Đề án Qui luật giá trị và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường ở nước ta

Để có được cái nhìn tổng thể về vai trò của qui luật giá trị đã tác động đến nền kinh tế như thế nào không thể không xem xét đến nền tảng kinh tế đang duy trì sự tồn tại của nó là gì. Bỏ qua mất điều ấy chúng ta không thể hiểu được vai trò của qui luật giá trị được thể hiện hay không thể hiện, và nếu được phát huy tác dụng thì nó có tác dụng đến đâu, từ đó ta không thể nào hiểu chính xác và có những biện pháp vận dụng qui luật giá trị một cách phù hợp. Ở Việt Nam khi nghiên cứu về nền kinh tế thị trường hiện nay, chúng ta cũng cần có sự nhìn nhận và đánh giá lại nền kinh tế tập trung trước kia để hiểu rõ thêm về sự cần thiết phải chuyển sang nền kinh tế thị trường và khẳng định thêm về con đường đúng đắn đó. Lịch sử không chỉ là những gì đã qua mà nó hàm chứa trong đó những bài học cần thiết và những yếu tố làm nền tảng của hiện tại và tương lai. Nghiên cứu lại lịch sử giúp cho chúng ta thấy con đường đi của tương lai và biết được con đường đi cho hiện tại.

 

doc30 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1737 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Qui luật giá trị và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ó khả năng và sẵn sàng mua Với nền sản xuất hàng hoá, tức là sản xuất ra hàng hoá không phải để tiêu dùng nữa mà là để bán thì xuất hiện một mâu thuẫn đó là người bán thì muốn giá trị nhưng phải thực hiện giá trị sử dụng, còn người mua cần giá trị sử dụng thì lại cần giá trị. Từ khi xuất hiện thương nhân và tiền thì quá trình trao đổi càng trở nên thuận tiện, song số phận cuối cùng của sản phẩm thì không ai có thể biết được. Người mua và người bán thường ngày càng không hiểu rõ về nhau, hành động không ăn khớp với nhau. Điều này xuất phát từ ba nguyên nhân : + Một là, Tình trạng vô chính phủ trong sản xuất và lưu thông + Hai là, có rất nhiều người mua và người bán tham gia trên thị trường + Ba là, nhu cầu của con người là hết sức phong phú và đa dạng, thay đổi liên tục và khi ấy sản phẩm và sản xuất đều phó mặc cho ngẫu nhiên quyết định. Nhưng chính trong vô vàn cái ngẫu nhiên đó lại đang tồn tại cái tất yếu, sự vô trật tự lại là trật tự của tự nhiên- đó là quy luật Cung Cầu. + Khi Cung vượt quá Cầu, ngay lập tức sự dư thừa về hàng hoá xảy ra và lúc này những người bán cạnh tranh với nhau để tiêu thụ được hàng hoá, điều này làm cho gía cả hàng hoá có xu hướng giảm xuống. Kết quả là một, làm cho một số người bán không chịu nổi bị bật ra; hai, gía giảm làm tăng số người mua, tựu chung lại là làm cho Cầu tăng lên, cung giảm xuống và Cung Cầu tiến tới vị trí cân bằng + Khi Cung nhỏ hơn Cầu, sự thiếu hụt về hàng hoá xảy ra và lúc này những người mua lại cạnh tranh với nhau để mua được hàng hoá, điều này làm cho giá cả có xu hướng tăng lên. Kết quả là, một- một số người mua không chịu nổi giá cao đã bị bật ra khỏi cuộc cạnh tranh, hai – giá cao làm người bán sản xuất nhiều hơn và nhiều người bán tham gia vào hơn, tựu chung lại là làm cho Cung tăng lên và Cầu giảm xuống và Cung Cầu lại tiến tới vị trí cân bằng + Khi Cung và Cầu cân bằng với nhau, lúc này hàng hoá ở trạng thái cân bằng và giá cả hàng hoá có xu hướng ổn định; khi đó giá cả phản ánh đúng gía trị của hàng