh của Bộ Y tế và tiêu chuẩn hoá học của Bộ Thủy sản đề ra.
Quy định về bảo quản thực phẩm bằng phương pháp hiếu xạ ( ban hành kèm theo Quyết định số 3616/2009/QĐ-BYT ngày 14-10-2009 của Bộ trưởng Bộ Y tế)
Chỉ sử dụng các nguồn bức xạ được quy định trong TCVN 7247: 2008 Thực phẩm chiếu xạ.
Việc đo liều hấp thụ phải thực hiện theo một trong các Tiêu chuẩn Việt Nam sau: TCVN 7248: 2008 Tiêu chuẩn thực hành đo liều áp dụng cho thiết bị chiếu xạ gamma dùng để xử lý thực phẩm hoặc TCVN 7249: 2008, Tiêu chuẩn thực hành đo liều áp dụng cho thiết bị chiếu xạ chùm tia electron và bức xạ hãm (bremsstranhlung) dùng để xử lý thực phẩm.
Quá trình vận hành thiết bị chiếu xạ thực phẩm phải tuân theo TCVN 7250:2008 Quy phạm vận hành thiết bị chiếu xạ xử lý thực phẩm.
Quy định về danh mục chất cấm sử dụng
Các chất như: Aristolochia spp và các chế phẩm từ chúng, Diethylstibestrol (DES), Chlorpromazine, Lomefloxacin… là các loại hoá chất, kháng sinh cẩm sử dụng trong thức ăn, thuốc thú y, hoá chất, chất xử lý môi trường, chất tẩy rửa khử trùng, chất bảo quản, kem bôi da tay trong tất cả các khâu sản xuất giống, nuôi trồng động thực vật dưới nước và lưỡng cư, dịch vụ nghề cá và bảo quản, chế biến.
Quy định về mức dư lượng hóa chất
Quyết định số 07/2008/QĐ-BTS ngày 24 tháng 2 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Thủy sản chỉ rõ dư lượng tối đa, mục đích sử dụng và thời gian ngưng sử dụng các hoá chất và kháng sinh trước khi thu hoạch. Cơ sở sản xuất kinh doanh phải có đủ bằng chứng khoa học và thực tiễn về thời gian thải loại dư lượng thuốc trong động, thực vật dưới nước và lưỡng cư xuống dưới mức giới hạn cho phép cho từng đối tượng nuôi và phải ghi thời gian ngừng sử dụng thuốc trước khi thu hoạch trên nhãn sản phẩm.
Quy định về phụ gia thực phẩm (Tiêu chuẩn Ngành TCN 156:2000 về qui định sử dụng phụ gia thực phẩm trong chế biến thuỷ sản)
Phụ gia sử dụng để bảo quản, chế biến thuỷ sản phải nằm trong danh mục các chất phụ gia được phép sử dụng cho thực phẩm theo Quyết định số 867/QÐ-BYT ngày 04/4/1999 của Bộ Y tế. Những phụ gia không có trong danh mục này phải được Bộ Thuỷ sản đề nghị và được Bộ Y tế bổ sung vào danh mục cho phép sử dụng
Phụ gia phải có nhãn hàng hoá theo đúng qui định, có nguồn gốc rõ ràng, còn thời hạn sử dụng, đảm bảo độ tinh khiết và các yêu cầu kỹ thuật khác.
Các nhóm phụ gia thực phẩm và giới hạn tối đa cho phép sử dụng của mỗi loại phụ gia trong chế biến thuỷ sản.
3.2. Công tác kiểm tra, quản lý chất lượng thủy sản
3.2.1 Ở góc độ quản lý nhà nước về thủy sản
Chúng ta đã thành lập được các tổ chức chuyên trách quản lý chất lượng, an toàn vệ sinh và thú y thủy sản với đội ngũ cán bộ được đào tạo vững về chuyên môn trong các tổ chức này có khả năng đáp ứng tất cả các chỉ tiêu cần kiểm tra theo yêu cầu của cơ quan chức năng trong nước và thị trường quốc tế.