hoá. Như đã phân tích ở trên vì người bán không hề biết rằng người mua cần bao nhiêu hàng hoá và người mua lại không hề biết người bán bán bao nhiêu hàng hoá, do đó mà trước nay Cung và Cầu luôn có xung hướng cân bằng mà không đạt được trạng thái cân bằng. Nếu có, sự cân bằng đó cũng chỉ có tính chất thoảng qua và ngẫu nhiên mà không bền vững, điều này giải thích cho tại sao giá cả thường xuyên chỉ xoay quanh giá trị mà ít khi phù hợp với giá trị. Do đó, ta thấy rõ ràng rằng cung cầu chỉ ảnh hưởng tới giá cả, ngược lại giá cả không những biểu diễn quan hệ cung cầu mà còn quyết định cả quan hệ cung cầu. Hiểu được điều này không những góp phần giải thích rõ thêm về qui luật giá trị mà còn có ý nghĩa phê phán quan điểm không đúng đắn coi rằng chính quan hệ cung cầu đã quyết định giá cả hàng hoá chứ không phải là giá trị; coi qui luật Cung Cầu là một qui luật tuyệt diệu của nền kinh tế thị trường mà phủ nhận qui luật giá trị. Tác dụng của qui luật giá trị Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá Trong sản xuất qui luật gía trị có tác dụng điều tiết sự phân phối giữ tư liệu sản xuất và sức lao động giữa các ngành sản xuất hàng hoá thông qua giá cả. Do quan hệ cung cầu chi phối mà giá cả không những chỉ biểu diễn sự biến động của quan hệ cung cầu mà còn có tác dụng điều tiết ngược lại quan hệ cung cầu. Nếu có ngành nào đó cung không đáp ứng được cầu thì giá cả hàng hoá sẽ lên cao, việc đó dẫn đến tình trạng một khối lượng tư bản sẽ được thu hút đầu tư vào ngành đó để thu được nhiều lợi nhuận, kết quả là sản xuất được mở rộng, khối lượng tư liệu sản xuất và sức lao động gia tăng. Ngược lại, nếu có ngành nào đó cung vượt quá cầu hàng hoá bị dư thừa, làm cho giá cả hàng hoá hạ xuống thì sẽ có một khối lượng tư bản được rút ra để đầu tư vào ngành nào đó có tỷ suất lợi nhuận cao hơn. Nhờ vậy tư liệu sản xuất và sức lao động được phân phối một cách tự phát vào các ngành sản xuất khác nhau giúp cho quá trình sản xuất giữ được trạng thái cân bằng giữa các ngành. Trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá, qui luật giá trị có tác dụng như là một dòng chảy tự nhiên đưa hàng hoá từ nơi có giá cả cao tới nơi có giá cả thấp. Tại vùng hoặc khu vực nào có giá cả cao tức là thể hiện hai nét : + một là, nơi đó cung ít hơn cầu + hai là, giá cả đang được bán cao hơn giá trị và lợi nhuận thu được sẽ lớn. Như vậy sẽ có những nhà tư bản mang sản phẩm của mình tới đó để bán nhằm thu được lợi nhuận cao. Điều đó làm cho cung hàng hoá tăng lên và theo qui luật làm cho giá cả của hàng hoá hạ xuống, kết quả là giá cả của các vùng có xu hướng cân bằng với nhau, không có nơi nào giá cả qúa cao và quá thấp. Tuy nhiên do tình trạng vô chính phủ trong sản xuất và lưu thông hàng hoá trong xã hội hiện thời mà trạng thái cân bằng trên đạt được (cũng như sự đạt được cân bằng của Cung Cầu) chỉ mang tính chất thoáng qua và ngẫu nhiên. Trạng thái cơ bản là không cân bằng. Suy nghĩ lý tính chỉ ra cho nhà tư bản rằng chỉ nên sản xuất vừa đủ thôi, nhưng thực tiễn thì không như thế, sự ham muốn về lợi nhuận quá mức của các nhà tư bản riêng lẻ cộng với sự thiếu quản lý chung trong sản xuất luôn dẫn tới tới tình trạng mất cân đối. Điều này được chứng minh bởi những cuộc khủng hoảng kinh tế chu kỳ của nền kinh tế TBCN, đó là những cuộc khủng hoảng thừa cứ diễn ra đều đặn mà không sao khắc phục nổi. Kích thích lực lượng sản xuất phát triển Qui luật giá trị và qui luật cạnh tranh chỉ ra rằng để sống sót trong điều kiện kinh doanh ngày càng khắc nghiệt và có lãi thì nhà tư bản phải không ngừng đổi mới công nghệ để nâng cao năng suất lao động, cố gắng để thời gian lao động cá biệt của mình thấp hơn thời gian lao động xã hội. Do đó trong những nhà tư bản luôn có sự thi đua về mọi mặt để tăng thêm sự phân công lao động và máy móc hiện đại. Nhà tư bản nào có năng suất lao động càng cao thì càng thu được nhiều lợi nhuận hơn so với người khác. Nhưng đặc quyền của nhà tư bản không được lâu vì sớm hay muộn gì thì những nhà tư bản khác cũng đạt được năng suất lao động như thế hoặc lớn hơn và việc cải tiến như vậy trở thành phổ biến cho đến lúc mà giá cả hạ xuống không những dưới chi phí sản xuất của hàng hoá trước kia mà còn dưới cả chi phi sản xuất mới để tạo ra hàng hoá đó. Cứ như thế ta thấy cách thức sản xuất và tư liệu sản xuất luôn luôn bị biến đổi, sự phân công lao động ngày càng trở lên tỉ mỉ hơn, máy móc thì ngày càng được áp dụng với quy mô lớn hơn và hiện đại hơn. Qui luật giá trị luôn luôn hất sản xuất tư sản ra khỏi con đường cũ và luôn luôn buộc tư bản làm cho sức sản xuất của lao động khẩn trương thêm vì trước đó đã làm cho sức sản xuất trở thành khẩn trương. Đó là qui luật không cho nhà tư bản nghỉ ngơi một chút nào và luôn rỉ tai vào nhà tư bản: “tiến lên! tiến lên nữa đi!”(1) Kết quả là nhờ những mưu toan thu lợi cá nhân trong cuộc chạy đua về lợi nhuận giữa các nhà tư bản mà làm cho lực lượng sản xuất được lớn mạnh không ngừng, tạo ra những tiến bộ vượt bực về khoa học kỹ thuật, Hàng hoá được tuôn ra ào ạt với khối lượng lớn hơn nhiều lần truớc đó đã tạo ra. Thực tiễn đã chứng minh, ngày nay khoa học công nghệ đã thay đổi chóng mặt. Trước kia tuổi thọ một công nghệ khoảng chừng 20 năm thì nay được rút ngắn lại chỉ còn 5 tới 10 năm, cả thế giới đang bước vào nền kinh tế tri thức trong đó chất xám (con người) đóng vai trò quan trọng và chủ yếu. Nhiều máy móc tinh vi và hiện đại đời như máy tính điện tử đã làm thay đổi cả cuộc sống của con người. Sự phát triển đó kéo theo hàng loạt các sự phát triển khác làm cho công cụ sản xuất có những tiến bộ vượt bậc Thực hiện sự bình tuyển tự nhiên và phân hoá giàu nghèo Trong cuộc cạnh tranh chạy theo giá trị và lợi nhuận luôn xác định ra rõ ràng về hai phía của chiến tuyến- những người thắng trận và những người bại trận. Những người nhờ vào sự thông minh và khéo léo hơn, tháo vát và có sức lực sẽ làm tốt,làm giỏi có hao phí cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động xã hội cần thiết thì sẽ thu được nhiều lợi nhuận. Họ sẽ đánh bật những đối thủ cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường, cũng nhờ việc thu nhiều lợi nhuận mà họ lại có thêm tư bản để mua sắm thêm tư liệu sản xuất, đổi mới máy móc và cải tiến kỹ thuật, mở rộng quy mô, do đó mà sự tập trung và tích luỹ ngày càng gia tăng họ trở lên giàu có. Ngược lại những người yếu ớt và vụng về hơn hoặc vì gặp những rủi ro trong kinh doanh thì không cạnh tranh được, họ bị thua lỗ, thậm chí phá sản và bị hất cẳng khỏi thị truờng. Lúc này trong tay họ lại không có tư liệu sản xuất, để duy trì