Hiện các DN thủy sản Việt Nam áp dụng hệ thống quản lý chất lượng như hệ thống quản lý chất lượng theo GMP (quy phạm sản xuất tốt), SSOP (quy phạm vệ sinh tốt) và HACCP (phân tích mối nguy và kiểm soát điểm tới hạn trong ngành chế biến thực phẩm), xây dựng hệ thống cảnh báo môi trường dịch bệnh thủy sản...
Lĩnh vực an toàn vệ sinh thuỷ sản được cải thiện qua các hoạt động hội nhập quốc tế với nhiều nước. Chương trình quản lý chất lượng thuỷ sản HACCP được giới thiệu và áp dụng thành công tại Việt Nam từ những năm đầu thập kỷ 90. Nhiều phòng thí nghiệm ở các địa phương được hỗ trợ trang thiết bị tiên tiến để kiểm tra chất lượng theo HACCP. Đồng thời, hội nhập quốc tế cũng tạo điều kiện để áp dụng Quy trình phân tích dư lượng các chất kháng sinh và hoá chất. Đặc biệt, nhiều cán bộ của Việt Nam đã được đào tạo về các phương pháp kiểm tra chất lượng, phân tích dư lượng kháng sinh… nhiều đoàn cán bộ tham dự hội thảo và trao đổi kinh nghiệm để nâng cao kiến thức và tiếp cận với các hệ thống an toàn thực phẩm trên thế giới.
Các phòng kiểm nghiệm về chất lượng, an toàn vệ sinh thủy sản thuộc Cục Quản lý Chất lượng Nông Lâm sản và Thủy sản đã áp dụng hệ thống đảm bảo chất lượng phòng kiểm nghiệm và được văn phòng công nhận Việt Nam (VILAS-BoA); cơ quan công nhận Singapore (SAC-Singlas) công nhận hai phòng kiểm nghiệm; Nauy (NA) công nhận 1 phòng kiểm nghiệm vi sinh phù hợp theo tiêu chuẩn ISO 17025. Hàng năm, các phòng kiểm nghiệm của các Trung tâm tham gia thử nghiệm liên phòng quốc tế đạt kết quả tốt (về cả vi sinh, kháng sinh và kim loại nặng).
Năng lực kiểm tra, kiểm nghiệm của Cục Quản lý Chất lượng Nông Lâm sản và Thủy sản cũng đã được cơ quan thẩm quyền các nước nhập khẩu công nhận thông qua việc các đoàn thanh tra, kiểm tra định kỳ của các nước EU, Mỹ, Canada, Hàn Quốc, Trung Quốc... kiểm tra trực tiếp và đều được đánh giá đủ năng lực để đáp ứng yêu cầu quản lý. Cho tới nay, có thể tự hào rằng hệ thống kiểm tra chất lượng thuỷ sản của Việt Nam không thua kém các nước.
3.2.2 Ở góc độ doanh nghiệp
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn các tỉnh, thành phố và Cục Quản lý Chất lượng Nông Lâm sản và Thủy sản chịu trách nhiệm tổ chức kiểm tra và công nhận đủ điều kiện đảm bảo an toàn thực phẩm đối với các loại hình cơ sở sản xuất, kinh doanh thủy sản
Căn cứ để kiểm tra và công nhận Cơ sở đủ điều kiện đảm bảo an toàn thực phẩm là các văn bản pháp quy về an toàn thực phẩm của Nhà nước (Cục Quản lý Chất lượng Nông Lâm sản và Thủy sản tập hợp và lập danh mục các Qui định, Tiêu chuẩn, Qui chuẩn kỹ thuật của Việt Nam và thị trường nhập khẩu về điều kiện đảm bảo an toàn thực phẩm thủy sản để thống nhất áp dụng), của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các Bộ ngành có liên quan.
Đối với các Cơ sở có sản phẩm thủy sản xuất khẩu, việc kiểm tra và công nhận đủ điều kiện đảm bảo an toàn thực phẩm còn căn cứ theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập, các thỏa thuận song phương, các quy định
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26577.doc