cuộc sống họ buộc phải bán sức lao động của mình, số phận họ lại trở thành những người lao động làm thuê thay cho là ông chủ. (1) : Cac Mac, Lao động làm công và tư bản, C.Mac- F. Ăng ghen tuyển tập, tập 1, Nhà xuất bản sự thật, 1992. Về phương diện tự nhiên, qui luật giá trị có ý nghĩa bình tuyển, xếp hạng người sản xuất. Người nào thành công sẽ được hưởng những phần thưởng xứng đáng còn những người thất bại sẽ phải chịu những hình phạt, về điểm này qui luật giá trị đã mang lại sự bình đẳng với những người sản xuất, giúp cho quá trình sản xuất ngày càng được nâng cao và phát triển. Về phương diện xã hội, qui luật giá trị đã phân chia xã hội thành những người giàu và kẻ nghèo. Mỗi sự cạnh tranh hôm nay là chuẩn bị cho cuộc cạnh tranh khốc liệt và mạnh mẽ hơn của ngày mai, và khi nào qui luật giá trị còn phát huy tác dụng của nó, các cuộc cạnh tranh còn diễn ra thì xã hội còn bị phân hoá giàu nghèo. Cạnh tranh càng sâu sắc hơn thì sự phân hoá giàu nghèo càng diễn ra rõ nét hơn. Lịch sử của sản xuất hàng hoá từ giản đơn cho đến phát triển như ngày hôm nay đã đang và sẽ chứng minh điều đó. Quan hệ chủ nô - nô lệ; quan hệ địa chủ – nông nô; quan hệ chủ – thợ , quan hệ tư sản – vô sản luôn là những qua hệ trái ngược và đối kháng nhau về lợi ích kinh tế. Sự đối kháng đó tất yếu sẽ dẫn đến những mâu thuẫn về mặt xã hội, dẫn đến cuộc đấu tranh của những người nghèo chống lại kẻ giàu. Điều này xuất hiện như một hiện tượng tự nhiên, đó là khuyết tật cố hữu và thuộc về bản chất của nền sản xuất hàng hoá, nền kinh tế thị trường. Qui luật giá trị mang lại sự phát triển nhưng không loại trừ được sự mâu thuẫn, mang lại sự giàu có nhưng không xoá bỏ được sự nghèo nàn. Chừng nào còn tồn tại nền kinh tế hàng hoá thì vẫn còn điều kiện cho sự tồn tại của qui luật giá trị. Hiểu được điều đó giúp chúng ta biết được phải thừa nhận qui luật giá trị như sự tồn tại khách quan, có những biện pháp phát huy vai trò tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của nó trong nền kinh tế thị trường. Chương 2 : Vai trò của qui luật giá trị trong nền kinh tế thị trường ở nước ta và một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của qui luật giá trị trong thời gian tới. Vai trò của qui luật giá trị đối với nền kinh tế trước thời kỳ đổi mới Để có được cái nhìn tổng thể về vai trò của qui luật giá trị đã tác động đến nền kinh tế như thế nào không thể không xem xét đến nền tảng kinh tế đang duy trì sự tồn tại của nó là gì. Bỏ qua mất điều ấy chúng ta không thể hiểu được vai trò của qui luật giá trị được thể hiện hay không thể hiện, và nếu được phát huy tác dụng thì nó có tác dụng đến đâu, từ đó ta không thể nào hiểu chính xác và có những biện pháp vận dụng qui luật giá trị một cách phù hợp. ở Việt Nam khi nghiên cứu về nền kinh tế thị trường hiện nay, chúng ta cũng cần có sự nhìn nhận và đánh giá lại nền kinh tế tập trung trước kia để hiểu rõ thêm về sự cần thiết phải chuyển sang nền kinh tế thị trường và khẳng định thêm về con đường đúng đắn đó. Lịch sử không chỉ là những gì đã qua mà nó hàm chứa trong đó những bài học cần thiết và những yếu tố làm nền tảng của hiện tại và tương lai. Nghiên cứu lại lịch sử giúp cho chúng ta thấy con đường đi của tương lai và biết được con đường đi cho hiện tại. Trước năm 1986, nước ta duy trì cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp có đặc trưng: Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu, tất cả nền kinh tế được kế hoạch hoá và trung ương giao chỉ tiêu pháp lệnh đến cho các địa phương. Các cơ quan hành chính- kinh tế can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về mặt vật chất đối với các quyết định của mình Bỏ qua quan hệ hàng hoá - tiền tệ và hiệu quả của nền kinh tế, quản lý nền kinh tế và kế hoạch hoá bằng phương thức cấp phát và giao nộp. Nó được thể hiện là nhà nước bao cấp giá, bao tiêu sản phẩm, bao cấp qua cấp phát vốn của ngân sách nhà nước, mà không ràng buộc vật chất đối với người được cấp phát vốn Trong điều kiện như thế, qui luật giá trị đã không thể phát huy được tác dụng của mình, sự tồn tại của qui luật giá trị chỉ như một chiếc bóng lờ mờ trước một nền kinh tế không căn cứ vào giá trị của hàng hoá mà dựa vào chỉ tiêu pháp lệnh. Các doanh nghiệp được bao tiêu sản phẩm do đó mà không có sự cạnh tranh, cả nước sản xuất và phân phối theo kế hoạch cứng định trước nên thiếu sự năng động. Thị trường không được coi trọng do đó mà các quan hệ cung cầu bị thủ tiêu. Nền kinh tế hết sức kém phát triển. Vai trò của qui luật giá trị đối với nền kinh tế thị trường ở nước ta sau thời kỳ đổi mới Thực hiện sự đổi mới. Nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc phải đưa nền kinh tế thoát ra khỏi sự lạc hậu và nghèo đói, Đại hội Đảng toàn quốc họp năm 1986 đã ra nghị quyết về sự đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của nước ta, đó là xoá bỏ cơ chế bao cấp chuyển dần sang cơ chế thị trường. Tuy nhiên phải tới năm 1991, sau khi đã thực hiện một số thí điểm thành công, Đại hội Đảng toàn quốc lần VII thông qua cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội khẳng định phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, thì mới có sự chuyển biến thực sự mạnh mẽ. Năm 1992, bản Hiến pháp của thời kỳ đổi mới ra đời đã thể chế hoá tư tưởng trên thành qui định tại điều 15 “Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng” tạo cơ sở pháp lý cho sự ra đời nền kinh tế thị trường ở nước ta. Hiến pháp 1992 cũng ghi nhận nguyên tắc Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới, từng bước mở của thực hiện hội nhập hoá nền kinh tế Việt Nam. Sự đổi mới đó đã như một luồng gió mới thổi vào nền kinh tế khô cằn của nước ta tạo nên những chuyển biến rõ rệt. Từ đó cho tới nay mô hình nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã dần định hình với những đặc điểm: Nền kinh tế trong quá trình chuyển biến từ nền kinh tế kém phát triển mang nặng tính tự cấp, tự túc và quản lý theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường. Nền kinh tế có nhiều thành phần kinh tế với nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Các thành phần kinh tế đều bình đẳng, trong đó thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Nền kinh tế phát triển theo hướng mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài. Nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa thông qua bản chất và vai trò quản lý của nhà nước. Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là phát triển sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật của CNXH. Kinh tế thị trường định hướng XHCN thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn và trí tuệ vào sản xuất kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội; tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. Vai trò của qui luật giá trị đối với nền kinh tế nước ta. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ra đời đã tạo những điều kiện cần thiết và đầy đủ để qui luật giá trị phát huy tác dụng của nó. Ngược lại tác dụng của qui luật giá trị đống một vai trò hết sức to lớn trong việc củng cố và phát triển kinh tế thị trường. Từ một nền kinh tế lạc hậu, hàng hoá khan hiếm, kỹ thuật công nghệ lạc hậu thì nay đã trở thành một nền kinh tế có sức cạnh tranh, năng động và coi trọng khoa học công nghệ đó là nhờ những đóng góp to lớn mà qui luật giá trị đã mang lại cho sự phát triển nhanh chóng đó. Điều này được thể hiện ở chỗ: Thứ nhất,về mặt tích cực Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Sau 18 năm đổi mới lực lượng sản xuất ở nước ta đã có những sự tiến bộ rõ rệt. Đối với nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động mua bán và trao đổi đều được diễn ra ở thị trường theo nguyên tắc ngang giá, tức là trao đổi dụa vào thời gian lao động xã hội cần thiết để tạo nên sản phẩm. Khác với trước kia nhà nước không bao tiêu sản phẩm nữa, để không bị đào thải thì các doanh nghiệp phải ra sức tăng năng suất lao động, hợp lý hoá sản xuất, nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân, đổi mới máy móc và công nghệ theo hướng hiện đại hoá. Sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế có tác dụng thu hút tất cả các thành viên trong xã hội tham gia vào lao động giúp cho sản lượng hàng hoá tăng nhanh chóng. Điều đó được thể hiện ở một số điểm sau: Nhờ hoạt động chuyển giao công nghệ và những sáng kiến cải tiến kỹ thuật để tăng năng suất lao động mà công cụ lao động ở nước ta ngày một hiện đại, có một số ngành đã có những máy móc thiết bị ngang tầm khu vực và thế giới. Trình độ tay nghề và học vấn của người công nhân được nâng cao. Số công nhân có trình độ trung học và cao đẳng, đại học ngày càng tăng; công nhân ngày nay có khả năng nắm bắt được các công nghệ hiện đại. Khoa học kỹ thuật đang trở thành một lực lượng sản xuất chủ yếu. Hàm lượng “chất xám” chức đựng trong sản phẩm ngày một tăng. Đội các nhà khoa học tham gia và sản xuất ngày một đông Với sự phát triển của lực lượng sản xuất như thế, nền kinh tế đã có bước tiến lên mạnh mẽ. Nhịp độ tăng trưởng GDP hàng năm bình quân 6,7%/năm, tổng quỹ tích luỹ tăng bình quân hàng năm gần 10%/năm. Tỷ lệ tiết kiệm trong nước so với GDP từ 17,2% năm 1995 tăng lên 25% năm 2000. Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng bình quân 5%/năm trong đó giá trị sản xuất nông nghiệp trên một dơn vị đất nông nghiệp tăng từ 13,5 triệu đồng/ha năm 1995 lên 17,5 triệu đồng/ ha năm 2000, sản lượng thịt hơi các loại năm 2000 ước trên 1,7 triệu tấn bằng 1,3 lần so với năm 1995. Nghề nuôi trồng và đánh bắt thuỷ hải sản khá, sản lượng năm 2000 đạt 1,9 triệu tấn vượt mức kế hoạch đề ra. Trong công nghiệp cũng đạt được những thành tựu đáng kể, nhịp độ tăng giá trị sản xuất bình quân 12,2%/năm, sản lượng dầu thô tăng 2,2 lần; điện tăng 1,8 lần; than sạch vượt ngưỡng 10 triệu tấn; thép cán gấp hơn 3 lần; ximăng gấp 2 lần…. Các ngành dịch vụ cũng có sự thay đổi rõ nét, giá trị dịch vụ tăng bình quân 6,4%/năm (số liệu của năm 2000 so với năm 1995)(1) . Tất cả các con số trên đã chứng tỏ lực lượng sản xuất đã phát triển một cách nhanh chóng và năng suất lao động được nâng cao. Nâng cao sự cạnh tranh của nền kinh tế, tạo ra sự năng động cho kinh tế Việt Nam Qui luật giá trị chỉ ra rằng muốn tồn tại và thu được lợi nhuận thì các doanh nghiệp phải có thời gian lao động cá biệt của mình nhỏ hơn thời gian thời gian lao động xã hội cần thiết, mà thời gian lao động xã hội cần thiết chính là thời gian phổ biến của những người sản xuất để sản xuất ra một hàng hoá cùng loại. Như vậy để thu được lợi nhuận thì người sản xuất luôn phải tìm cách chiến thắng đa số những người sản xuất khác vì thế mà xảy ra cạnh tranh. ở nước ta từ khi nền kinh tế thị trường ra đời, tình trạng cũng xảy ra như thế. Với sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế đã có sự cạnh tranh mạnh mẽ, cạnh tranh của những thành phần kinh tế với nhau, cạnh tranh giữa nội bộ các doanh nghiệp trong một thành phần kinh tế thậm chí cong có cả cạnh tranh giữa những người mua với nhau để được hàng hoá chất lượng tốt và giá rẻ hoặc như phương thức đấu thầu. Sự cạnh tranh đó ngoài việc thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển như đã phân tích ở phần trên, còn làm cho thoả mãn người tiêu dùng. Ngày nay nguyên tắc “khách hàng là thượng đế ” là nguyên tắc phổ biến cho mọi người bán. Doanh nghiệp bằng mọi phương thức như quảng cáo, tiếp thị, xúc tiến bán… tìm đến khác hàng và thoả mãn khách hàng nhằm mục đích tiêu thụ hàng hóa của mình đã tạo ra sự năng động trong nền kinh tế. Chất lượng hàng hoá và dịch vụ ngày một được nâng cao, phong phú về chủng loại, kiểu dáng và hình thức hết sức đa dạng phù hợp với từng loại khách hàng. Tư duy và hoạt động của từng cá nhân cũng như cả xã hội cũng có sự thay đổi lớn. Kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đã giải phóng sức sản xuất cho toàn thể xã hội, nguồn nội lực tiềm tàng trong nhân dân bấy lâu nay ngủ yên nay được đánh thức trỗi dậy, cả nước thi đua làm kinh tế. Trước nền kinh tế thị trường dường như ai cũng thông minh hơn, nhanh nhẹn hơn và hiểu biết thông tin nhiều hơn. Xã hội đang hình thành lối sống công nghiệp- kỷ luật và năng động thay cho lối sống nông nghiệp bảo thủ và trì trệ trước kia. Sự cạnh tranh và ganh đua trở thành điều bình thường, hơn lúc nào hết tinh thần làm giàu và khuyến khích làm giàu một cách chính đáng lại đựoc coi trọng như hiện nay. Thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế Cơ cấu nền kinh tế cảu một nước được hiểu là tổng thể các quan hệ kinh tế hay các bộ phận hợp thành của nền kinh tế; gắn liền với trình độ kỹ thuật công nghệ, qyu mô, tỷ trọng tương ứng với từng bộ phận và mối quan hệ tương tác giữa các bộ phận; gắn liền với điều kiện kinh tế xã hội trong từng giai đoạn phát triển nhất định, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế đã đặt ra. Vì tác dụng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, năng suất lao động tăng cao đi kèm với nó là mức sống đi lên mà qui luật giá trị làm thay đổi cơ cấu của nền kinh tế, cụ thể là: tỷ trọng và số tuyệt đối lao động nông nghiệp giảm dần, tỷ trọng và số lao động tuyệt đối trong công nghiệp tăng lên tỷ trọng và số tuyệt đối lao động trí tuệ ngày một tăng và chiếm ưu thê so với lao động giản đơn trong tổng lao động xã hội tốc độ tăng lao động trong các ngành sản xuất phi vật chất tăng nhanh hơn tốc độ tốc độ lao động trong các ngành sản xuất vật chất. Xã hội hoá kinh tế và hội nhập kinh tế đã hình thành một cơ cấu kinh tế hợp lý về nghành cũng như trên địa bàn lãnh thổ, giải quyết mối quan hệ về lơi ích phát triển giữa toàn cục với bộ phận , đầu tư có trọng điểm ở từng thời kỳ và gắn với thị trường thế giới. Về cơ cấu ngành kinh tế, qua thời gian đổi mới đã có những chuyển biến đáng khích lệ: năm 1990 so với năm 2000, tỷ trọng trong GDP nông nghiệp từ 38,7% giảm xuống 25%, công nghiệp tăng từ 22,7% lên 34,5%, dịch vụ tăng 38,6 lên 40,5%. Nước ta đã chuyển sang một thời kỳ mới – thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá phấn đấu đến năm 2010 tỷ trọng GDP của nông nghiệp từ 16% đến 17%, công nghiệp từ 40% đến 41%, dịch vụ 42% đến 43%. Tỷ lệ lao động trong nông nghiệp còn khoản 50%. Tỷ lệ dân cư đô thị khoảng 32% đến 33%, đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp. Về cơ cấu vùng kinh tế, nước ta đã có nhiều các khu công nghiệp tập trung sản xuất các hàng hoá và dịch vụ gắn liền với các vùng có thế mạnh về nguyên vật liệu hoặc các vùng có điều kiện thuận lợi. Mỗi khu vực Bắc–Trung–Nam đều có những tam giác trọng điểm phát triển kinh tế làm đầu tầu cho sự phát triển của cả vùng. Đặc biệt trong những năm gần đây kinh té biển phát triển mạnh, nghề nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản đã thu kết quả đáng khích lệ; khai thác và chế biến dầu mỏ; du lịch và dịch vụ trên biển đóng góp một phần quan trọng trong tổng thu nhập quốc dân. Trong những năm tới Chính phủ chủ trương tiếp tục phát triển các vùng động lực có mức tăng trưởng cao, tích luỹ lớn, bền vững về kết cấu hạ tầng, môi trường. Đồng thời phát triển các vùng khác trên cơ sở phát huy thế mạnh của từng vùng, liên kết với các vùng động lực tạo mức tăng trưởng khá. Đặc biệt quan tâm phát triển kinh tế ở các vùng biên giới. Có chính sách hỗ trợ nhiều hơn cho các vùng khó khăn phát triển kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực, nâng cao dân trí xoá đói giảm nghèo… giúp các vung này vượt qua tình trạng chậm phát triển và thu hẹp khoảng cách giữa các vùng. Thúc đẩy quá trình mở cửa giao lưu với nền kinh tế quốc tế Với mục đích tìm kiếm lợi nhuận, siêu lợi nhuận . Sự đầu tư trong nước và đầu tư ra nước ngoài ngày càng phát triển, hay nói cách khác là thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế. Mỗi nước đều có những ưu thế, lợi thế riêng. Do thời gian và trình độ xuất phát điểm của nền kinh tế khác nhau nên khi nước này cần vốn thì nước kia lại thừa.Do tốc độ phát triển khác nhau nên khi nước này phát triển thì nước kia lại quá lạc hậu ; do sự phân bố tài nguyên khác nhau nên nước này có điều kiện sản xuất cái này, nước kia có điều kiện sản xuất cái kia và tạo ra một lợi thế so sánh trên thương trường. Điều này thúc đẩy sự chuyên môn hoá, hiệp tác hoá sản xuất để có chi phí sản xuất thấp và tuân theo sự điều tiết của quy luật giá trị , chi phí sản xuất thấp sẽ làm cho giá cả thấp, và do đó thắng trên thương

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35514.doc
Tài liệu liên quan